Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.66 KB, 13 trang )

Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

A. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC TẠM ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ:
I. Một số khái quát chung về tạm đình chỉ vụ án dân sự:
1. Khái niệm:
Tạm đình chỉ vụ án dân sự là hành vi tố tụng của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử. Cụ thể, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu có căn cứ do pháp
luật quy định để tạm ngừng việc giải quyết vụ án dân sự thì tòa án sẽ quyết định
tạm ngừng giải quyết vụ án. Để có một khái niệm toàn diện về tạm đình chỉ vụ án
dân sự, ta phải làm rõ một số khái niệm bên trong nó.
-

Tạm đình chỉ: theo từ Tiếng Việt thì tạm đình chỉ có ý nghĩa là tạm ngừng,

tạm thời không thực hiện hoạt động đó trong một khoảng thời gian nhất định,
khi có điều kiện sẽ thực hiện tiếp công việc đó.
- Vụ án dân sự: là các tranh chấp quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ
pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động.
- Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc toà án quyết định tạm ngừng việc
giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định.
2. Đặc điểm của việc tạm đình chỉ vụ án dân sự:
Thứ nhất: Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải dựa trên những căn
cứ mà pháp luật đã quy định trước (quy định tại Điều 189 BLTTDS năm 2004),
trên cơ sở đảm bảo các quyền tố tụng dân sự, đảm bảo sự chính xác và đúng đắn
trong việc giải quyết vụ án hoặc đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức
trong việc giải quyết vụ án.
Thứ hai: Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc cơ quan tiến hành tố
tụng (Toà án) chỉ tạm thời cho ngừng giải quyết vụ án dân sự đã được thụ lí chứ
không phải cho ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự. Việc tạm đình chỉ giải


quyết vụ án dân sự không phải là quyết định làm chấm dứt việc giải quyết vụ án
về nội dung vụ án dân sự mà nó chỉ có ỹ nghĩa làm tạm ngừng tiến trình tố tụng
đang được tiến hành do xuất hiện những tình tiết, sự kiện nhất định.
Thứ ba: Tính chất gián đoạn tạm thời của việc giải quyết vụ án dân sự do
quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự đem lại sẽ khắc phục, mọi hoạt động tố
tụng sẽ được khôi phục khi nguyên nhân của việc tạm đình chỉ không còn nữa.
1


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

Thứ tư: Thông thường việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể được
tiến hành ở Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
3. Cần có sự phân biệt rõ ràng giữa tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với
việc tạm ngừng phiên toà, phiên họp và hoãn phiên toà, phiên họp:
i) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với tạm ngừng phiên toà, phiên họp:
Tạm ngừng phiên toà, phiên họp cũng là việc tạm ngừng tiến hành các hoạt
động tố tụng đối với việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lí. Tuy nhiên, giữa tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có khác với tạm ngừng phiên toà, phiên họp:
+ Về bản chất pháp lí: thì tạm ngừng phiên toà, phiên họp được quyết định
khi toà án đang tiến hành phiên toà, phiên họp do có những lí do nhất định làm
cho phiên toà, phiên họp không thể tiếp tục được tíên hành, trong khi đó tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thông thường được Toà án quyết định trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, trong một số trường hợp nhất định thì việc tạm đình chỉ
quyết vụ án dân sự được toà án quyết định tại phiên toà, phiên họp.
+ Thời gian: Việc ngừng phiên toà, phiên họp chỉ được tiến hành trong một
khoảng thời gian ngắn do toà án ấn định, trong khi đó thời gian tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự thường tương đối dài và không mang tính xác định vì việc
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sẽ được tiến hành cho đến khi lí do của tạm

đình chỉ không còn nữa.
+ Căn cứ: căn cứ của việc tạm ngừng phiên toà, phiên họp thì việc tạm
ngừng phiên toà, phiên họp đang tiến hành là do Toà án cần có thêm thời gian để
làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ án đề có thể có quyết định đúng đắn cho việc
giải quyết như toà án cần phải xem xét chứng cứ, tài liệu để có cơ sở chắc chắn
cho kết luận về vụ việc. Còn căn cứ tạm đình chỉ (điều 189 BLTTDS 2004).
ii) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với việc hoãn phiên toà, phiên họp:
+ Về bản chất : Việc hoãn phiên toà, phiên họp về bản chất là việc toà án
quyết định không tiến hành phiên toà, phiên họp theo thời gian đã dự kiến và ấn
định từ trước do có những lí do nhất định. Việc quyết định hoãn phiên toà, phiên
họp được tiến hành tại phiên toà, phiên họp và thông thường là ở phần bắt đầu
phiên toà, phiên họp. Khi mở lại phiên toà, phiên họp thì các bước của phiên toà,
phiên họp sau đó phải được tiến hành lại từ đầu.
2


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

+ Căn cứ: xét về căn cứ thì việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là do
chưa có chủ thể kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, chưa xác định được người
đại diện hoặc chờ đợi kết quả giải quyết một vụ việc khác. Trong khi đó việc
hoãn phiên toà, phiên họp sẽ được toà án quyết định khi đương sự vắng mặt,
thẩm phán, hội thẩm nhân dân, người giám định, người phiên dịch vắng mặt
hoặc không thể tham gia tố tụng mà không có người thay thế ngay.
II. Quy định của pháp luật về việc tạm đình chỉ vụ án dân sự trong tố tụng dân
sự:
1. Những quy định về các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
Theo hướng dẫn tại phần II mục 8 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của
HĐTPTADNTC ngày 12/5/2006 thì “ Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ việc

giải quyết vụ án dân sự mà không phụ thuộc vào việc có hay không có yêu cầu của
đương sự khi xuất hiện một trong các căn cứ tại Điều 189 của BLTTDS”. Như vậy
chỉ cần đáp ứng điều kiện có căn cứ do pháp luật quy định thì Tòa án sẽ ra quyết
định tạm đình chỉ. Điều 189 BLTTDS 2004 đã quy định tương đối cụ thể các căn
cứ mà Tòa án khi đang giải quyết vụ án dân sự phải ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự. Bao gồm:
1.1 Đương sự là cá nhân chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể
mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá
nhân, cơ quan tổ chức đó ( khoản 1 Điều 189 BLTTDS)
i) Đương sự là cá nhân chết:
Căn cứ trên được áp dụng khi đương sự là cá nhân và là một trong các
đương sự đang tham gia vào việc giải quyết vụ án đã chết. Thực tiễn cho thấy
trong một số vụ án dân sự, Tòa án đang tiến hành giải quyết vụ án thì xảy ra sự
kiện đương sự là cá nhân bị chết nhưng lại chưa có chủ thể kế thừa quyền và
nghĩa vụ của họ, điều này sẽ làm gián đoạn việc giải quyết vụ án đang được tiến
hành tại Tòa án. Với căn cứ này có thể hiểu vì chưa xác định ngay được người
thừa kế, người thừa kế chưa sẵn sàng tham gia tố tụng nên tòa án phải ra quyết
định tạm đình chỉ vụ án để đảm bảo quyền tham gia tố tụng cũng như các quyền
và lợi ích của chủ thể này.

3


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

Theo quy định tại Điều 56 BLTTDS thì đương sự trong vụ án dân sự bao
gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Nếu trong quá
trình giải quyết vụ án, một trong các đương sự trên chết mà chưa có chủ thể kế
thừa quyền và nghĩa vụ thì Tòa án phải tạm ngừng việc giải quyết vụ án. So với

các quy định trong PLTTGQCVADS thì quy định trong BLTTDS đã khắc phục
được hạn chế trước đây. Bởi theo quy định trước đây thì việc tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự được áp dụng trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn chết mà
không áp dụng cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên Tòa án
đang giải quyết vụ án dân sự cũng chỉ được ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự khi đương sự là cá nhân chết nhưng quyền và nghĩa vụ tố
tụng của họ theo pháp luật quy định là được kế thừa. Điều 62 BLTTDS quy định
“ Đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền và nghĩa vụ tài sản
của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng”. Như vậy chỉ trong
trường hợp quyền và nghĩa vụ của đương sự đã chết là quyền và nghĩa vụ về tài
sản thì người thừa kế sẽ tham gia tố tụng còn đối với các quan hệ về nhân thân
thì không có sự kế thừa về quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Đây là một điểm
rất căn bản cần phải lưu ý để xác định là Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hay ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
ii) Đương sự là cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng phải chấm dứt hoạt động, bị
giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức mà chưa xác định
người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Theo hướng dẫn tại nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của HĐTPTANDTC:
“Trường hợp cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia tách mà chưa có cơ quan, tổ chức
kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó là trường hợp đã có quyết định
của cơ quan có thẩm quyền về việc sáp nhập, chia tách cơ quan đó nhưng cơ quan,
tổ chức mới chưa được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa đủ điều
kiện để hoạt động theo quy định của pháp luật đối với loại hình cơ quan , tổ chức
đó.”
Như vậy theo hướng dẫn trên nếu chưa xác định được cơ quan, tổ chức kế
thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đã bị sáp nhập, chia, tách, giải thể
thì Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đến khi khắc
4



Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

phục được tình trạng trên. Điều này có nghĩa là cơ quan, tổ chức đã sáp nhập,
chia, tách, giải thể nhưng theo quy định của pháp luật sẽ có cơ quan tổ chức
khác kế thừa quyền và nghĩa vụ đó thì Tòa án mới phải tạm đình chỉ giải quyết
vụ án. Cụ thể là theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 62 BLTTDS:
+ Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là
thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng.
+ Trường hợp cơ quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã
hội… thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức , tổ chức cấp trên của cơ quan,
tổ chức đó hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức được giao tiếp nhận các
quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó tham gia tố tụng.
+ Trường hợp tổ chức sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức
thì cá nhân, cơ quan nào tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó tham gia tố
tụng
+ Nếu đương sự là tổ chức nhưng không là pháp nhân mà người đại diện
hoặc người quản lý đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác
làm đại diện để tham gia tố tụng, nếu tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động, bị
giải thể thì cá nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng.
1.2 Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định
được người đại diện theo pháp luật ( khoản 2 Điều 189 BLTTDS)
Theo quy định của Điều 21 BLDS 2005 : “Người mất năng lực hành vi dân sự
là người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình”. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan
Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở chứng nhận của các tổ chức giám định. Do người mất năng lực hành vi dân
sự không có khả năng nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình nên họ

không thể trực tiếp tham gia tố tụng để thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng.
Họ được xác định là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Trong
trường hợp này cần có người đại diện theo pháp luật để tham gia tố tụng. Người
đại diện có thể là: cha mẹ đối với con chưa thành niên; người giám hộ đối với
5


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

người được giám hộ; người được Tòa án chỉ định đối với người bị mất năng lực
hành vi dân sự. Như vậy nếu đương sự là người bị mất năng lực hành vi dân sự
nhưng chưa xác định được người đại diện theo pháp luật của họ thì Tòa án phải
tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Quy định này nhằm bảo vệ quyền và các lợi ích
của đương sự cũng như đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác.
1.3 Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế
(khoản 3 Điều 189 BLTTDS)
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các đương sự có thể tự mình
hoặc nhờ người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng. Theo hướng dẫn của
Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006, đại diện hợp pháp của đương
sự bao gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Ngoài ra cơ quan
tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là
đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ (Điều 73
BLTTDS). Quan hệ đại diện là quan hệ pháp luật không tồn tại vĩnh viễn và có
thể bị chấm dứt khi có những sự kiện pháp lý nhất định. Tùy thuộc vào tính chất
của mỗi loại đại diện cụ thể, tùy thuộc vào ý chí của đương sự được đại diện mà
căn cứ chấm dứt mỗi loại đại diện khác nhau. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp,
việc chấm dứt đại diện đều dẫn đến một hệ quả pháp luật giống nhau đó là kết
thúc quan hệ pháp lý giữa người được đại diện và người được đại diện khi xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Để đảm bảo quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án
phải tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu việc chấm dứt đại diện hợp pháp của
đương sự mà cần phải có người đại diện khác để tham gia tố tụng nhưng chưa có
người thay thế ngay. Tuy nhiên trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp
luật của đương sự là cá nhân không có NLHVDS mà đương sự là cá nhân được
đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục NLHVDS thì đương sự sẽ tiếp tục
tham gia tố tụng hoặc có thể ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng.
Ngoài ra khi quan hệ ủy quyền chấm dứt thì đương sự hoặc người thừa kế
của đương sự sẽ tiếp tục hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố
tụng, vì vậy trong trường hợp quan hệ ủy quyền đã chấm dứt nhưng đương sự
hoặc người thừa kế của đương sự lại tiếp tục tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho
6


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

người khác tham gia tố tụng thì Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án đó mà
không ra quyết định tạm đình chỉ.
1.4 Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp
luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được
vụ án (khoản 4 Điều 189 BLTTDS)
i) Cần phải đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan
Đây là trường hợp vụ việc Tòa án đang giải quyết có liên quan đến vụ án
hành chính, dân sự…Tòa án muốn giải quyết được vụ án đang thụ lý thì phải
dựa vào kết quả giải quyết các vụ việc trước đó. Khi chưa có kết quả giải quyết
các vụ án có liên quan đó thì Tòa án không có đủ cơ sở, căn cứ để giải quyết vụ
án dân sự này. Từ quy định có thể viện dẫn đến quy định tại Điều 27 LPS 2004.
Theo quy định này thì kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
việc giải quyết các yêu cầu về giải quyết vụ án đòi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm

vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản phải tạm đình chỉ.
ii) Sự việc được quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới
giải quyết được vụ án.
Đây là trường hợp sau khi Tòa án thụ lý vụ án thì phát hiện được sự việc mà
đương sự yêu cầu phải được cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền giải quyết
trước. Trường hợp này Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự và hướng dẫn đương sự gửi đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức có thaamr
quyền giải quyết. Sau khi có kết quả giải quyết đương sự không đồng ý hoặc
không được giải quyết trong thời hạn thì Tòa án lại tiếp tục tiến hành giải quyết
vụ án. Theo quy định hiện nay, các trường hợp cần phải yêu cầu cơ quan, tổ
chức khác giải quyết trước là:
+ Đối với tranh chấp lao động cá nhân khi hội đồng hòa giải lao động cơ
sở hoặc hòa giải viên lao động hòa giải không thành hoặc không giải quyết trong
thời hạn luật định thì Tòa án nhân dân mới có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp. Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền, sau khi chủ tịch UBND cấp
huyện đã giải quyết mà hai bên vẫn còn tranh chấp hoặc hết thời hạn giải quyết
theo quy định mà chủ tịch UBND huyện không giải quyết thì TA mới giải quyết.

7


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

+ Đối với tranh chấp đất đai, Điều 136 Luật đất đai năm 2003 quy định
trường hợp tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ hợp lệ khác tại khoản 1, khoản 2
Điều 50 Luật đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thuộc thẩm quyền
của Tòa án khi tranh chấp đã được hòa giải tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn mà một trong các bên đương sự không nhất trí. Như vậy khi đơn kiện về

các tranh chấp đất đai mà chưa được hòa giải theo quy định của pháp luật đất
đai mà Tòa án đã thụ lý và sau đó phát hiện ra căn cứ này thì Tòa án phải ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án và hướng dẫn đương sự nộp đơn yêu
cầu ủy ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết trước.
1.5. Các trường hợp khác mà pháp luật quy định
Xét theo nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao ngày
12/5/2006 thì thực chất căn cứ này quy định về các trường hợp mà Tòa án có
quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nhưng chưa được liệt
kê trong BLTTDS và các căn cứ này có thể được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật khác. Đây là quy định mở, mang tính dự phòng đối với những
trường hợp phát sinh những lý do mà Tòa án cần thiết phải ra quyết định tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự mới đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự. Ví dụ như trường hợp được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 59
BLTTDS “ Nguyên đơn có quyền đề nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”.
2. Quy định pháp luật về hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
Căn cứ vào Điều 190, Điều 191 BLTTDS và điểm 9 mục II NQ số 02/2006/NQHĐTP thì hậu quả của việc tạm đình chỉ vụ án dân sự được quy định như sau:
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không phải là chấm dứt giải quyết vụ
án mà là tạm thời ngưng giải quyết vụ án, hoạt động tố tụng bị tạm thời bị gián
đoạn trong một thời gian nhất định. Hành vi của Tòa án được thể hiện bằng
Quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự.
Sau khi có quyết định về việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án không xóa
tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi vào sổ thụ lý ngày, tháng, năm của Quyết
định tạm đình chỉ; tiền tạm ứng án phí; lệ phí đương sự đã nộp được gửi tại kho
bạc và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án;
8


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự


Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm có
thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Vì vậy trong thời hạn 5
ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ tòa án phải gửi quyết định
đó cho đương sự và VKSND cùng cấp (Điều 190 BLTTDS). Tòa án sẽ tiếp tục
giải quyết VADS bị tạm đình chỉ khi lý do tạm đình chỉ không còn( Điều 191
BLTTDS).
3. Thời hạn tạm đình chỉ vụ án dân sự:
Pháp luật không có những quy định cụ thể về thời hạn tạm đình chỉ vụ án dân
sự. Tuy nhiên, Tùy thuộc vào từng trường hợp thực tế, sau khi có quyết định tạm
đình chỉ vụ án dân sự, nếu thấy lí do hay căn cứ tạm đình chỉ không còn thì tòa
án sẽ lại tiếp tục giải quyết vụ án.
B. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TẠM ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN DÂN SỰ - GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN:
I.

Thực trạng vấn đề tạm đình chỉ vụ án dân sự

1.

Những số liệu thống kê về việc áp dụng quy định pháp luật về tạm đình chỉ

vụ án dân sự trên thực tế:
Theo số liệu thống kê của Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân tối cao năm 2008
về tình hình giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy trong số các vụ án dân sự mà
Tòa án thụ lý thì số các vụ án bị tạm đình chỉ cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ:
- Đối với các vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự do Tòa án cấp huyện
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì số vụ án tồn lại trước đó là 10760 vụ, số vụ
mới thụ lý là 72321 vụ, đã giải quyết được 72494 vụ, số vụ bị tạm đình chỉ là
5102 vụ chiếm tỷ lệ là 7,03% tổng số vụ đã được giải quyết.
Ở các Tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì số lượng vụ án bị

tạm đình chỉ ở cấp sơ thẩm là tương đối lớn. Số tồn trước đó là 656 vụ, thụ lý
mới 2246 vụ, đã giải quyết 2068 vụ, trong đó số vụ việc bị tạm đình chỉ là 437 vụ
chiếm tỷ lệ 21,13% tổng số vụ việc đã được giải quyết.
- Số vụ án bị tạm đình chỉ ở ba Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là 3 vụ/
684 vụ đã giải quyết chiếm tỷ lệ 0,43%. Số vụ án phúc thẩm bị tạm đình chỉ ở
9


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

Tòa án nhân dân cấp tỉnh là 273 vụ/ 12529 vụ đã được giải quyết, chiếm tỷ lệ
1,8%.
Với số liệu thống kê chi tiết như trên có thể thấy việc thực thi pháp luật về
tạm đình chỉ vụ việc dân sự là khá triệt để và nghiêm túc. Việc áp dụng đúng quy
định về tạm đình chỉ vụ án dân sự không những đảm bảo quyền tham gia tố
tụng, quyền quyết định và định đoạt của đương sự mà còn tạo điều kiện để việc
giải quyết vụ án được chính xác, hài hòa lợi ích giữa các bên. Đối với cơ quan
tiến hành tố tụng, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự giúp đảm bảo cho
toà án không vi phạm các quy định về thời hạn giải quyết vụ án dân sự đã được
nhà lập pháp ấn định, giúp Tòa án có thời gian để tìm hiểu cặn kẽ sự việc, nhằm
giải quyết vụ án đúng đắn và công bằng.
2. Những vướng mắc trong việc áp dụng những quy định của pháp luật đối với
quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự:
BLTTDS năm 2004 đã vận dụng, kế thừa có chọn lọc và phát triển các quy
định về tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự trong PLTTGQCVADS trước
đây, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng, tránh việc tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự một cách tuỳ tiện, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên đương sự. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về
tạm đình chỉ còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiến, dẫn

tới những khó khăn sau:
2.1. Toà án tạm đình chỉ hay đình chỉ giải quyết vụ án nếu bị đơn là cá nhân
chết nhưng không để lại tài sản thừa kế?
Thực tiễn cho thấy nhiều vụ án bị đơn là cá nhân chết tuy có người thừa kế
nhưng bị đơn lại không để lại không để lại di sản thừa kế. Trong trường hợp này,
có Toà án đã vận dụng quy định tại khoản 1 Điều 189 BLTTDS, theo đó sẽ ra
quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với trường hợp “ Đương sự là cá nhân đã
chết… mà chưa có cá nhân… kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân…
đó”. Vậy nếu vận dụng như trên thì Toà án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án. Toà án

10


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

sẽ ra bản án buộc bị đơn đã chết trả nợ hay ra bản án bác đơn đòi nợ? Chúng ta
có thể thấy chưa có cơ sở pháp lý để trả lời cho câu hỏi này.
2. Vướng mắc khi vận dụng quyền của nguyên đơn đề nghị Toà án tạm đình chỉ
giải quyết vụ án.
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 59 BLTTDS: “ Nguyên đơn có quyền
đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án”. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định
này trong thực tế cũng gặp nhiều vướng mắc. Quy định này chưa thực sự rõ
ràng, bởi vì người ta không thể biết đề nghị này có cần phải phù hợp với các căn
cứ quy định tại Điều 189 BLTTDS không, do đó có các cách hiểu không thống
nhất. Hiện nay có nhiều Toà án áp dụng điểm d khoản 1 Điều 59 làm căn cứ dẫn
đến khoản 5 Điều 189 BLTTDS để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án,
nhưng cũng có Toà án không ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hoặc
chỉ ra quyết định tạm đình chỉ khi xét thấy việc đương sự xin tạm đình chỉ giải
quyết vụ án có nêu được lý do chính đáng trong đơn đề nghị.

Bởi sự chưa rõ ràng trong quy định của BLTTDS nên có nhiều quan điểm
khác nhau xung quanh việc có hay không áp dụng điểm d Điều 59 BLTTDS vào
khoản 5 Điều 189. Nhưng có thể khẳng định rằng quy định tại điểm d khoản 1
Điều 59 không phải là một căn cứ để áp dụng khoản 5 Điều 189 BLTTDS để Toà
án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Bởi trước tiên chúng ta có thể
xác định các quyền của nguyên đơn được BLTTDS ghi nhận nhằm đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên khi đương sự thực hiện các quyền của
mình thì Toà án còn phải cân nhắc xem việc thực hiện theo yêu cầu của đương sự
có phù hợp với quy định của pháp luật không? Khi các yêu cầu của đương sự
phù hợp với quy định của pháp luật thì Toà án phải chấp nhận, ngược lại các
yêu cầu đó không đúng với quy định của pháp luật thì Toà án không chấp nhận.
Như vậy, nếu nguyên đơn sử dụng quyền của mình đề nghị Toà án quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án, thì không có nghĩa Toà án phải ra quyết định tạm
đình chỉ theo yêu cầu của đương sự. Mặt khác, quy định tại khoản 5 Điều 189
BLTTDS quy định “ Các trường hợp khác mà pháp luật quy định” đã được giải
11


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

thích tại điểm 8.4 tiểu mục 8 Mục II Nghị quyết số 02/ 2006 NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và phải được hiểu
là các trường hợp chưa được quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4
Điều 189 BLTTDS nhưng đã được quy định trong các văn bản pháp luật khác ra
đời trước khi BLTTDS có hiệu lực, hiện vẫn có giá trị thi hành hoặc sau khi
BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật đựơc ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc thừa nhận. Khi đó Toà án mới
căn cứ vào các quy định trong các văn bản pháp luật này và khoản 5 Điều 189

BLTTDS sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
3. Quyền tự định đoạt của đương sự bị hạn chế:
Trong nhiều trường hợp tất cả các đương sự trong vụ việc dân sự đều thoả
thuận và cùng đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự trong một
thời hạn nhất định để các bên có thời gian để hoà giải hoặc một bên đương sự
yêu cầu và các đương sự khác đều đồng ý, tuy nhiên pháp luật cũng chưa có quy
định nào điều chỉnh cụ thể để cho phép có một quyết định tạm đình chỉ vụ án
trong trường hợp này. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của
nguyên đơn nói riêng và cảu đương sự nói chung.
II. Một số kiến nghị của nhóm:
Thứ nhất, đối với việc có hay không ra quyết định tạm đình chỉ vụ án trong
trường hợp bị đơn là cá nhân chết nhưng không để lại tài sản thừa kế. Xét về bản
chất, sự kiện người có nghĩa vụ chết không để lại di sản sẽ không thuộc căn cứ
tạm đình chỉ giải quyết vụ việc mà phải thuộc về căn cứ của việc đình chỉ giải
quyết vụ án. Tuy nhiên, do pháp luật không có quy định rõ ràng về người thừa
kế để xác định căn cứ đình chỉ vụ án nên dẫn tới việc vận dụng thực tế thiếu
thống nhất như trên. Theo chúng tôi, nếu đương sự là bị đơn trong vụ án chết, có
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng không có tài sản để lại thì việc
ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án là không cần thiết. Trong trường
hợp này, pháp luật nên quy định Toà án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
12


Nhóm A1 – 1 Dân sự 33A
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tố tụng Dân sự

án để tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Đòng thời, cần phải có hướng
dẫn rõ ràng, chi tiết về đối tượng điều chỉnh trong từng trường hợp tại các văn
bản pháp quy, nhằm đảm báo việc vận dụng pháp luật được thống nhất trên
thực tế.

Thứ hai, để đảm bảo tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
trong trường hợp các đương sự cùng thống nhất đề nghị tạm đình chỉ vụ án thì
nhà lập pháp cũng nên ghi nhận sự kiện này là một căn cứ để tạm đình chỉ giải
quyết vụ việc dân sự của đương sự khi có lý do chính đáng như nguyên đơn,
người yêu cầu cần có thêm thời gian thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu của mình.
C. KẾT LUẬN:
Như vậy, qua việc nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng giúp chúng ta
thấy được rằng: pháp luật về tạm đình chỉ vụ án dân sự đã được áp dụng trên
thực tế từ lâu, và phần nào đã thể hiện được sự công bằng và hợp lý trong quy
định. Tuy nhiên, thực tế luôn rất đa dạng, nhiều tình huống không phải lúc nào
cũng có thể dự liệu và quy định trước, vì vậy trong quy định của pháp luật
không thể tránh khỏi những những bất cập, hạn chế. Và đó chính là nguyên
nhân dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Những khó
khăn đó bắt nguồn từ sự không nhất quán trong việc áp dụng các thuật ngữ, sự
thiếu sót, bất hợp lý, thậm chí mâu thuẫn trong các quy định về căn cứ tạm đình
chỉ giải quyết vụ việc dân sự. Một số quy định của BLTTDS về vấn đề này
không đảm bảo quyền tiếp nhận công lý của công dân. Trên cơ sở tìm hiểu và
thấy được những hạn chế trong quy định sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về
tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự ở Việt Nam hiện nay.

13



×