Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích việc điều hành công cụ lãi suất của ngân hàng nhà nước từ đầu năm 2012 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.52 KB, 17 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học ngoại thương
---------0o0---------

Tên tiểu luận: Phân tích việc điều hành
công cụ lãi suất của ngân hàng nhà nước
từ đầu năm 2012 đến nay
Giáo viên hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiền.
Danh sách nhóm:

1


MỤC LỤC

Lời mở đầu...........................................................................................................................3
Nội dung...............................................................................................................................4
I.Cơ sở lý thuyết về lãi suất:................................................................................................4
1.Khái niệm......................................................................................................................4
2.1 Các loại lãi suất do ngân hàng Nhà nước ban hành ..................................................4
2.2 Các loại lãi suất do hệ thống Ngân hàng Thương mại công bố.................................6
3.1 Lãi suất huy động.....................................................................................................10
3.2 Lãi suất cho vay.......................................................................................................11
3.3 Lãi suất liên ngân hàng............................................................................................11
4.1 Tiêu cực...................................................................................................................13
Kết luận..............................................................................................................................16
Danh mục tài liệu tham khảo.............................................................................................17

2



Lời mở đầu

Lãi suất luôn được coi là một biến số nhạy cảm đối với đời sống kinh tế. Nó
tác động trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể kinh tế, ảnh hưởng rất lớn đến
lợi nhuận của các nhà kinh doanh tài chính, quyết định hiệu quả kinh tế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đã có rất nhiều
các đề tài nghiên cứu về lãi suất, cũng như các bài báo và tạp chí phân tích
về vấn đề này. Lãi suất thực sự là một vấn đề nóng bỏng thu hút được sự
quan tâm của nhiều tầng lớp xã hội.
Bàn về vấn đề lãi suất, chúng ta không thể phủ nhận lãi suất là một công cụ
sắc bén của chính sách tiền tệ trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Đặc biệt
tầm quan trọng của nó lại càng được nhắc đền nhiều hơn trong năm 2012 khi
ngân hàng nhà nước liên tục đưa ra các chính sách lãi suất đồng thời điều
chỉnh các loại lãi suất điều hành. Nhưng việc điều hành công cụ lãi suất này
liệu đã hiệu quả và kịp thời hay chưa? Nhận thức được tầm quan trong của
lãi suất và tình thời sự của vấn đề này ở Việt Nam trong giai đoạn này, nhóm
chúng tôi làm bài tiểu luận nghiên cứu về đề tài: “Phân tích việc điều hành
công cụ lãi suất của ngân hàng nhà nước từ đầu năm 2012 đến nay.

3


Nội dung
I. Cơ sở lý thuyết về lãi suất:
1. Khái niệm
Theo định nghĩa của PGS.TS Nguyễn Văn Tiến trong cuốn “giáo trình Tài
chính – Tiền tệ Ngân hàng” – chương 2, ta có: “Lãi suất là giá cả của quyền sử
dụng một đơn vị vốn vay trong một thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng hoặc
năm)”.
2. Phân loại

Có nhiều căn cứ để phân loại lãi suất, như: căn cứ vào nghiệp vụ ngân
hàng, căn cứ vào giá trị của tiền lãi, căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất, căn cứ
vào loại tiền cho vay, căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế,… Nhưng
ở đây, tôi xin phép được dựa vào tiêu chí nguồn phát hành lãi suất để chia ra làm 2
loại như sau: Lãi suất do Ngân hàng Nhà nước ban hành và Lãi suất do hệ
thống Ngân hàng Thương mại công bố.
2.1 Các loại lãi suất do ngân hàng Nhà nước ban hành
Lãi suất cơ bản:
Cũng theo định nghĩa của PGS. TS Nguyễn Văn Tiến trong cuốn “giáo
trình Tài chính – Tiền tệ Ngân hàng”, lãi suất cơ bản là lãi suất được các ngân
hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Hiện
nay, lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trên website:
sbv.gov.vn tính đến ngày 12 tháng 12 năm 2012 là 9%.
Lãi suất tái chiết khấu:
Đây là mức lãi suất được áp dụng khi Ngân hàng Trung ương cho các ngân
hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có
giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này.

4


Lãi suất này nhằm kiểm soát và điều tiết sự biến động của lãi suất trên thị
trường. Đối với Ngân hàng thương mại, lãi suất tái chiết khấu chính là lãi suất gốc
để từ đó ấn định được lãi suất chiết khấu và các loại lãi suất cho vay khác. Nó
cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được
khấu trừ ngay khi Ngân hàng Trung Ương cấp tiền vay cho ngân hàng.
Đây là loại lãi suất áp dụng đối với các giấy tờ có độ rủi ro thấp như trái
phiếu chính phủ, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn.
Lãi suất tái cấp vốn:
Theo khoản 1 điều 11 Luật Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010: “tái

cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn
ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng”. Như vậy, lãi suất tái
cấp vốn là lãi suất được sử dụng trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước tái cấp
vốn cho các ngân hàng khác.
Một Ngân hàng Trung Ương có thể tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc
dân: làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng lãi suất tái cấp vốn để
tránh cho nền kinh tế khỏi rơi vào tình trạng “quá nóng”, đồng thời để kiểm soát
lạm phát. Nếu lãi suất tái cấp vốn ở mức cao, chi phí cho các khoản vay tăng và
trở nên kém hấp dẫn với các cá nhân và doanh nghiệp đang có nhu cầu đi vay.
Điều này làm tỷ lệ đầu tư bị giảm sút, và ngược lại, giảm lãi suất tái cấp vốn sẽ
giúp thúc đẩy nền kinh tế có biến chuyển theo chiều hướng tích cực hơn.
Lãi suất trên thị trường mở (OMO):
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng Trung Ương mua vào
hoặc bán ra những giấy tờ có giá của Chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt
động mua bán giấy tờ có giá, Ngân hàng Trung Ương tác động trực tiếp đến nguồn
vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và
tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. Như vậy, lãi suất trên thị trường mở là
lãi suất Ngân hàng Nhà nước đưa ra khi thực hiện việc mua bán các giấy tờ có
giá trên.
Lãi suất trần:
5


Để hạn chế lạm phát xảy ra trong nền kinh tế, đồng thời để đảm bảo hoạt
động của các Ngân hàng Thương mại không bị lỗ, Ngân hàng Nhà nước đưa ra
một biên độ (một khoảng) dao động lãi suất mà các Ngân hàng Thương mại được
phép áp dụng trong hoạt động kinh doanh. Mức lãi suất cao nhất mà một tổ chức
tài chính được áp dụng để thu hút tiền gửi vào tổ chức của mình được gọi là
mức lãi suất trần huy động; hay mức lãi suất cao nhất mà tổ chức áp dụng với
các khoản vay nợ của người đi vay được gọi là mức lãi suất trần cho vay.

Lãi suất sàn:
Cũng tương tự như định nghĩa lãi suất trần, lãi suất sàn là mức lãi suất thấp
nhất mà một tổ chức tài chính áp dụng đối với các khoản vay nợ của người đi
vay.
2.2 Các loại lãi suất do hệ thống Ngân hàng Thương mại công bố
Lãi suất chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Thương mại là lãi suất được áp dụng
khi Ngân hàng Thương mại cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu
thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách
hàng.
Lãi suất liên ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng hay còn được gọi là lãi suất qua đêm. Đây là loại
lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân
hàng. Lãi suất này được hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường
liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay
của Ngân hàng Trung Ương.
Ta có thể hiểu một cách kĩ càng hơn, đó là, theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước, cuối ngày, các Ngân hàng Thương mại phải gửi báo cáo về số dự trữ
bắt buộc theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Nếu ngân hàng không đáp ứng đủ
số vốn dự trữ bắt buộc sẽ bị xử phạt nghiêm trọng. Vì vậy, một số ngân hàng nhỏ,
ngân hàng bị thiếu hụt đã vay những ngân hàng còn dư tiền sau khi đã đảm bảo đủ
số dự trữ của ngân hàng mình. Do khoản vay này là vay ngắn hạn (trong vòng vài
6


ngày) nên lãi suất liên ngân hàng sẽ rất cao. Tuy nhiên, lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng này có tăng hay giảm cũng không gây ảnh hưởng gì nhiều đến lãi suất
cho vay bình thường.
Lãi suất huy động:
Lãi suất huy động là tỷ lệ phần trăm lãi suất trên số tiền khách hàng gửi

vào ngân hàng hay các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ phần trăm này thường được áp
dụng cho một năm, còn nếu muốn tính theo tháng có thể lấy số phần trăm đó chia
cho 12 tháng.
Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho vay là loại lãi suất được áp dụng cho các cá nhân tổ chức
vay vốn tại các ngân hàng, tính theo từng tháng, từng quý hay từng năm…Đây
cũng được coi như chi phí mà khách hàng phải trả khi sử dụng vốn không phải
vốn tự có của mình.
II. Quá trình điều hành công cụ lãi suất của ngân hàng nhà nước từ đầu
năm 2012 đến nay
Từ đầu năm 2012, kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Hầu hết các
nước có tăng trưởng kinh tế thấp. Lạm phát toàn cầu có xu hướng tăng chậm lại ở
các nước phát triển và đang phát triển. Kinh tế trong nước có nhiều chuyển biến
tích cực. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với rủi ro tăng trưởng
kinh tế chậm lại, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều
khó khăn, hàng tồn kho ở mức cao, nợ xấu tăng cao.

7


Bám sát các diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, trong 6 tháng đầu năm 2012,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động điều hành chính sách tiền
tệ, hoạt động ngân hàng nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từng bước cơ cấu lại
và đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Trong đó chính sách
lãi suất như sau: Điều hành chính sách lãi suất theo hướng giảm dần phù hợp với
diễn biến kinh tế vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất cho
vay, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.

Cụ thể,

Ngày 13/3, Ngân hàng nhà nước tiến hành:
- Giảm lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 14%/năm.
- Giảm lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ
16%/năm xuống 15%/năm
- Giảm lãi suất tái chiết khấu từ 13%/năm xuống 12%/năm.
- Giảm lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 1 tháng từ 6%/năm xuống 5%/năm.
- Giảm lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ
1 tháng trở lên từ 14%/năm xuống 13%/năm (riêng với qũy tín dụng nhân
8


dân cơ sở, lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng trở lên giảm từ
14,5%/năm xuống 13,5%/năm.
Ngày 11/4, Các lãi suất chủ chốt được điều chỉnh giảm 1%/năm so với trước đó.
Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn là 13%/năm; lãi suất tái chiều khấu là 11%/năm; lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp
thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng nhà nước đối với các ngân
hàng là 14%/năm.
Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ
hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 4%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi
có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 12%/năm; riêng quý tín dụng nhân dân cơ sở ấn
định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 12,5%/năm.
Ngày 4/5, Ngân hàng Nhà nước bất ngờ công bố áp trần lãi suất cho vay đối với 4
lĩnh vực ưu tiên chỉ còn 15% một năm.
Ngày 28/5, Lãi suất tái cấp vốn được giảm từ 13%/năm xuống còn 12%/năm; lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 14%/năm xuống
còn 13%/năm; lãi suất tái chiều khấu được giảm từ 11%/năm xuống 10%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND đối với tiền gửi không kỳ hạn và
có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 4%/năm xuống còn 3%/năm; đối với kỳ hạn từ 1

tháng trở lên giảm từ 12%/năm xuống còn 11%/năm (riêng quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở từ 12,5%/năm xuống 11,5%/năm).
Ngày 11/6, Ngân hàng nhà nước tiến hành điều chỉnh 1% các loại lãi suất điều
hành: Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 12% xuống 11%/năm, lãi suất tái chiết khấu
giảm từ 10%/năm xuống mức 9%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiết hụt trong thanh toán bù trừ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 13%/năm xuống
mức 12%/năm.
Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là
2%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12
tháng là 9%/năm. Bỏ trần lãi suất huy động áp dụng đối với kỳ hạn trên 12 tháng.
NHNN cũng áp mức trần cho vay 13%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên là: nông
nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngày 29/6, Ngân hàng nhà nước tuyên bố đồng loạt giảm các lãi suất chủ chốt.
Trong đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 11% xuống còn 10%/năm; tái chiếu khấu từ
9% về 8% và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng 12% xuống
11%.
Từ đầu tháng 7 đến nay, chính sách lãi suất của ngân hàng nhà nước không có biến
động nào đáng kể.
III. Biến động các loại lãi suất huy động, cho vay và liên ngân hàng của
hệ thống ngân hàng thương mại.

9


3.1 Lãi suất huy động
Trước thông tin Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm các mức lãi suất,
một số ngân hàng đã chủ động triển khai điều chỉnh giảm lãi suất huy động và cho
vay với nhiều gói tín dụng mới. Nhiều ngân hàng ấn định lãi suất huy động đối với
tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 8 -10%/năm; một số ngân hàng

điều chỉnh giảm 0,5 - 3%/năm lãi suất huy động ở hầu hết các kỳ hạn.
Ngày 7/6, một số ngân hàng như Vietcombank, ACB đã bất ngờ giảm mạnh lãi
suất huy động VND ở hầu hết các kỳ hạn. Đến ngày 8/6, Ngân hàng TMCP Quân
đội (MB), Ngân hàng TMCP Hàng Hải (MaritimeBank) đã chính thức áp dụng lãi
suất huy động ở mức 9%/năm.
Cuối quý 3 cuộc đua lãi suất diễn ra với việc các ngân hàng lợi dụng việc ngân
hàng nhà nước không đặt trần với lãi suất huy động kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên
sang tháng 11, cuộc đua đã dịu lại.
Theo báo cáo về hoạt động ngân hàng tuần từ 3 – 7/12/2012 của NHNN, lãi suất
huy động bằng VND tuần qua ổn định. Hiện lãi suất tiền gửi phổ biến không kỳ
hạn ở mức 1-2%/năm; kỳ hạn dưới 01 tháng 2%/năm; từ 01 tháng đến dưới 12
tháng 8,8-9%/năm, từ 12 tháng trở lên 10-12%/năm. Lãi suất huy động USD phổ
biến 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0,5%/năm đối với tiền gửi của tổ chức
kinh tế.
Tại ngân hàng Techcombank, bắt đầu từ 10/12, lãi suất kỳ hạn trên 12 tháng chỉ
còn 11,5%/năm, trong khi tuần trước mức huy động là 12%/năm.Ngân hàng ACB,
vốn huy động với lãi suất khá cao so với mặt bằng chung, giờ đây cũng chỉ huy
động vốn kỳ hạn 12 tháng và 24 tháng với lãi suất 11,5%/năm, riêng kỳ hạn 13 và
36 tháng ở mức 12%/năm. Trước đó, các mức lãi suất trên 12 tháng của nhà băng
này đều ở mức 12 – 13%/năm. Tại Eximbank, lãi suất cao nhất áp dụng trước đây
là 12,8%/năm song hiện cũng chỉ còn 11,5%, áp dụng cho kỳ hạn 12 và 13 tháng.
Các kỳ hạn xa hơn mức lãi là 11%/năm. Trong khi đó ở ngân hàng Vietcombank,
lãi suất kỳ hạn 12 tháng khá thấp, chỉ 10%/năm, thấp hơn 0,5% so với mức lãi cũ.
Các kỳ hạn xa hơn cũng chỉ được trả lãi ở mức 10,5%/năm. Ngân hàng Vietinbank
cũng chỉ huy động cao nhất là 11%/năm cho kỳ hạn 12 và 13 tháng, kỳ hạn trên 13
tháng đến 2 năm mức lãi là 10%/năm, thậm chí kỳ hạn trên 36 tháng chỉ còn
9%/năm – ngang mức lãi suất kỳ hạn dưới 1 năm.
Ở nhóm các ngân hàng nhỏ hơn, lãi suất huy động kỳ hạn dài cũng được điều
chỉnh giảm hẳn so với trước về mức 10 – 12%/năm, chỉ còn một số ít các ngân
hàng còn huy động 13%/năm, thay vì phổ biến là 11 – 13%/năm như trước đây.

Việc điều chỉnh giảm lãi suất này phù hợp với xu hướng kỳ vọng lạm phát, thanh
khoản của các TCTD dồi dào, thị trường tiền tệ diễn biến theo xu hướng tích cực
và ổn định. Lạm phát kỳ vọng năm 2012 của Việt Nam là khoảng 7-8%. Mức lãi
10


suất huy động hiện nay cũng chênh lệch cao so với lãi suất tiền gửi huy động USD
(khoảng 2%/năm) và mức tăng tỷ giá kỳ vọng (khoảng 2 - 3%/năm).
3.2 Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay bám sát định hướng điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước
và lãi suất huy động. Tuy nhiên, lãi suất cho vay giảm chậm hơn so với lãi suất
huy động vì chi phí huy động và rủi ro nợ xấu tăng cao trong hệ thống ngân hàng.
Ngày 5-4, VietinBank công bố hạ lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ưu tiên ở
mức 14%-15%/năm. Riêng cho vay thu mua tạm trữ lúa gạo vụ đông xuân 20112012, lãi suất chỉ còn 12%/năm. Từ ngày 1-4, Ngân hàng MHB triển khai chương
trình “Cùng MHB - Không lo lãi suất”. MHB dành hạn mức 3.000 tỉ đồng cho các
doanh nghiệp có phương án vay vốn khả thi, lãi suất giảm 1%-2%. Trước đó,
Eximbank cũng công bố gói tín dụng trên với quy mô 1.000 tỉ đồng, dành riêng
cho các hộ kinh doanh cá nhân vay vốn phát triển kinh doanh. Thời gian cho vay
tối đa là sáu tháng. Đối tượng là các khách hàng đăng ký kinh doanh, cá nhân hoạt
động kinh doanh liên tục từ ba năm trở lên, ưu tiên và tập trung vào các tiểu
thương, thương mại thuần túy.
Tính đến cuối tháng 6/2012, lãi suất cho vay nông nghiệp-nông thôn của khối
NHTMNN giảm từ 16%/năm từ đầu năm xuống chỉ còn 12%/năm; nhóm
NHTMCP giảm từ 19,2% xuống 13%/năm. Lãi suất cho vay với các lĩnh vực khác
cũng đang trong xu hướng giảm. Nhóm NHTMNN giảm lãi suất cho vay lĩnh vực
sản xuất kinh doanh thông thường và lĩnh vực phi sản xuất từ mức 17,6% và
21,4% xuống cùng mức 17%. Nhóm NHTMCP giảm mạnh lãi suất lĩnh vực sản
xuất kinh doanh thông thường từ 24% xuống 18,6%.
Ở thời điểm hiện tại, lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ ở mức 1013%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức 12-16%/năm.

3.3 Lãi suất liên ngân hàng.
Những tháng gần cuối năm 2011, thị trrường vẫn còn hơi hưởng của cuộc đua lãi
suất huy động lên 20%/năm và căng thẳng thanh khoản khiến lãi suất liên ngân
hàng tăng lên 20%/năm. Đến tháng 12/2011, được sự định hướng từ Nghị quyết tái
cơ cấu nền kinh tế, có tái cấu trúc thị trường tài chính mà trọng tâm là tái cấu trúc
hệ thống NHTMCP và các tổ chức tài chính, được sự chỉ đạo của Chính phủ về
việc xây dựng đề án và thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, đối tượng là các
NHTMCP hoạt động yếu kém, ngay lập tức sau đó, NHNN đã nhanh chóng
khoanh vùng các NH yếu kém và chính thức tuyên bố hợp nhất 3 NHTM cổ phần
thành một NH duy nhất.
Sau sự kiện này, bước sang những tháng đầu năm 2012, lãi suất liên ngân hàng
chưa kịp giảm. Nhưng từ tháng 3 đến tháng 6, lãi suất qua đêm liên ngân hàng đã
có xu hướng giảm rõ rệt. Thậm chí ngày 21/6 lãi suất cho vay trên thị trường liên
ngân hàng giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong vòng nhiều năm gần đây ở hầu

11


hết các kỳ hạn, dao động quanh mức 1,3-2% đối với kỳ hạn qua đêm, 1,3-2% với
kỳ hạn 1 tuần, 2-3% kỳ hạn 2 tuần và 3,5-4% cho kỳ hạn 1 tháng.
Thị trường tiền tệ tương đối ổn định sau những thông tin về một số lãnh đạo của
ACB và Eximbank từ nhiệm và bị khởi tố, hiện tượng rút tiền ồ ạt không diễn ra
như thời điểm ngày 21/8 (thời điểm bầu Kiên bị bắt). Thanh khoản toàn hệ thống
dường như ổn định mang tính tạm thời, thể hiện qua việc lãi suất liên ngân hàng
tiếp tục có xu hướng giảm và lượng tiền bơm qua thị trường mở không nhiều.

Nguồn: NHNN VN
Trung tuần tháng 9/2012, lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường
liên ngân hàng giảm so với tuần đầu tháng ở tất cả các kì hạn. Với kỳ hạn qua
đêm, lãi suất giảm từ 0,05%; ba tuần giảm 0,41%; riêng kỳ hạn ba tháng, lãi suất

bình quân giảm tới 3,11% xuống còn 8,89%.
Trong tháng 12, lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn có tăng nhẹ, nhưng vẫn duy trì
ở mức thấp. Cụ thể lãi suất liên ngân hàng qua đêm tăng thêm 0.01%, kỳ hạn 2
tháng và 3 tháng tăng lần lượt là 0,58% và 0,62%; các kỳ hạn còn lại có mức tăng
từ 1,07% (kỳ hạn 1 tuần) đến 1,71% (kỳ hạn 3 tuần). Điều này phù hợp với diễn
biến lãi suất như mọi năm, nhu cầu vốn của hệ thống ngân hàng thường tăng cao
vào cuối năm.
IV. Đánh giá tác động tới nền kinh tế từ việc điều hành công cụ lãi suất
từ đầu năm 2012 đến nay
4.1 Tích cực
Đầu tháng 6/2012, hãng định hạng tín nhiệm toàn cầu Standard & Poor's đã
nâng triển vọng tín nhiệm của Việt Nam từ “tiêu cực” lên “ổn định” với lý do Việt
12


Nam đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát. Lạm phát đã được kiểm soát tốt
với khoảng 7% - 8% trong năm nay.
Thị trường ngoại hối cũng như kỳ vọng tỷ giá cũng được neo giữ ở mức rất
ổn định.
Góp phần tăng tổng cầu nền kinh tế; tín dụng sắp tới sẽ tăng lên, chi tiêu
ngân sách sẽ tăng lên, người dân đầu tư sẽ sử dụng đồng tiền của mình vào sản
xuất; điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa người gửi và người vay, vốn giá rẻ sẽ sớm
đến với doanh nghiệp,cán cân vãng lai đã thặng dư với tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu mạnh.
Thanh khoản hệ thống đã được củng cố và cải thiện rất tích cực. Việc giảm
các loại lãi suất điều hành như tái cấp vốn và tái chiết khấu giúp các ngân hàng
nhỏ cải thiện được tình hình thanh khoản, hạn chế tình trạng chay đua lãi suất huy
động trên thị trường.
Cơ cấu lại nguồn vốn cho vay đối với các lĩnh vực khác nhau. Tính đến
ngày 30/6, tín dụng tăng 0,76% so với cuối năm 2011 (nếu tính cả số dư đầu tư

vào trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác thì tăng khoảng 1,4%). Tín dụng tăng
trưởng thấp nhưng tín dụng tăng cao đối với các ngành, lĩnh vực ưu tiên, giảm
mạnh đối với các lĩnh vực không khuyến khích: Đến 31/5/2012, tín dụng xuất
khẩu tăng 12,63%, nông nghiệp nông thôn tăng 3%, công nghiệp hỗ trợ ước tăng
7,13%; riêng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa giảm 13,69%. Dư nợ đối
với lĩnh vực không khuyến khích chiếm 5,25% so với tổng dư nợ cho vay, giảm
-5,91% so với tỷ trọng cuối năm 2011 (11,16%).
Lãi suất thị trường liên ngân hàng giảm xuống thấp, cho thấy tình hình
thanh khoản tốt của hệ thống. Thanh khoản bằng ngoại tệ của toàn hệ thống ngân
hàng vẫn đảm bảo được mức dư thừa và có xu hướng cải thiện so với những tháng
đầu năm, hầu hết các TCTD đều có tỷ lệ tín dụng/huy động vốn trong và ngoài
nước dưới 100%.
4.1 Tiêu cực
Tuy nhiên, không quá chủ quan với những gì đã đạt được, nền kinh tế trong
nước vẫn được đánh giá là đang đối mặt với rủi ro tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn, lượng
hàng tồn kho lớn, chi phí lãi vay vẫn cao. Số lượng doanh nghiệp xin giải thể phá
sản ngày càng tăng cao.
Thị trường không ổn định, người dân muốn chuyển kênh tiết kiệm VND
sang USD. Nguyên nhân là do những lo ngại của dư luận về việc trần lãi suất huy
động hạ liên tiếp trong chưa đầy một tháng và có thể giảm sâu hơn.
Lạm phát giảm nhưng nhìn chung vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao trở lại vào
năm sau.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng rất yếu ớt. Tính đến ngày 20/11/2012, tăng
trưởng tín dụng toàn hệ thống là 4,15%. Ước tính cả năm chỉ tăng 5% so với chỉ
tiêu 10% đã đặt ra của ngân hàng nhà nước.

13



Nguồn: NHNN VN
Mức nợ xấu tiếp tục tăng lên. Về quy mô, mức độ nợ xấu của hệ thống
ngân hàng vẫn có nhiều con số khác nhau. Trong khi các ngân hàng tự báo cáo tỷ
lệ nợ xấu chỉ khoảng 4,47% thì ước tính của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước lại ở
mức 8,82%. Các tổ chức quốc tế thì cho rằng con số còn có thể cao hơn nữa.
Trong đó, nợ xấu đang tập trung ở các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là những
doanh nghiệp liên quan đến bất động sản.
4.3 Nguyên nhân
Số dư tiền gửi bình quân của các TCTD tại NHNN tăng dần qua các tháng, tỷ
lệ tín dụng/huy động vốn giảm dần qua các tháng từ mức 103,23% cuối năm 2011
xuống mức 90,33% đến ngày 30/6. Như vậy là khác với năm 2011, trong năm nay,
ta lại thấy tốc độ tăng trưởng huy động vốn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng tín
dụng. Vậy là mặc dù không gặp khó khăn về thanh khoản nhưng các ngân hàng
đang gặp khó khăn về giải ngân vốn. Ngân hàng khó giải ngân vốn cho các doanh
nghiệp vì tình hình hàng tồn kho cao của họ (do nhu cầu yếu trong nước và bên
ngoài), hơn nữa, vì hàng tồn kho cao nên các doanh nghiệp cũng không có nhu cầu
vay thêm vốn của ngân hàng.
Tăng trưởng tín dụng chậm lại là biểu hiện trì trệ của nền kinh tế nhưng cũng
là biểu hiện của việc nợ xấu đang ngày càng phình to ra. Nợ xấu của toàn hệ thống
ngân hàng theo như ngân hàng nhà nước hiện nay là khoảng 8%. Nhưng con số
đấy thực sự khó có thể tin tưởng vì sự mập mờ của các ngân hàng và vì tình trạng
sở hữu chéo hiện nay của chúng. Nợ xấu cộng với lãi suất cho vay ngất ngưởng
triệu tiêu động lực của nền kinh tế.
V. Đề xuất giải pháp về chính sách tiền tệ trong thời gian tới
Ngân hàng phải có biện pháp tích cực trong việc đưa ra mức trần về lãi suất
huy động, Trung Quốc 3,25%; Thái Lan 2%, Mỹ 0,5%, Nhật 1% thì Việt Nam chỉ
14


nên 5%/năm. Từ việc giảm được chi phí huy động thì mới có thể giảm được lãi

suất đầu ra của các ngân hàng thương mại.
Lãi suất ngân hàng cao là thủ phạm làm tăng giá thành sản xuất. Lãi suất cao
làm khó khăn cho sản xuất trong nước, trong khi nhu cầu tiêu dùng vẫn có, sẽ là
thời cơ cho nhập khẩu hàng hóa dẫn đến tình trạng nhập siêu và nhu cầu lớn về
ngoại tệ trong thanh toán hàng nhập khẩu sẽ là yếu tố chính làm tăng giá ngoại tệ
chuyển đổi. Đây chính là tác nhân gây ra lạm phát. Chỉ cần đảm bảo được giảm
lạm phát thì sẽ có nhiều dư địa hơn nữa cho việc giảm lãi suất. Do đó, việc điều
chỉnh giảm lãi suất sẽ phải tiến hành cực kỳ thận trọng, kết hợp với cả việc hút
bơm và hút ròng tiền hợp lý để tránh cho lạm phát không quay trở lại.
Các chủ trương vừa qua của Ngân hàng Nhà nước là không Vàng hóa hay
Dola hóa trong thanh toán là một chủ trương đúng. Vậy thì Ngân hàng nên mạnh
dạn đưa ra khung lãi suất trần tiền gửi giảm xuống hơn nữa, tiến tới đạt được mức
5%/năm. Lãi xuất trần cho vay là từ 6% đến 8%/năm tùy theo loại tín dụng dài hạn
hay ngắn hạn. Và có biện pháp xử lý nghiêm minh với mọi sai trái dưới mọi hình
thức trong việc huy động và cho vay của các ngân hang thương mại.
Tuy nhiên, mặc dù giảm lãi suất là cần thiết, song trước mắt, vấn đề doanh
nghiệp cần hiện nay là khơi thông đầu ra, tức là khai thông hàng tồn kho. Muốn
vậy, Việt Nam cần phải tạo ra sức mua mới bằng các biện pháp đẩy nhanh vốn cho
các dự án còn dang dở nhằm tăng khả năng tiêu thụ xi măng, sắt thép… song song
với đó, triển khai các chương trình bình ổn giá, hạ giá để kích cầu.
Cần sự phối hợp chặt chẽ của chính sách tài khóa (ví dụ miễn giảm thuế doanh
nghiệp) với chính sách tiền tệ, cùng với giải pháp thúc đẩy thị trường hàng hóa,
kích cầu tiêu dùng...
Song song đó phải xử triệt để cục máu đông nợ xấu. Nhưng để làm được điều
này, phải mất một thời gian dài. Do vậy, Việt Nam nên hướng về kế hoạch dài hạn
5 năm chứ không nên quá chú trọng vào giải pháp ngắn hạn, tạm thời"
Làm được việc này sẽ có kết quả:
• Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mà hoạt động kinh doanh
có vay vốn sẽ thoát chết oan.
• Doanh nghiệp không chết thì chắc chắn ngân hàng sẽ không chết vì họ

không bị mất vốn. Ngân hàng huy động thấp, thì cho vay thấp, nhưng
ngân hàng vẫn có lãi.
• Giảm lãi suất ngân hàng, giá hàng hóa sẽ giảm do chi phí giảm, người
dân sẽ có điều kiện mua tốt hơn trong khả năng của họ.
• Cứu thị trường bất động sản và chứng khoán.
• Doanh nghiệp không chết thì nhà nước lại thu được thuế, lại chăm lo
tốt an sinh xã hội cho dân, các dự án hạ tầng cơ sở lại được thực hiện
• Điều quan trọng nhất là lực lượng lao động sẽ có việc làm, sẽ có thu
nhập tốt. Họ chính là người tiêu thụ mạnh hàng hóa và nhà ở trong nền
kinh tế..

15


Kết luận
Qua việc tìm hiểu cụ thể về các loại lãi suất và quá trình điều hành công cụ lãi suất
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ta càng khẳng định được tính quan trọng và
tầm ảnh hưởng của lãi suất tới nền kinh tế nước nhà. Lãi suất được chia theo nhiều
loại hình, mỗi loại có một đặc trưng riêng tác động tới sự lãi/ lỗ, hiệu quả kinh
doanh của các nhà đầu tư nói riêng và tới sự phát triển của đất nước nói chung. Có
nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự tăng giảm của công cụ này như chính sách của nhà
nước, tỷ lệ lạm phát…Để điều chỉnh công cụ lãi suất này một cách hiệu quả và
hợp lý, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra một số biện pháp, điển hình như: thực hiện
cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, thiết lập hành lang lãi suất thị trường liên ngân
hàng…Việc điều hành linh hoạt lãi suất, và là công cụ điều tiết thị trường, vừa là
động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính
sách tiền tệ là thắt chặc hay nới lỏng, đã và đang dần trở thành một chỉ số kinh tế
quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức quan tâm theo dõi và có những dự báo phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về
hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng,

thể hiện vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm
chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Từ mục tiêu của đề tài, tiểu luận nhóm
chúng tôi đã đưa ra được hướng giải pháp giải quyết vấn đề về công cụ lãi suất
theo ý kiến của cá nhân nhóm và hi vọng nhận được phản hồi từ phía cô giáo và
các bạn.

16


Danh mục tài liệu tham khảo
Nguyễn Văn Tiến (2008), Giáo trình Tài chính – Tiền tệ - Ngân hàng, NXB Học
viện ngân hàng.
Frederic S. Mishkin(2004), The Economics of Money, Banking, Financial
Markets, Printed in United States Of America
www.sbv.gov.vn
www.vietinbankcapital.vn
www.bvsc.com.vn

17



×