Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tư tưởng xây dựng đảng trong tác phẩm di chúc chủ tịch hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.42 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
--------------

TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG ĐẢNG
TRONG TÁC PHẨM DI CHÚC
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(Tiểu luận)

GVHD:

PGS.TS. Lê Trọng Ân

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2015
1


MỤC LỤC

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Đảng Cộng Sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và
lãnh đạo, là đội tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt, là đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân


tộc. Sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh gắn với sự nghiệp và vận mệnh của
Đảng và của cả dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ
Chí Minh dân tộc ta đã đánh bại hai đế quốc to lớn, bộ mặt đất nước, xã hội và
con người đều đổi mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng: “Với tất cả tinh thần
khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta có quyền tự hào rằng Đảng ta thật vĩ
đại, lịch sử đấu tranh của Đảng ta là cả một kho lịch sử bằng vàng”. Tuy nhiên,
Đảng có lãnh đạo nhân dân thực hiện cách mạng thành công hay không phần lớn
phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực lãnh đạo của Đảng có “trong sạch, vững
mạnh”, có “đạo đức, văn minh” hay khơng. Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa
XI): Một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay đã chỉ rõ: “Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa
vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc….” Đây là sự xuống
cấp nghiêm trọng về phẩm chất, năng lực, làm giảm sút uy tín của người cán bộ,
đảng viên. Chính vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, công tác
xây dựng Đảng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta
trưởng thành, đồng thời có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị,
đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của
đất nước. Hơn nữa, nó cịn góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng.
Với những cơ sở lý luận và thực tiễn như vậy, tôi đã nghiên cứu tác phẩm
“Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” cùng việc tìm hiểu các tài liệu tham khảo,
3


tôi quyết định chọn “Tư tưởng xây dựng Đảng trong tác phẩm Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.


Tình hình nghiên cứu

Có nhiều cơng trình, bài viết về “ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Tơi chỉ chọn một số bài viết có liên quan đến đề tài
như sau:
Một là, “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Một văn kiện lịch sử” của
Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, cuốn sách đề cập đến q trình Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết Di chúc, một số văn kiện của Đảng và Nhà nước ta thực hiện Di
chúc của Người. Ngoài ra, một nội dung quan trọng khác của cuốn sách là các
bài viết về các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành
nghiên cứu về Di chúc như một văn kiện lịch sử vơ giá, cũng như q trình tồn
Đảng, tồn dân thực hiện di chúc trong 40 năm qua, bao gồm các bài viết khác
như: “35 năm thực hiện di chúc của Bác Hồ” của Tổng bí thư Nơng Đức Mạnh;
“Chúng ta khẳng định quyết tâm khơng gì lay chuyển nổi của toàn Đảng, toàn
dân tiếp tục thực hiện con đường cách mạng vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng ta và dân tộc ta đã chọn” của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh,…
Hai là: “Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng”
của PGS.TS Nguyễn Văn Giang, Viện xây dựng Đảng Học Viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, đã trình bày 5 nội dung cơ bản rút ra từ Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về cơng tác xây dụng Đảng.
Ba là, “Giới thiệu những tư liệu về Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”
của Th.S Nguyễn Xuân Tùng. Bài viết này đề cập đến các vấn đề liên quan đến
việc Chủ tịch Hồ Chí Minh khi viết Di chúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ
*Mục đích: Giới thiệu và phân tích nội dung tư tưởng về xây dựng đảng
trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
*Nhiệm vụ:
-Làm rõ hoàn cảnh viết Di chúc và những nội dung cơ bản về xây dựng
đảng trong Di chúc.

4


-Từ đó đánh giá ý nghĩa đối với việc xây dựng Đảng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng: tư tưởng xây dựng Đảng trong tác phẩm Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
*Phạm vi nghiên cứu: bài tiểu luận giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
những tư tưởng về xây dựng Đảng trong tác phẩm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
*Bài tiểu luận thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ Nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
*Phương pháp nghiên cứu: thống nhất lịch sử với logic, phân tích với tổng
hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh đối chiếu văn bản…
6. Đóng góp của đề tài
Bài tiểu luận mong muốn đem lại những tri thức về tư tưởng xây dựng
Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định tầm quan trọng của việc xây
dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
*Ý nghĩa lý luận: đề tài cung cấp một cách hệ thống bao quát nội dung tư
tưởng về xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc.
*Ý nghĩa thực tiễn: dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về tư
tưởng Chí Minh nói chung và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng.
8. Kết cấu của đề tài
Tác phẩm ngoài phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
bài tiểu luận có 2 chương,5 tiết. Trong đó:
Chương 1: Khái quát tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chương 2: Nội dung tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong Di chúc.


5


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT TÁC PHẨM DI CHÚC CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1.1 Hồn cảnh và q trình viết Di chúc.
Nhân dịp sinh nhật lần thứ 75 của mình, vào lúc 9 giờ sáng ngày
10/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc.
Đến ngày 15/5, bản Di chúc đầu tiên này hoàn thành, dài gần 3 trang, do chính
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh máy, có chữ ký của Người và chữ ký chứng kiến
của đồng chí Lê Duẩn - lúc đó là Bí Thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương
Đảng. Từ ngày 10/5/1965 đến lúc kết thúc viết Di chúc ngày 10/5/1969, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung và viết lại. Năm 1966 và 1967,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng có bản viết riêng, chỉ có hai bản bổ sung vào Di
chúc năm 1965. Năm 1968, Người viết bổ sung một đoạn gồm 06 trang viết tay,
ngày 10/05/1969 iết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc, gồm 01 trang viết tay.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ
tang của Người tháng 9/1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 x 22 cm. Ngày
19/8/1989, Bộ Chính trị ra Thơng báo số 151 – TB/TW Về một số vấn đề liên
quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định Di
chúc cơng bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của Người.
Nội dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của
bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì
những lý do nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh chưa được công bố, như: Việc căn dặn của Người về hỏa táng thi hài; việc
cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế
nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp…. Trong dịp kỷ niệm 100
năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (Khóa VI) đã quyết định cơng bố tồn bộ các bản viết Di chúc của Người.

Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong bối cảnh cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta ở vào giai đoạn ác liệt, song
6


đang trên đà thắng lợi, địi hỏi sự đồn kết chặt chẽ, chiến đấu bền bỉ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn dân hai miền Nam – Bắc với niềm tin vững chắc vào thắng
lợi cuối cùng. Đế quốc Mỹ sau thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”,
chúng ta tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời leo
thang “Chiến tranh phá hoại” miền Bắc lần thứ nhất; Hội nghị lần thứ 11 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa III tháng /1965 đã hạ quyết tâm chiến thắng
giặc Mỹ xâm lược. Sau khi đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô 19651966 và 1966-1967, chúng ta mở cuộc Tổng tiến công, nổi dậy Tết Mậu Thân
1968, buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, chấp nhận
đàm phán với ta ở Hội nghị Pari.
Vào thời điểm này, mặc dù trí tuệ còn minh mẫn, tinh thần còn sáng suốt
nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh tự cảm nhận sức khỏe của mình đã có phần giảm
sút so với những năm trước, khó đốn biết cịn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ
Quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa.
1.2. Kết cấu Di chúc.
Phần mở đầu: lấy nguyên văn toàn bộ đoạn mở đầu mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết năm 1969, thay cho đoạn mở đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm
1965. Bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoạn này đã được chụp lại và công
bố đầy đủ năm 1969. Khẳng định chắc chắn sự thắng lợi hồn tồn của Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hịa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
trong kháng chiến chống Mỹ dù phải gian khổ, mất mát nhiều.
Phần thân: đoạn về Đảng đến hết đoạn nói về phong trào cộng sản thế giới
là nguyên văn Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1965. Đoạn nói về Đảng trong Di
chúc không dài nhưng thể hiện một cách cô động nhất tư tưởng của Người với
tư cách một lãnh tụ. Nội dung chính:
-Các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí

như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
-Trong Đảng Cộng Sản Việt Nam phải thực hành dân chủ rộng rãi.
-Thường xuyên và nghiêm chính tự phê bình và phê bình.
7


-Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam phải cần kiệm liêm chính, chí cơng
vơ tư.
Đoạn về việc riêng năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dị về việc tang
và viết về hỏa táng, dặn để lại một phần tro xương cho miền Nam; năm 1968,
Bác viết lại đoạn này, dặn để tro vào ba hộp sành, cho Bắc – Trung – Nam, mỗi
miền một hộp. Ngồi ra, cịn viết bổ sung một đoạn nói về cuộc đời bản thân
như sau:
“Suốt đời tơi hết lịng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phụ
vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tơi khơng có điều gì phải hối hận,
chỉ tiếc là tiếc rằng khơng được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Phần cuối: Kết thúc bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cuối cùng
tơi để lại mn vàn tình thân u cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội,
cho các cháu thanh niên và nhi đồng…… góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới” là nguyên văn Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1965. Về
đoạn này, năm 1968 và 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng sửa lại hoặc viết
thêm.

8


CHƯƠNG 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG ĐẢNG CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG DI CHÚC
2.1. Tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng.

Đảng Cộng Sản Việt Nam đang là đảng cầm quyền, thì mọi việc của dân,
của nước, mọi thành công, thất bại đều phụ thuộc trực tiếp vào phẩm chất và
năng lực của Đảng. Chính vì vậy, cơng tác xây dựng Đảng bao giờ cũng có vị trí
ưu tiên đặc biệt. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trước hết
nói về Đảng”, dành nhiều tâm sức để dặn dị cho đồng chí, đồng bào như vậy.
Tại Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ 6 (18/1/1949) sau khi nêu lên một số vấn
đề cần làm trên lĩnh vực quận sự, kinh tế, chấn chỉnh bộ máy chính quyền, chỉnh
đốn các đồn thể quần chúng, cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh nói kỹ về ý nghĩa
có tính chất quyết định của cơng tác chỉnh đốn Đảng: “Muốn làm được những
việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng. Phải nêu ra những việc chính,
nắm lấy đó mà làm. Đảng được ví như cái máy phát điện, các cơng việc trên ví
như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng”1
Đảng ta đã lãnh đạo đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác bằng
trí tuệ, bản lĩnh và nghị lực, bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thân thiết
cho nhân dân, cho đất nước, bằng sự hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt
mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên, bằng một tổ chức mạnh mẽ, đoàn kết và mối
liên hệ máu thịt với nhân dân. Tuy nhiên,chúng ta ngày càng phải đối mặt với
khơng ít nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo, sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Do
đó, tăng cường cơng tác xây dựng Đảng là yêu cầu bức thiết của thực tiễn tiến
trình xây dựng và bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước. Công tác xây dựng Đảng thời
gian ua đã bọc lộ một số hạn chế, nhận thức về tầm quan trọng của việc tăng
cường công tác xây dựng đảng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và người
dân chưa đầy đủ, dẫn đến thiếu quan tâm và thiếu nhiệt huyết trong cụ thể hóa
thành hành động. Cơng tác xây dựng Đảng ở một số nơi còn né tránh, nặng bệnh
11 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđđ, t.5, tr551-552

9


thành tích, chưa thực sự chú trọng đến nâng cao chất lượng và phát triển Đảng

về chiều sâu. Do đó, công tác xây dựng Đảng vô cùng quan trọng và cấp thiết.
2.2.

Mục tiêu của xây dựng Đảng.

Xây dựng Đảng là nhằm làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đoàn kết,
thống nhất, có đạo đức, có trí tuệ, có năng lực. Có thể xem đó là mục tiêu trực
tiếp của cơng tác xây dựng Đảng. Nhưng xây dựng Đảng còn nhằm một mục
tiêu xa hơn, có tính chất quyết định hơn, tức là làm cho Đảng “xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, “một lòng một
dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc” như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu trong Di chúc. Đảng khơng có mục đích tự thân, mà vì cách mạng,
vì nhân dân, vì Tổ quốc. Sức mạnh của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với
Đảng chỉ có được khi Đảng phục vụ tốt cho nhân dân, cho Tổ quốc; đoàn kết, tổ
chức, lãnh đạo nhân dân giành được độc lập, thống nhất đất nước, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu cán bộ, đảng viên phải là
người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân, luôn hướng mọi suy
nghĩ, hành động vào việc phục vụ nhân dân. Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các
kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã viết: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì..”
Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc đến các
làng, đều là cơng bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không
phải để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của Pháp, Nhật.
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm
Việc gì hại đến dân, ta hết sức tránh”2
Mối quan hệ giữa dân và chính quyền, giữa dân và Đảng được Chủ tịch
Hồ Chí Minh quan niệm rõ ràng, nhất quán xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình. Tuy nhiên, khơng phải cán bộ, đảng viên nào cũng ý thức

rõ như vậy về trách nhiệm và bồn phận của mình trước Đảng và trước dân.
2 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.56-57

10


Chính vì vậy, cơng tác xây dựng Đảng phải lấy việc phục vụ nhân dân làm cho
Đảng xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân là mục
tiêu cao nhất.
2.3.

Về biện pháp xây dựng Đảng.

Biện pháp nói ở đây là biện pháp mang tính phương hướng, biện pháp
mục tiêu. Di chúc lưu ý các biện pháp lớn sau:
2.3.1.Đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đồn kết là truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ
cần phải giữ gìn sự đồn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình.”3 Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tâm đến xây dựng sự đồn kết, nhất trí trong
Đảng để làm cơ sở cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc
tế. Bác khẳng định chân lý về sức mạnh của đoàn kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Mỗi tầng đồn kết đều có vai trị quan trọng của nó, nhưng đồn kết trong
nội bộ Đảng có vài trị quan trọng nhất, vì Đảng giữ vai trò lãnh đạo. Trong Di
chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến vai trị của đoàn kết nội bộ
Đảng: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ tháng lợi này đến thắng
lợi khác”4. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở các đồng chí, cán bộ, đảng

viên phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình.
Để thực hiện nguyên tắc này, phải:
Một, phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin có lý, có tình.
Hai, Phải dựa trên Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của
Đảng, nghị quyết của tổ chức Đảng.
3 Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
4 Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

11


Ba, Phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình.
Bốn, Phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân và các tiêu cực để thống nhất ý chí và hành động.
2.3.2.Thực hiện ngun tắc tự phê bình và phê bình.
Về vai trị: Chủ tịch Hồ Chí Minh coi thực hiện nguyên tắc này là quy
luật phát triển của Đảng; là vũ khí sắc bén để cải tạo tư tưởng đảng viên, làm
cho mỗi đảng viên tốt hơn, tiến bộ hơn và đoàn kết nhau hơn. Tự phê bình và
phê bình cịn là vũ khí sắc bén để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, làm cho
Đảng ta trong sạch, vững mạnh; để Đảng ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà giai
cấp và dân tộc giao phó.
Về mục đích tự phê bình và phê bình:
Thứ nhất, tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi đảng
viên nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; đồng thời làm cho tổ
chức Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: con người chứ khơng phải là thần
thánh, khơng ai là khơng có khuyết điểm, chỉ khác nhau ở chỗ nhiều hay ít, nặng
hay nhẹ, khác nhau ở thái độ biểu hiện và xử lý khuyết điểm. Trong mỗi con

người, ai cũng có cái tốt – cái xấu, cái thiện – cái ác, cái hay – cái dỡ,… Vì vậy,
chúng ta phải làm sao cho cái thiện nảy nở như hoa mùa xuân và diệt trừ cái ác
đi bằng việc tu dưỡng, rèn luyện của mỗi đảng viên và thiết thực tự phê bình và
phê bình trong tổ chức Đảng. Bác nói: Đảng ta bao gồm đủ mọi tầng lớp trong
xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách khác nhau. Phần đơng là người có đức, có tài,
rất trung thành, kiên quyết, vĩ đại. Song, cũng không phải “người người đều tốt,
việc việc đều hay”. Trong Đảng không tránh khỏi một vài kẻ vu vơ, những việc
khơng chính đáng. Vì vậy, cần phải nghiêm túc tự phê bình và phê bình để đảng
viên ln hồn thiện mình, vươn lên những giá trị chân, thiện, mỹ.
Thứ hai,là để đảng viên giúp đỡ nhau sửa khuyết điểm, giúp nhau cùng
tiến bộ và tăng cường đoàn kết nội bộ Đảng.
12


Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng từ trong xã hội cũ vừa bước
ra mà khơng có những người xấu, việc xấu là điều kỳ hoặc. Nhưng một đảng mà
giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận
khuyết điểm và vạch rõ vì sao mà có khuyết điểm và kiên quyết sửa chữa, đó
mới là một đảng chân chính, chắc chắn và cách mạng. Tuy nhiên, muốn sửa
chửa khuyết điểm, muốn đồn kết chặt chẽ trong Đảng thì phải thật thà tự phê
bình và phê bình đồng chí mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đó là “thang
thuốc hay nhất và thiết thực nhất”. Cịn nếu sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”,
là tự mãn,… Chính vì tầm quan trọng của nguyên tắc này nên trong Di chúc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành “phần trước hết” là “nói về Đảng”: Trong Đảng
phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình. Đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng.
Về phương pháp tự phê bình và phê bình:
Một là, Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, “như
người ta rửa mặt hằng ngày”, được thế thì “trong Đảng sẽ khơng có bệnh tật mà

Đảng sẽ mạnh khỏe vơ cùng”.
Hai là, Tự phê bình và phê bình phải ln trung thực, chân thành, thẳng
thắn với bản thân mình và đối với người khác.
Ba là, Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết. Nếu khơng kiên quyết thì
cũng giống như “ người thầy thuốc đi chữa bệnh cho người khác mà bệnh trong
người không chữa để ngày càng nặng thêm”.
Bốn là, Tự phê bình và phê bình phải có tình đồng chí thương u lẫn
nhau. Bởi vì, ở đây là những người đảng viên, người đồng chí cùng nhau phấn
đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nên phải có “thái độ ứng xử văn hóa” với
nhau.
Năm là, Tự phê bình và phê bình phải nhằm mục đích xây dựng, chứ
“khơng phải để cơng kích, nói xấu nhau”, cũng khơng phải “phê bình lung tung
rồi khơng chịu trách nhiệm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, mục đích của tự phê
bình và phê bình là để học tập cái tốt của nhau, tránh cái sai của nhau; phê bình
13


những người có thói hư, tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta
cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách “làm cho phần thiện trong con người nảy
nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đạp cho tơi bời.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra thái độ cần chú ý khi tự phê bình và phê
bình trong Đảng:
Một là, đối với những đồng chí giác ngộ chính trị cao thì tự phê bình rất
thật thà và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của bản thân. Và khi phê bình
người khác thì rất thành khẩn. Đối với đảng viên này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Chúng ta phải học tập tinh thần và tác phong của các đồng chí ấy”.
Hai là, có một số đồng chí dù có phê bình, giáo dục mấy cũng khơng chịu
sửa chữa khuyết điểm mà “cứ ì ra”. Đối với thái độ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: “Tổ chứ Đảng cần nghiêm khắc mời ra khỏi Đảng để tránh “con sâu
àm sầu nồi canh”.

Ba là, số đông các đồng chí có thái độ là: đối với người khác thì phê bình
rất mạnh, rất “mác xít”, nhưng với bản thân thì “mang một ba lơ chủ nghĩa cá
nhân”, tự phê bình thì lại rất ít, sợ mất thể diện, sợ mất uy tín, khơng tiếp thu ý
kiến phê bình của các đồng chí khác, hoặc tìm những “khó khăn khách quan” để
biện hộ. Đối với thái độ này tổ chứ phải phê bình thật nghiêm túc.
2.3.3.Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách
mạng.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân
dân”.
Về rèn luyện đạo đức của đảng viên: Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trung
với nước, trung với Đảng, hiếu với dân là một trong những tiêu chuẩn quan
trọng nhất làm thành nhân cách cán bộ, đảng viên.
Mặc dù sống trong thời kỳ hịa bình nhưng những thử thách đối với đảng
viên không kém phần nghiệt ngã, nhiều cán bộ, đảng viên khơng chết vì mũi tên,
14


làn đạn mà bị chết vì “những viên đạn bộc đường”, sa vào tham ơ, lãng phí,
quan liêu nhưng căn bệnh mà Hồ Chí Minh gọi là “giặc nội xâm”, giặc trong
lòng, còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm nhiều.
Đối với đảng viên, trung với nước, với Đảng là trong bất cứ hồn cảnh
nào cũng phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết. Bởi vì trong lợi ích
của Tổ quốc, của Đảng có lợi ích của cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
cán bộ, đang viên cũng như bao con người khác, cũng có những nhu cầu chính
đáng về lợi ích vật chất và tinh thần, nhưng có khác là ở chỗ khi cần thì họ sẵn
sàng hy sinh vì lợi ích tối thượng của Đảng, của Tổ quốc. Cho nên, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh vào Đảng là tự nguyện, dám hy sinh. Nếu vào Đảng mà sợ hy

sinh thì đừng vào hoặc khoan hẳn vào Đảng, để khi nào rèn được đức tính hy
sinh rồi hãy vào cũng khơng muộn. Hơn nữa, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn tập trung ở đức tính cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Về vị trí, vai trị của cán bộ, đảng viên:
Về vị trí của cán bộ: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là hệ thống
dây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà nước và các đồn thể. Nói như vậy khơng có
nghĩa là cán bộ xếp ào vị trí gian, mà cán bộ ln ở trong phong trào cách mạng,
luôn là lực lượng trung tâm và đi tiên phong trong phong trào cách mạng của đất
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của quần chúng nhân dân báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách cho đúng”.
Về vai trị của cán bộ: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cán bộ là cái
gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt
hay kém… Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử nhưng cán bộ là
người đầu tàu, có tác dụng hướng dẫn, tập hợp, vận động nhân dân hành động để
đạt mục tiêu cách mạng…
Về vị trí, vài trị của cơng tác cán bộ: Trong xây dựng Đảng, cơng tác cán
bộ ln chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, quyết định đến sự thành bại trong việc
15


xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Thực tiễn hoạt động của Đảng từ khi
ra đời đến nay cho thấy: Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi
đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi và ngược lại. Cả
cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chú trọng đến cơng
tác cán bộ, từ sự lựa chọn, huấn luyện đến sử dụng, đánh giá, đãi ngộ cán bộ.
Yêu cầu về phẩm chất và tư cách của người đảng viên:
Một,suốt đời hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

Hai, tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp các mạng.
Ba, đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết.
Bồn, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Năm, có đời tư trong sáng, là tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân
dân tin và noi theo.
Yêu cầu về năng lực của cán bộ, đảng viên gồm:
Một, có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Hai, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Ba, ln học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt.
Bốn, có phong cách tốt, sâu sát, tỉ mỉ.
2.3.4.Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng lý luận tiên phong của
Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1927, trong tác phẩm “ Đường Kách Mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: Cách mạng muốn thành cơng thì phải có tổ chức vững bền, sức
cách mạng phải tập trung, muốn tập trung thì trước hết phải có Đảng, cũng
giống như đũa thì phải bó lại thành bó chứ khơng phải mỗi chiếc mỗi nơi. Cách
mạng muốn thành cơng thì trước hết phải có Đảng cách mệnh. Có Đảng để trong
thì vận động cơng nơng và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với tất cả các
nước và giai cấp vô sản trên tồn thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định,
Đảng có vững cách mạng mới thành cơng, cũng như “người cầm lái có vững thì
thuyền mới chạy”. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cung nhấn mạnh, Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa “làm cốt”, trong Đảng ai cũng phải hiểu và
16


phải theo chủ nghĩa đó. Đảng mà khơng có “chủ nghĩa” thì cũng giống như
“người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
ra: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chăc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê – nin” 5. Khi nhấn mạnh

vai trò của Chủ nghĩa Mác – Lênin, khi vận dụng phải chú ý năm vấn đề sau:
Thứ nhất, phải hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin, mà hiểu chủ nghĩa Mác –
Lênin là hiểu bản chất của vấn đề, không kinh viện, không biến chủ nghĩa Mác –
Lênin thành công thức, phải hiểu đúng và hành động đúng.
Thứ hai, phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin cho
phù hợp với từng nơi, từng lúc, từng lĩnh vực và từng đối tượng. Chống mọi
biểu hiện giáo điều, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin. Phải quán triệt rằng chủ
nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết sống động được kiểm chứng và khơng
ngừng hồn thiện qua thực tiễn.
Thứ ba,thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm để bổ
sung và làm phong phú kho tàng ý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Chú trọng
học tập kinh nghiêm tốt của các Đảng cộng sản trên thế giới.
Thứ tư, phải đấu tranh chống những luận điểm xuyên tạc, cơ hội, xét lại
Chủ Nghĩa Mác – Lênin.
Thứ năm, dựa trên cơ sở Chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng tình đồn
kết trong phong trào cộng sản quốc tế.

5 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.02, tr.268

17


KẾT LUẬN
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một văn kiện lịch sử chính trị, là
di sản vơ giá để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Học tập, nghiên cứu
di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấm thía nhiều bài học về
lòng yêu nước, thương dân. Những lời dặn dò tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh với Đảng, với thế hệ trẻ, với nhân dân lao động, việc giải quyết hậu quả
của chiến tranh, xây dựng con người, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân, với phong trào cộng sản và công nhân Quốc tế, bạn bè trên thế giới,…

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bản tổng kết cô động về cuộc đời trọn vẹn
của một con người: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tâm nguyện, tình cảm, niềm tin,
trách nhiệm của Người với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của nhân dân ta. Di chúc thể hiện sự tự nhận thức sâu sắc về bản thân của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đón nhận quy luật sống bằng phong thái ung
dung, tự tại, chuẩn bị việc ra đi của mình bằng những lời tâm huyết dặn lại:
Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tơi hết lịng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục
vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tơi khơng có
điều gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phụ vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa”6. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân
của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về cơng việc sự nghiệp cách
mạng cịn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh
phúc riêng tư, hiến dâng trọn cả cuộc đời mình cho Tổ quốc và nhân dân, tấm
ịng thủy chung, trách nhiệm với “các nước anh em” và “bầu bạn khắp Năm
châu”.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơng trình lý luận về xây dựng và
củng cố Đảng cầm quyền. Trong di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Đảng ta là Đảng cầm quyền”, để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội. Đảng
ta ln phải vững mạng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với
6 Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

18


nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
mình. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu những vấn đê cốt yếu của công tác
xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đồn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc

tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách
mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ,
đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệ vụ chiến lược, là công việc thường
xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Sự nghiệp cách mạng
là một sự nghiêp bền bỉ, lâu dài, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đảng
cầm quyền phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng phát triển lực lượng cán bộ hiện tại
và chuẩn bị cho mai sau một thế hệ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”. Chủ tịch
Hồ Chí Min căn dặn “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quang trọng và rất cần thiết”, đó là công việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo
dục truyền thống yêu nước và ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo bồi
dưỡng nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn: Cách mạng Việt Nam khơng thể tách rời cách mạng thế giới.
Sự vững mạnh của Đảng cịn được khẳng định trong mối quan hệ đồn kết chặt
chẽ với các Đảng cộng sản và bạn bè quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng
quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế,
dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý có
tình”.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Một văn kiện lịch sử, NXB Chính
Trị Quốc Gia.
2. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng,
PGS.TS Nguyễn Văn Giang.
3.Đề cương tuyên truyền 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (2/9/1969 – 2/9/2014), Ban Tuyên Giáo Trung Ương.

20




×