Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phát triển năng lực dạy học thông qua học tập trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.62 KB, 10 trang )

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC DẠY HỌC CHO SINH VIÊN THÔNG QUA
HỌC TẬP DỰA TRÊN KINH NGHIỆM
Developing Pedagogical Competence Student’s throungh Experiential
Learning
ThS. Nguyễn Văn Hạnh - 0975300198, ThS. Nguyễn Hữu Hợp
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Email:
Tóm tắt: Trong những năm qua, nhiều nhà giáo dục đã được tập trung
nghiên cứu vào nền tảng lí thuyết học tập dựa trên kinh nghiệm, trong đó,
nổi bật nhất là nghiên cứu của Kolb xuất bản năm 1984, ông đã cung cấp
một mô hình về quá trình học tập từ kinh nghiệm đặt nền móng quan trọng
cho việc phát triển các mô hình học tập hiệu quả trong từng lĩnh vực học
tập cụ thể. Bài viết này đề xuất con đường phát triển năng lực dạy học
cho sinh viên dựa vào mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb.
Abstract: In recent years, many educators have been focused on the
research platform based on Experiential Learning Theory, including, most
notably Kolb's research published in 1984, he has provided a model about
the process of learning from experience laid the foundation for important
developing effective learning models in each specific field of study. This
article proposes the development of pedagogical competence throungh
Kolb’s model of experiential learning.
Từ

khóa:

Experiential

Learning

Theory,


Kolb’s

learning

cycle,

Pedagogical Competence

1. MỞ ĐẦU
Học tập dựa trên kinh nghiệm (Experiential Learning) là một tư tưởng,
lí thuyết giáo dục hiện đại, nổi bật trong thế kỉ 20 được đặt nền móng bằng
các nhà khoa học giáo dục hàng đầu trên Thế Giới như Vygotsky, Dewey,
Lewin, Piaget, Kolb, và những nhà giáo dục khác. Học tập dựa trên kinh
nghiệm đóng một vai trò trung tâm trong lí thuyết về học tập và phát triển con
người, nó cung cấp các mô hình về quá trình học tập từ kinh nghiệm, trở
thành xu hướng, nền tảng giáo dục trong thế kỉ 21. Trong các nghiên cứu đó,
1


nổi bật là nghiên cứu của Kolb xuất bản trong năm 1984, có sự ảnh hưởng lớn
và được ứng dụng rộng rãi trên Thế Giới, mô hình học tập của ông đóng một
vai trò nền tảng cho việc phát triển các mô hình học tập hiệu quả trong từng
lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Bài viết này đề xuất con đường phát triển năng
lực dạy học cho sinh viên dựa vào việc phát triển mô hình học tập dựa trên
kinh nghiệm của Kolb trong dạy học nghiệp vụ sư phạm.
2. NỘI DUNG
2.1. Trao đổi về năng lực và năng lực dạy học
Chúng ta dễ dàng bắt gặp thuật ngữ “năng lực” được hiểu với nhiều
phương diện khác nhau trong nhiều tài liệu, tuy nhiên theo phương diện giáo
dục thì nên hiểu Năng lực (Competency) là thuộc tính cá nhân cho phép cá

nhân thực hiện thành công hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn
trong những điều kiện cụ thể [3]. Với cách hiểu này thì năng lực bao giờ cũng
được đặc trưng ở quá trình hoạt động (phương pháp, tốc độ, hiệu suất) và kết
quả hoạt động (sản lượng, chất lượng của sản phẩm đạt tiêu chí) khi tương tác
với những đối tượng nhất định. Mặt khác, phương pháp dạy học chính là cách
thức dạy học mà nhà giáo thiết kế và thực hiện tác động vào người học và
hoạt động học tập của người học nhằm hỗ trợ, thúc đẩy cho việc học tập theo
mục đích đã qui định. Như vậy, trong dạy học, thành tố quan trọng nhất của
năng lực chính là kĩ năng dạy học của nhà giáo nhằm tác động lên đối tượng
(người học) để giúp họ duy trì hành vi học tập. Do đó, trong việc phát triển
năng lực dạy học, quan trọng nhất chính là việc hình thành, phát triển kĩ
năng dạy học mà thôi. Đương nhiên, ta cũng quan tâm đến các thành tố khác
của năng lực là tri thức, thái độ, và các yếu tố bổ trợ khác như tâm vận động,
sức khỏe, tình cảm, … Vì được đặc trưng bởi phương pháp dạy học nên năng
lực dạy học không phải là khả năng (Ability) – có thể làm được hoặc không
làm được, cũng không phải ở dạng tiềm năng (Protential) mà nó hiện hữu thật
ở mỗi nhà giáo. Do đó, Năng lực dạy học được định nghĩa là việc thường
xuyên áp dụng thái độ, kiến thức, kỹ năng nhằm thúc đẩy việc học tập của
2


người học theo phương thức tối ưu phù hợp với mục tiêu học tập, nguồn lực
vật chất, và ý tưởng phát triển liên tục năng lực cá nhân và thiết kế dạy học
của giáo viên [5]. Định nghĩa này đưa ra một số khía cạnh quan trọng về năng
lực dạy học của giáo viên bao gồm: 1- Thái độ; 2- Kiến thức; 3- Kĩ năng; 4Thích ứng với thực tiễn (nguồn lực vật chất); 5- Kiên trì (khả năng và ý chí);
6- Phát triển liên lục; 7- Tích hợp trọn vẹn kiến thức và kĩ năng trong trải
nghiệm năng lực dạy học. Năng lực dạy học được đặc trưng bởi việc giáo
viên xác định các mục tiêu rõ ràng, các nguồn lực dạy học, và trực tiếp trải
nghiệm thông qua việc phát triển liên tục của ý tưởng dạy học và nghề nghiệp
cá nhân, hỗ trợ và tạo điều kiện học tập của người học một cách tốt nhất.

Năng lực hoạt động nghề nghiệp của mỗi người nói chung và năng lực
dạy học nói riêng bao giờ cũng chứa đựng bốn thành tố: Năng lực Phát triển
(Sáng tạo), Năng lực Hiểu (Tri thức – Trí tuệ), Năng lực Làm (Kĩ năng – kĩ
xảo và cách thức hoạt động) và Năng lực Cảm (Tình cảm – Giá trị) [2].
Đương nhiên, mỗi năng lực riêng rẻ này cũng sẽ có cấu trúc gồm các thành tố
chính là kiến thức, kĩ năng, và thái độ. Mối quan hệ của bốn thành tố này
được thể hiện trong hình 1.

Hình 1: Các thành phần kinh nghiệm xã hội phản ánh những năng lực chung
nhất [2]
Theo đó, năng lực thông qua học tập mà người học có được chính là sự
thống nhất hài hòa của ba năng lực Hiểu, Làm và Cảm tạo ra tính toàn vẹn,
hình thành năng lực nghề nghiệp mới ở mỗi cá nhân, đưa họ lên trình độ mới,
cao hơn, hình thành lên chất mới – năng lực mới ở cá nhân. Năng lực này đặt
nền móng cho năng lực Phát triển, thúc đẩy sự Sáng tạo trong nghề nghiệp ở
3


mỗi cá nhân, Sự Sáng tạo được xem như là thuộc tính cá nhân, làm nảy sinh
những ý tưởng mới, và được xem là năng lực phát triển ở mỗi cá nhân. Đây
chính là cơ chế phát triển của năng lực.
Do đó, trong dạy học, có thể hiểu: Phát triển năng lực dạy học là một
quá trình, trong đó giáo viên thiết kế và thực hiện dạy học, liên tục quan sát,
và phản ánh hoạt động dạy học của chính mình và ảnh hưởng của nó đến
người học, phát hiện những mặt tồn tại để điều chỉnh sửa đổi dựa trên việc
đánh giá thường xuyên liên tục.
2.2. Bản chất mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb
Khi nghiên cứu về học tập dựa trên kinh nghiệm, Kolb tin rằng, phong
cách học tập của mỗi người là kết quả từ một tương tác giữa đặc điểm bên
trong một cá nhân và môi trường, hoàn cảnh bên ngoài của họ nhằm thu nhận

và xử lí thông tin trong các tình huống học tập. Đây chính là nền tảng tư
tưởng để ông phát triển mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm được thể hiện
trên hình 2.

Hình 2: Mô hình học tập dựa trên nghiệm của Kolb (Kolb’s Model of
Experiential Learing) [6]

4


Bản chất của mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb (hình 2)
là một vòng xoắn ốc mô tả quá trình học tập gồm bốn giai đoạn cơ bản bao
gồm: 1/ Kinh nghiệm cụ thể (Concrete Experience), 2/ Quan sát phản ánh
(Reflective

Observation),

3/

Trừu

tượng

khái

niệm

(Abstract

Conceptualisation), 4/ Thử nghiệm (Active Experimentation); và định nghĩa

về bốn phong cách học tập tương ứng với các giai đoạn học tập bao gồm: 1/
Điều ứng (Accommodative), 2/ Phân kì (Divergent), 3/ Đồng hóa
(Assimilative), 4/ Hội tụ (Convergent). Theo hình 2, học tập sẽ xuất phát từ
một mâu thuẫn giữa Kinh nghiệm cụ thể và Khái niệm trừu tượng. Khi giải
quyết mâu thuẫn này, người học nào thích sự bao quát, nhận thức vấn đề sẽ ưa
thích “Suy nghĩ - Thinking”, trong khi người nào thích sự rõ ràng, hiểu rõ vấn
đề sẽ ưa thích “Cảm xúc - Feeling” khi bày tỏ, trình diễn một kinh nghiệm
trong học tập. Hai cách thức chuyển đổi ý nghĩa đúc rút từ kinh nghiệm là
Thử nghiệm và Quan sát phản ánh, người học nào thích sự mở rộng, hiểu
ngoại diên vấn đề sẽ ưa thích “Làm - Doing”, trong khi người nào thích nội
hàm, nội dung vấn đề sẽ ưa thích “Xem- Watching” khi cố gắng để áp dụng ý
nghĩa của trải nghiệm. Theo mô hình học tập của Kolb, quá trình học tập lí
tưởng thì người học phải đi qua tất cả bốn giai đoạn này nhằm giải quyết vấn
đề trong tình huống học tập thì sẽ đạt hiệu quả học tập cao nhất. Bản thân mỗi
cá nhân sẽ nỗ lực, cố gắng sử dụng, tiếp cận cả bốn giai đoạn này, tuy nhiên,
họ thường có xu hướng phát triển, chiến ưu thế về một phong cách học tập.
Điều này làm giáo viên sẽ thấy nản lòng khi lựa chọn một phương pháp dạy
học vì phong cách học tập ưa thích giữa các học sinh là khác nhau ở trong
lớp. Nhưng thực tế thì luôn diễn ra điều đó. Do vậy, giáo viên cần áp dụng
các phương pháp dạy học đa dạng và có ảnh hưởng tương tác với nhau nhằm
đáp ứng việc học tập không giống nhau của người học.
Bản chất mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb xem năng lực
là nền tảng của giáo dục, dạy học phải dựa vào năng lực của người học. Trong
đó, ông đặc biệt nhấn mạnh về kinh nghiệm cụ thể của người học, được xem
như là điểm xuất phát của quá trình học tập. Trải qua mỗi chu trình học tập,
5


kinh nghiệm về tri thức hoặc kĩ năng sẽ được huy động trước nhằm thực
hiện thành công các nhiệm vụ học tập, qua đó, đặt nền móng cho sự phát

triển của năng lực mới ra đời. Như vậy, học tập dựa trên kinh nghiệm chính
là con đường hữu hiệu trong việc hình thành và phát triển năng lực nói chung
và năng lực dạy học nói riêng.
2.3. Đề xuất mô hình phát triển năng lực dạy học dựa vào học tập dựa
trên kinh nghiệm
Như đã bàn ở trên, mục đích của việc phát triển năng lực dạy học chính
là hình thành và phát triển kĩ năng dạy học cho sinh viên trong quá trình dạy
học nghiệp vụ sư phạm. Bởi vì, kĩ năng dạy học là kĩ năng nghề nghiệp mà
nhà giáo cần có và sử dụng trong hoạt động dạy học để tiến hành có hiệu quả
các nhiện vụ dạy học theo mục tiêu hay tiêu chuẩn đã qui định [4]. Do đó, kĩ
năng dạy học – năng lực Làm việc dạy học chính là sự thống nhất hài hòa
giữa ba thành tố của năng lực gồm tri thức, kĩ năng, và thái độ của việc dạy
học. Hình thành và phát triển kĩ năng dạy học (năng lực Làm việc dạy học)
cho sinh viên cần phải có một con đường, cách thức mà ở đó cho phép họ rèn
luyện và trải nghiệm tri thức, kĩ năng, và thái độ đến một mức độ nào đó và
được tích hợp lại nhằm cho phép cá nhân tiến hành các hoạt động dạy học
hiệu quả như mong muốn và trở thành năng lực mới, làm nảy sinh những ý
tưởng mới, đây chính là năng lực phát triển ở mỗi cá nhân. Lấy mô hình học
tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb làm nền tảng và kế thừa mô hình của
Thomas Olsson (2010), chúng tôi đã phát triển và đề xuất mô hình học tập và
phát triển năng lực dạy học áp dụng trong đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh
viên như hình 3:

6


Hình 3: Mô hình phát triển năng lực dạy học dựa vào mô hình học tập dựa
trên kinh nghiệm của Kolb.
Mô hình này được vận dụng trong dạy học và học tập nghiệp vụ sư
phạm cho sinh viên, và được thực hiện theo hình xoắn ốc để hình thành và

phát triển kĩ năng dạy học, liên tục phát triển năng lực dạy học qua mỗi một
chu trình học tập. Sinh viên sẽ thực hiện các hoạt động học tập dưới sự tổ
chức, hỗ trợ, chia sẻ của giáo viên, có thể bắt đầu hoạt động học tập thông
việc thực hành dạy học, qua đó liên tục quan sát và phản ánh hoạt động dạy
học của chính mình và ảnh hưởng của nó trên người học. Thực hiện phân tích
dựa trên lí thuyết dạy học, đi đến việc lập kế hoạch, thiết kế dạy học và thực
hiện cho lần sau. Như vậy, sau mỗi một chu trình, người học đã củng cố và
phát triển năng lực dạy học cho chính bản thân mình. Với mô hình học tập
nghiệp vụ sư phạm này, giáo viên có thể áp dụng một số chiến lược dạy học
và học tập hiệu quả như: 1- Dạy học dựa vào dự án; 2- Dạy học dựa vào
nghiên cứu trường hợp; 3- Dạy học hợp tác nhóm; 4- Dạy học dựa vào tìm tòi
khám phá, …
Trong mô hình này, nếu chúng ta nhìn về con đường tìm kiếm thông tin
sẽ thấy được hai xu hướng hoạt động học tập rõ rệt gồm: hoạt động cá nhân –
hoạt động hướng vào trong là thực hành dạy học, và quan sát phản ánh; hoạt
động cộng đồng – hoạt động hướng ra ngoài là lý thuyết dạy học, và thiết kế
7


dạy học. Trong khu vực hoạt động cá nhân, đánh giá về kiến thức và kĩ năng
của người học là rất khó khăn vì kinh nghiệm cá nhân của họ về các mặt của
vấn đề là rất rộng, cộng thêm nét sáng tạo trong phong cách học tập phân kì
có được. Đối với khu vực hoạt động cộng đồng, sự hội tụ kiến thức sẽ mang
đến một nguyên tắc, phương án lập kế hoạch, thiết kế dạy học duy nhất, do
vậy, hầu hết các kĩ năng đánh giá người học sẽ tập trung vào giai đoạn hội tụ
trong vùng hoạt động cộng đồng.
2.4. Định hướng lựa chọn các hoạt động học tập phù hợp với các giai
đoạn trong mô hình phát triển năng lực dạy học
Theo hình 3, tùy thuộc vào mỗi giai đoạn học tập mà giảng viên cần lựa
chọn hoạt động dạy học hợp lí để nâng cao hiệu quả học tập nghiệp vụ sư

phạm của sinh viên, có thể áp dụng một số giải pháp định hướng sau:
1/ Để nâng cao việc đúc kết, hình thành, và phát triển kĩ năng dạy học,
giảng viên có thể tổ chức các hoạt động học tập cho sinh viên như: nhật ký
học tập, câu hỏi, trải nghiệm trực tiếp, mô phỏng;
2/ Để trở lại kinh nghiệm, kĩ năng dạy học đã có trước đó và suy ngẫm
về nó, có thể sử dụng các hoạt động học tập như: nhật ký học tập, sử dụng bản
ghi âm và video, đánh giá theo cặp, tự đánh giá, phỏng vấn lẫn nhau, động
não về tất cả nội dung sẽ được phản ánh sau một chủ đề, tình huống học tập
được đưa ra;
3/ Đối với việc cung cấp một tri thức dạy học mới, giảng viên có thể tổ
chức cho sinh viên sử dụng một số hoạt động học tập như: nghiên cứu trường
hợp, trò chơi, mô phỏng có vai trò của dẫn hướng, đánh giá, thông qua đó
phát triển tri thức về kĩ năng dạy học, thay thế kinh nghiệm dạy học đã có;
4/ Đối với việc lập kế hoạch hành động, giảng viên tổ chức cho sinh
viên xác định các mục tiêu cụ thể, xây dựng kế hoạch thực nghiệm, bài tập dự
án, lập danh sách tất cả các sự kiện cần quan sát, xác định các tiêu chí thực
hiện cho các hành động, các thỏa thuận dạy học với giảng viên.

8


3. KẾT LUẬN
Lí thuyết học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb là một lí thuyết giáo
dục hiện đại, nó cung cấp một mô hình về quá trình học tập và phát triển con
người từ kinh nghiệm. Mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb có
tiềm năng rất lớn trong việc phát triển các mô dạy học trong từng lĩnh vực học
tập cụ thể nói chung, và việc hình thành và phát triển năng lực dạy học cho
sinh viên. Mô hình phát triển năng lực dạy học được đề xuất có nền tảng từ
mô hình của Kolb, cung cấp một con đường hữu hiệu trong việc rèn luyện và
trải nghiệm tri thức, kĩ năng, và thái độ về việc dạy học và tích hợp chúng lại

với nhau để hình thành năng lực dạy học mới cho sinh viên. Dạy học nghiệp
vụ sư phạm thông qua việc thiết kế các hoạt động học tập dựa trên mô hình
phát triển năng lực dạy học chính là con đường, cách thức hiệu quả nhằm hình
thành và phát triển kĩ năng dạy học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phạm Văn Hải (2013), Bản chất và đặc trưng của lí thuyết dạy học kiến
tạo, Tạp chí Khoa học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội số 58, tr 7581, Hà Nội.
[2] Đặng Thành Hưng, Trịnh Thị Hồng Hà, Nguyễn Khải Hoàn, Trần Vũ
Khánh (2012), Lí thuyết phương pháp dạy học, Nhà xuất bản Đại học
Thái Nguyên, Thái Nguyên.
[3] Đặng Thành Hưng (2012). Năng lực và giáo dục theo tiếp cận năng lực,
Tạp chí Quản lí giáo dục, số 43 tháng 12/2012, Hà Nội.
[4] Đặng Thành Hưng (2013), Kĩ năng dạy học và tiêu chí đánh giá, Tạp chí
Khoa học giáo dục, Số 88, tháng 1/2013, trang 5-9, Hà Nội.
[5] Giertz (2003), Pedagogical Competence – A key to Pedagogical
development and Quality in Higher education, A Swedish perspective on
Pedagogical competence, p 25-40, Swedish.
[6] Kolb, D.A. (1984). Experiential learning: experience as the source of
learning and Development, Englewood Cliffs, New Jersey: Prentice-Hall.
9


Nguồn: Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Hữu Hợp (2014), Phát triển năng lực
dạy học cho sinh viên thông qua học tập dựa trên kinh nghiệm, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học cán bộ trẻ các trường sư phạm toàn quốc lần thứ 4, Đại
học Hải Phòng, NXB Đại học Sư phạm, tr. 691 - 696.

10




×