Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Văn học 9 Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.48 KB, 3 trang )

Đề bài: Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Trong kho tàng văn học VN, số phận người phụ nữ luôn là mảng đề tài thu hút được bút
lực của không ít các văn nghệ sĩ. Người phụ nữ thời xưa đã nhiều lần mượn ca dao để nói lên
số phận bi thương của mình "Thân em như trái bần trôi/ Gió dập sóng dồi biết tấp vào
đâu...". Đến văn học trung đại, Nguyễn Dữ với "Chuyện..." và đại thi hào Nguyễn Du với
"TK" đã một lần nữa làm sống lại mảng đề tài đặc sắc này. Qua cả hai tác phẩm, hình ảnh
người phụ nữ trong xh xưa hiện lên thật sinh động, rõ nét nhưng ấn tượng hơn cả vẫn là số
phận đầy bất hạnh và bi kịch của họ trong chế độ phong kiến bất công, hà khắc.
Hình ảnh người phụ nữ là nạn nhân của xh phong kiến với số phận đau khổ, bất hạnh,
đã được 2 tác giả khắc họa thành công với 2 hình tượng nhân vật trung tâm là Vũ Nương và
Thúy Kiều. Trước hết, qua nhân vật Vũ Nương, ta thấy được ngưởi phụ nữ xưa là nạn nhân
của chế độ nam quyền bất công. Ngay ở phần mở đầu tác phẩm, tác giả đã phác họa nên một
cuộc hôn nhân không bình đẳng khi TS xin mẹ trăm lượng vàng cưới VN về làm vợ. Sự cách
biệt giàu nghèo ấy vẫn luôn khiến VN mặc cảm "thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà
giàu". Vì vậy, trong cuộc sống vợ chồng, nàng luôn cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn
khuôn phép nên dù chồng có tính đa nghi với vợ, phòng ngừa quá sức nhưng gia đình vẫn
chưa từng bất hòa. Tuy nhiên cũng chính sự cách biệt giàu nghèo này đã tạo cho TS một cái
thế bên cạnh cái thế của ng đàn ông, một ng chồng trong gia đình mà đối xử với vợ một cách
vũ phu, thô bạo, gia trưởng. Sau khi TS đi lính VN phải đảm đương vai trò của 1 ng con, 1
ng vợ, 1 ng mẹ. Với chồng, nàng là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Với mẹ
chồng và con, nàng là một người con dâu hiếu thảo, một người mẹ hiền, một mình vừa nuôi
con nhỏ vừa tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Chính lời trăn trối cuối cùng của
mẹ chồng đã ghi nhận công lao của nàng với gia đình chồng. Đó là một sự đánh giá không
chỉ xác đáng mà còn rất khách quan. Như vậy, VN đã làm tròn bổn phận của ng phụ nữ: một
ng mẹ, 1 ng vợ, 1 ng con mà ở cương vị nào cũng thật hoàn hảo. Nàng xứng đáng là ng phụ
nữ lí tưởng ở mọi gđ. Ng phụ nữ như thế đáng lẽ phải đc hưởng hạnh phúc trọn vẹn nhưng
xh nam quyền bất công đã ko cho nàng cơ hội ấy. Sau khi đi lính trở về, chỉ vì hiểu lầm lời
con nhỏ mà TS độc đoán, hồ đồ mắng nhiếc VN ko cho nàng cơ hội thanh minh, phải tìm
đến cái chết để minh oan. Là ng ko có học, thiếu trí tuệ nên TS đã bị ghen tuông làm cho mờ
mắt. TS ko đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích , phán đoán, ko thấy sự vô lí trong lời đứa
trẻ. Chàng bỏ ngoài tai lời phân trần của vợ, lại giấu kín ko nói nguyên nhân. TS cũng ko tin


lời họ hàng, làng xóm mà chỉ biết la um lên để thỏa cơn giận rồi mắng nhiếc và đánh đuổi


vợ. TS ko hề nghĩ đến cái nghĩa phu thê, càng chẳng đếm xỉa đến công lao của VN. Anh ta
thô bạo, phũ phàng vì đó là bản tính anh ta và còn vì anh ta là con đẻ của chế độ nam quyền.
Thái độ dẻ dúng, tàn tệ của TS vs VN còn biểu hiện quyền thế của kẻ giàu vs ng nghèo trong
1 xh mà đồng tiền đã làm đen bạc thói đời. Cuộc hôn nhân ko bình đẳng khiến TS thành bạo
chúa trong gđ. "Chuyện..." đã lên án và phê phán tính đa nghi, sự ghen tuông và hđ phũ
phàng của hạng ng như TS. CHính tính đa nghi, hay ghen , hđ mắng nhiếc, đánh đuổi vợ là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của VN. Cái chết của nàng là sự đầu hàng số phận
nhưng cũng là lời tố cáo thói gia trg, luật lệ pk hà khắc đã dung túng cho sự độc ác, tối tăm.
Nếu VN là nạn nhân của chế độ nam quyền thì TK được NDu khắc họa thành công với
hình tượng ng pnữ là nạn nhân của xh đồng tiền. Chỉ vì đồng tiền, bọn sai nha đã gây nên vụ
án oan trong gia đình Kiều, vì đồng tiền mà bọn chúng đã phá hoại hạnh phúc gia đình Kiều,
từ một mái ấm êm đềm bỗng tan hoang, lạnh lẽo. Thuý Kiều, với tư cách là một người chị cả
phải đứng ra lo liệu mọi chuyện, nàng phải hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình lấy
tiền hối lộ cho sai nha để cứu cha và em khỏi bị tra khảo dã man. Bi kịch cuộc đời bắt đầu từ
đây, khi mà con người, nhân phẩm bị người ta mua đi bán lại như một món hàng. Mã Giám
Sinh, Tú Bà xuất hiện càng làm nổi bật lên hình tượng một Thuý Kiều bất hạnh, đau đớn ê
chề: “Đắn đo cân sắc cân tài/ Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ/… Cò kè bớt một thêm
hai” Từ một ng con gái tài sắc vẹn toàn, Kiều đã trở thành một món hàng được MGS cân đo
đong đếm: "Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm". Cảnh mua bán hiện lên thật sinh động, có
người mua, kẻ bán, có sự thử hàng, trả giá, mặc cả, giao kèo. Từ “ép”, “thử” đã lột trần bản
chất của Mã Giám Sinh, đồng thời khắc hoạ được rõ nét nỗi đau đớn, bất hạnh khi bị coi như
một món hàng mua bán của Thuý Kiều. Nỗi bất hạnh càng thêm chồng chất khi nàng bị
MGS và Tú Bà đẩy vào lầu xanh khiến nàng trải qua 15 năm lưu lạc "thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần". Từ một cô gái tiểu thư khuê các, vô lo vô nghĩ về cuộc đời, hạnh phúc tình
yêu đang chớm nở, giờ đây Kiều đã mất tất cả, hạnh phúc lứa đôi, mái ấm gia đình. Nỗi xót
xa, tủi nhục đã đẩy Kiều 2 lần tìm đến cái chết. Sự bế tắc tìm đến cái chết của nàng không
chỉ do những kẻ buôn thịt bán người như MGS, Tú Bà gây ra mà còn phản ánh sự tàn nhẫn

của xh đồng tiền thối nát.
Qua cả hai tác phẩm, hình ảnh ng pnữ trong xh pk hiện lên vs số phận vô cùng bất hạnh,
luôn phải chịu những luật lệ hà khắc bất công của chế độ trọng nam khinh nữ. Họ ko thể tự
làm chủ cuộc đời mình, ko thể tự tìm cho mình một con đường, một hướng đi đến hạnh phúc.
Cái chết của VN hay những lần tìm đến cái chết của TK là lời tố cáo đanh thép nhất xã hội


pk xấu xa - xh đã vùi dập đi những ng phụ nữ đẹp và tài hoa như VN, TK. Ca dao xưa cũng
đã nhiều lần thay ng pnữ cất lên những tiếng than thân đầy ai oán: "Thân em như hạt mưa sa/
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày" ,"Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào
tay ai". Số phận người phụ nữ, lúc thì như "hạt mưa sa", lúc thì như "tấm lụa đào"...Dù được
dân gian ví với điều gì, thì người phụ nữ cũng đều chung một số phận đau khổ gian nan. Họ
không biết sẽ sống ra sao, sẽ bị dòng đời đưa đẩy trôi nổi đến phương trời nào? Sẽ sống sung
sướng nơi "đài các" hay lại làm lụng vất vả nơi "ruộng cày"? Đối với họ, quãng đời phía
trước vô cùng mịt mù, chẳng biết được điều gì sắp xảy đến. Hình ảnh ng pnữ vs số phận long
đong lận đận cũng từng xuất hiện nhiều lần trong thơ của nữ sĩ HXH "Thân em...". Bài thơ
chỉ có bốn câu, lời thơ giản dị nhưng vô cùng sâu sắc. Nữ sĩ đã mượn hình ảnh bánh trôi
nước để người phụ nữ tự khẳng định vẻ đẹp bên ngoài và phẩm chất bên trong của mình qua
đó đại diện cho những người bất hạnh tố cáo xã hội bất công đã vùi dập thân phận người phụ
nữ đương thời. Lời thơ cũng là khát vọng được bình đẳng, được coi trọng phẩm giá, là "tiếng
lòng chung" đầy phẫn nộ của người phụ nữ thời xưa. Nếu như HXH từ cảm nhận của chính
mình mà nói lên niềm khát khao của những ng pnữ thời bà thì đại thi hào thế kỉ 18 NDu lại
bằng niềm cảm thông sâu sắc, để các nvật được bộc lộ nỗi đau đớn của mình. Những con
người vốn bị coi rẻ trong xã hội như ng pnữ vẫn được ông đề cập đến một cách trân trọng,
thương yêu. Đồng thời ông cũng khái quát bản chất tàn bạo của xã hội phong kiến, bộc lộ sự
phẫn nộ đối với những kẻ chỉ vì đồng tiền mà hãm hại người khác, chà đạp lên nhâm phẩm
của người khác. Ông là người đầu tiên trong văn học trung đại đã nêu lên một cách tập trung
vấn đề về thân phận những người phụ nữ có sắc đẹp và tài năng văn chương nghệ thuật, từ
đó đề cao con ng từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, khát vọng chân chính.
Đóng lại những trang văn, dòng thơ về số phận người phụ nữ trong xh cũ, người đọc

hẳn sẽ còn mãi ám ảnh về cuộc đời gian truân, đầy sóng gió của họ. Ta càng xót xa thương
cảm cho người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, thì càng căm giận cái xã hội thối
nát, bất công đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Những ng pnữ có tài năng và
phẩm chất tốt đẹp như họ cần phải được nâng niu và trân trọng . Hiểu được điều này, ta càng
thêm đồng cảm với NDu khi đại thi hào cất lên tiếng kêu đầy ai oán: "Đau đớn..."



×