Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, qua thực tiễn tòa án nhân dân thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************

TRẦN THỊ THU HÀ

VAI TRÒ CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN, QUA THỰC
TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế

HÀ NỘI - 2015
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 4

Chƣơng 1 ................................................................................................................ 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ................................... 8
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN .......................................................................................................... 9

1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT................................... 9
1.1.1. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật ......... 9


1.1.2. Đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật ..................................................... 14
1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa
án nhân dân ........................................................................................................... 20
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân ................................................................................................................ 20
1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân. ............................................................................................................... 22
1.3. Các giai đoạn áp dụng pháp luật về xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân
dân ......................................................................................................................... 34
1.3.1. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ..................................... 35
1.3.2. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm ................................. 42
1.3.3. Áp dụng pháp luật của tòa án trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm
các vụ án hình sự ................................................................................................... 46
1.4. Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân
dân trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam ............................. 50
1.4.1. Nhận thức chung về nhà nước pháp quyền ................................................. 50
1.4.2. Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam .................... 52
Chƣơng 2 ................................................................. Error! Bookmark not defined.
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN .......................... 62
HÌNH SỰ QUA THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ....... 62

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Hải Phòng ....................... 62
2.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng .......................... 64
2.3. Kết quả áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân
dân thành phố Hải Phòng ...................................................................................... 67
2.4. Đánh giá về ưu điểm trong áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự
của Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng ........................................................... 74
2.5. Đánh giá về những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng
pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân thành phố Hải

phòng ..................................................................................................................... 77
2


2.6. Về những bất cập từ các quy định pháp luật và vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng pháp luật về xét xử hình sự ở các tòa án nhân dân thành phố Hải phòng77
Chƣơng 3 .............................................................................................................. 86
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM .............................................. 86

3.1. Quan điểm về đảm bảo vai trò áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình
sự của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ
quyền con người .................................................................................................... 86
3.1.1. Bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự
của tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân ..................................................................................................... 87
3.1.2. Bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phòng chống oan
sai trong áp dụng pháp luật của tòa àn về xét xử các vụ án hình sự ..................... 89
3.1.3. Đảm bảo tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự, tính công minh, dân
chủ của phiên toà hình sự, tạo lập niềm tin của người dân vào công lý, tranh
tụng trong xét xử các vụ án hình sự ...................................................................... 90
3.1.4. Đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc xét xử hình sự trong áp dụng pháp luật
về xét xử các vụ án hình sự của tòa án ................................................................. 92
3.1.5. Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự nhằm tăng cường đấu
tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quyền giám sát của nhân dân, của các tổ chức
chính trị, xã hội ..................................................................................................... 93
3.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật về xét xử hình sự của
tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp

quyền hiện nay ở nước ta ...................................................................................... 94
3.2.1. Khái quát chung về các nhóm giải pháp cơ bản ......................................... 95
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự ............................................. 96
3.2.3. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự ....................................................... 102
3.2.4. Giải pháp về công tác cán bộ .................................................................... 104
3.2.5. Tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật ....... 108
3.2.6. Tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động áp dụng pháp luật về
xét xử các vụ án hình sự của tòa án .................................................................... 109
3.2.7.Giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo, trách nhiêm của các tổ chức Đảng
đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự của tòa án 109
KẾT LUẬN LUẬN VĂN ........................................................................................ 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 112

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án
hình sự của tòa án phải tuân thủ đúng các nguyên tắc cơ bản của xét xử hình sự,
các nguyên tắc hiến định đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và trong
Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của ngành Tòa án, củng cố lòng
tin của nhân dân là trách nhiệm, là thông điệp của ngành tòa án mà Đảng và
Nhà nước ta đã xác định, việc đánh giá hoạt động của ngành tòa án không có ai
bằng dân, đó là bài phátt biểu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong buổi
làm việc với lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao về kết quả công tác tòa án năm

2014. Chủ tịch nước đã nêu yêu cầu ngành tòa án cần rút kinh nghiệm, kịp thời
khắc phục những tồn tại, nhất là việc án hủy sửa còn diễn ra, tránh tình trạng
oan sai, lọt tội phạm để nâng cao chất lượng hoạt động của tòa án[1]. Đặc biệt
là đảm bảo thực hiện các nguyên tắc hiến định theo Hiến pháp năm 2013 nhằm
đảm bảo chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự
của Tòa án nhân dân các cấp.
Áp dụng pháp luật trong xét xử vụ án hình sự đúng pháp luật để tạo lập
niềm tin của người dân vào công lý, bảo vệ, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng
của con người về tài sản, danh dự, nhân phẩm, tính mạng.

4


Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế,
yếu kém trong áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Qua các vụ án oan, sai một đặc
điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng
trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như sự bất cập, lạc hậu, mâu thuẫn trong
nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự.
Để góp phần nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm
tăng cường vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự, tôi mạnh
dạn chọn đề tài “Vai trò của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự,
trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, qua thực tiễn Tòa án nhân
dân thành phố Hải phòng ” để làm luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu đề tài vai trò tòa án, về áp
dụng pháp luật trong dân sự, hôn nhân, gia đình, về xây dựng đội ngũ thẩm
phán về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói riêng. Có thể điểm qua một số
công trình khoa học sau đây.
Luận văn cao học của tác giả Phan Huyền Ly về đề tài Vai trò của tòa án

trong nhà nước pháp quyền", bảo vệ tại Khoa Luật , ĐHQH HN năm 2012;
Luận văn cao học về đề tài " Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại tòa án nhân dân qua thực tiễn của tòa án nhân dân tối cao", của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Minh, đã bảo vệ tại Khoa Luật , ĐHQH HN năm 2014,
Luận văn cao học về đề tài " Xây dựng ý thức pháp luật của thẩm phán
trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay" của tác giả Trần thị Thanh
Bình, bảo vệ năm 2014. Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Thân: “Áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”,
năm 2004. Luận án tiến sĩ của tác giả: Chu Thị Trang Vân “Hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt
5


Nam”, năm 2009. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Đức Hiệp “Áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Toà án nhân dân ở tỉnh Ninh
Bình” năm 2004.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Kim Chung “Vi phạm pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” năm 2005.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Tiến “Tranh tụng tại phiên Tòa một số vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Văn Kiểm: “Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Nam Định”,
năm 2010. Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài “Bàn về áp dụng pháp luật trong
công tác xét xử”, Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 5/2005. Bài viết của tác giả
Chu Thi Trang Vân : “Vai trò sáng tạo của Toà án trong thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự”, Tạp chí Lập pháp số 27 tháng 9/2007. Tác giả Nguyễn Ngọc Chí,
“ Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp”,
Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội năm 2009; tác giả Đinh Văn Quế,
bài viết “Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, những vấn đề lý luận và thực
tiễn”
Đây là những công trình có chất lượng cao, là nguồn tài liệu để tác giả

tham khảo cho việc thực hiện luận văn. Đồng thời tác giả còn nghiên cứu các
báo cáo thực tiễn của tòa án TP Hải phòng, các bài viết, bài phát biểu của các
lãnh đạo Đảng, nhà nước gần đây về cải cách tư pháp, về thi hành Hiến pháp
năm 2013.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
3.1. Mục đích.
Nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở lý luận về vai trò áp dụng pháp luật
về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền, cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp năm 2013. Đề xuất
6


trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng ADPL về xét xử các vụ án hình sự
của TAND.
3.2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án
hình sự:
- Nghiên cứu đặc điểm, các giai đoạn của dụng pháp luật trong xét xử
các vụ án hình sự
- Nghiên cứu vai trò của dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của
tòa án
- Nghiên cứu thực trạng dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của
tòa án nhân dân TP Hải phòng những năm gần đây
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường vai trò, đảm bảo chất
lượng dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò áp dụng về xét xử các vụ án
hình sự của tòa án
4.2. Phạm vi nghiên cứu.

Tác giả giới hạn phạm vi luận văn cho phù hợp với chuyên ngành lý luận
và lịch sử Nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý
luận cơ bản và đánh giá tổng quan về thực trạng, đề xuất quan điểm, giải pháp
áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự mà không đi sâu vào
nghiên cứu cụ thể việc áp dụng pháp luật đối với các loại tội phạm cụ thể.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu

7


Luận văn được tiếp cận trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lenin, các quan điểm
cảu Đảng ta về nhà nước pháp quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
khoa học pháp lý.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Kết cấu luận văn
Bao gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về vai trò áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án
hình sự trong bối cảnh xây dựng nhà nước ở nước ta hiện nay
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự,
qua thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hải phòng
Chương 3. Quan điểm, giải pháp cơ bản đảm bảo vai trò áp dụng pháp
luật về xét xử các vụ án hình sự của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt nam

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
8



XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

1.1.1. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật
Trước khi nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình
sự, và vai trò của hoạt động này, để có cái nhìn toàn diện về cơ sở lý luận, cần
thiết phải tìm hiểu áp dụng pháp luật nói chung trong tất cả các lĩnh vực pháp
luật.
Áp dụng pháp luật là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật theo lý
luận nhà nước và pháp luật. Tuy có những đặc trưng riêng song áp dụng pháp
luật trong xét xử các vụ án hình sự cũng có những đặc điểm chung như các
hình thức áp dụng pháp luật khác.
- Khái niệm và vai trò của thực hiện pháp luật
Pháp luật chỉ có ý nghĩa thực sự khi được thực hiện trong cuộc sống, tức
là tính hiện thực của các quy phạm, các nguyên tắc của pháp luật. Thực hiện
pháp luật hiện nay đang có nhiều hạn chế, bất cập trong đó có áp dụng pháp
luật hình sự. Nếu các quy định pháp luật không được thực hiện cũng như pháp
luật xa rời thực tế cuộc sống thì sẽ giảm hoặc mất ý nghĩa, giá trị của pháp luật.
Các Mác đã từng khẳng định: “pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật
phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội" và, "chừng nào
bộ luật không còn thích hợp với xã hội nữa thì nó sẽ biến thành mớ giấy
lộn"[2].
Trong lý luận nhà nước và pháp luật, khái niệm thực hiện pháp luật đã
được quan tâm nghiên cứu và có sự thống nhất về cơ bản.

9


Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho

những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật[3].
Pháp luật của nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ tính pháp quyền, dân
chủ, đặc biệt là việc xác định và cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công
dân. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội nước ta thông qua, chương 2 “Quyền
con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân” được coi là một bước tiến
mới trong nhận thức về quyền con người mà các bản hiến pháp trước đó chưa
có. Điều quan trọng đặt ra là việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, đặc
biệt là đảm bảo tính hiện thực của các quyền con người, quyền công dân. Pháp
luật của nhà nước ta là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của
nhân dân, các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân do nhà nước ban
hành (hoặc thừa nhận), có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực
hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế; nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh[3].
Trong bối cảnh đó, áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hình sự có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở nước ta
hiện nay. Các quy định của pháp luật được thực hiện trong thực tế thì chúng
mới có ý nghĩa thiết thực. Các chế tài trong các quy phạm pháp luật sẽ được
thực hiện khi có sự xâm phạm đế các quyền, lợi ích của các chủ thể mà pháp
luật đã ghi nhận và đảm bảo thực hiện cho họ. Để thực hiện các quyền, nghĩa
vụ mà pháp luật đã quy định, các chủ thể phải thực hiện đúng các trình tự, thủ
tục được quy định trong các văn bản pháp luật. Tầm quan trọng của thực hiện
pháp luật đã được quan tâm đầy đủ hơn trong những năm gần đây song song
với hoạt động xây dựng pháp luật. Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã xác định rõ xây dựng, hoàn thiện quy định
của pháp luật mà trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân
10



dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách
quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước[4]. Như vậy, trên cơ sở ý kiến của nhân dân trong việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật và xây dựng pháp luật thì pháp luật sẽ
được nâng cao, có hiệu quả khi được thực hiện trên thực tế.
Đối với hoạt động xây dựng pháp luật, pháp luật dù được ban hành thật
nhiều mà không phù hợp với thực tiễn cuộc sống thì sẽ không có tính khả thi
và dẫn hoạt động áp dụng pháp luật cũng không thể thực hiện được. Chính vì
vậy, nhà làm luật chỉ ngồi ở văn phòng, hội trường ban hành ra văn bản pháp
luật thôi thì chưa đủ, họ cần phải có kiến thức thực tế về hiện thực xã hội để có
thể dự liệu trước được những điều kiện, hoàn cảnh thực tế đang diễn ra để đưa
ra những quy phạm pháp luật phù hợp.
Các chủ thể trong xã hội có các quyền và nghĩa phụ pháp lý trên thực tế
khi và chỉ khi pháp luật thực sự được đưa vào cuộc sống. Để việc thực hiện
pháp luật được hiệu quả, các chủ thể trong xã hội từ nhà nước, cá nhân, tổ
chức, cơ quan có thẩm quyền cho đến công dân, tổ chức xã hội khác phải có ý
thức tự giác, có kiến thức và kỹ năng thực hành pháp luật.
- Các hình thức thực hiện pháp luật
Khoa học pháp lý truyền thống đã xác định bốn hình thức thực hiện pháp
luật. Căn cứ chủ yếu của sự phân loại này là dựa vào tiêu chí các loại quy phạm
pháp luật. Đời sống xã hội vô cùng đa dạng nên các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ xã hội cũng hết sức phong phú. Tất nhiên, còn có thể có cách
phân loại khác về hình thức, nhưng cách phân loại theo tiêu chí các loại quy
phạm cũng có tính hợp lý.
Có bốn hình thức thực hiện pháp luật: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong bốn hình thức thực hiện
pháp luật, áp dụng pháp luật là một hình thức cơ bản, mang tính chất đặc thù.
11



Mặc dù vậy, việc phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối vì các hình thức thực
hiện pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
- Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật, là một hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành
những hành vi mà pháp luật ngăn cấm.
Nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật là phải tuân thủ pháp luật,
không được thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Một khi điều này
không được thực hiện, họ chắc chắn sẽ bị các chế tài trong quy phạm pháp luật
trừng phạt hoặc phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Nhờ vào các
chế tài đó mà việc tuân thủ pháp luật sẽ có tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa đề
cho các chủ thể có ý thức tôn trọng và cẩn trọn không để xẩy ra. Tuy vậy, cũng
có trường hợp, cá nhân hay tổ chức tuy hiểu biết rất rõ về các quy định cấm của
pháp luật song vẫn cố tình vi phạm do rất nhiều động cơ mục đích và nguyên
nhân khác nhau.
- Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật, là một hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý
của mình bằng hành động tích cực.
Trong một văn bản pháp luật có chứa đựng các quy phạm pháp luật, các
quy phạm pháp luật đưa ra những quyền, nghĩa vụ pháp lý mà chủ thể pháp luật
buộc phải chịu sự điều chỉnh nhất định. Những quy phạm pháp luật chứa đựng
trong nó các nghĩa vụ pháp lý buộc các chủ thể bắt buộc phải thực hiện một
cách tự giác bằng những hành vi tích cực của mình.
Với tính chất bắt buộc phải thực hình những hành vi một cách tự giác mà
quy phạm pháp luật đã quy định cho họ các nghĩa vụ pháp lý, việc thi hành
pháp luật đòi hỏi mọi chủ thể từ phía nhà nước cho đến mọi cá nhân, công dân
đều thực hiện. Việc thực hiện này mang ý nghĩa tích cực, chủ động từ phía các
chủ thể trong từng điều kiện hoàn cảnh mà nhà làm luật đã dự trù sẵn. Và
12



đương nhiên, nếu các chủ thể không thi hành đúng pháp luật thì sẽ phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý mà các chế tài đã thể hiện trong các quy phạm
pháp luật.
- Sử dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép
Trong nhà nước pháp quyền, sử dụng pháp luật có ý nghĩa xã hội to lớn,
thể hiện tính tích cực pháp lý của cá nhân, tổ chức, đặc biệt là đối với người
dân trong việc sử dụng có văn hóa pháp luật các quyền hiến định và luật định
của mình.
Tuy sử dụng pháp luật không phải là hình thức thực hiện pháp luật mang
tính chất bắt buộc, song nhà nước cần đảm bảo những điều kiện cần thiết để các
cá nhân tích cực sử dụng pháp luật một cách đúng pháp luật. Bởi vì việc sử
dụng pháp luật của cá nhân có ý nghĩa không chỉ đối với họ mà còn đối với
hoạt động của bộ máy nhà nước, khắc phục, khôi phục các quyền con người bị
xâm hại, làm lành mạnh hóa các hoạt động quản lý nhà nước.
Trong các văn bản pháp luật, có các quy phạm pháp luật nói lên một
cách rõ ràng, chính xác các quyền pháp lý chỉ gắn liền với một chủ thể nhất
định, và chỉ những chủ thể này mới được thực hiện các quyền đó hoặc phải
trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nào đó thì chủ thể pháp luật mới được
thực hiện quyền chủ thể của mình. Bằng ý chí của mình, các chủ thể thực hiện
các quyền chủ thể mà không bị cưỡng chế bắt buộc từ phía nhà nước hay từ
phía một chủ thể nào khác trong xã hội. Điều đó có nghĩa, pháp luật đã quy
định cho chủ thể có các quyền nhất định, nhưng các chủ thể này có thể thực
hiện hoặc không thực hiện quyền này, đây chính là đặc điểm của hình thức sử
dụng pháp luật so với các hình thức thực hiện pháp luật khác.
- Áp dụng pháp luật
13


Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà

nước, được thực hiện thông qua những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá
biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá
nhân, tổ chức cụ thể.
Ở Việt Nam hiện nay, quan niệm về “áp dụng pháp luật” dưới góc độ
học thuật còn có những cách tiếp cận khác nhau nhất định. Tuy vậy, một quan
niệm được thừa nhận chung về áp dụng pháp luật với tư cách là một hình thức
thực hiện pháp luật chỉ do các cơ quan nhà nước ( hoặc các cá nhân công
quyền, tổ chức được nhà nước trao quyền ) có thẩm quyền thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan Nhà
nước. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức Nhà nước
tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Áp dụng pháp luật cũng được coi
là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, đặc biệt ở chỗ chủ thể của áp
dụng pháp luật chỉ có thể là các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức được
nhà nước trao quyền nhằm thực thi quyền lực nhà nước. Điểm đặc biệt này
khác với ba hình thức thực hiện pháp luật ở trên, trong khi ba hình thức thực
hiện pháp luật đó có chủ thể bao gồm nhà nước, cá nhân, công dân, tổ chức
khác, tức là tất cả các chủ thể pháp luật trong xã hội. Ví dụ hoạt động của công
chức Tư pháp – Hộ tịch thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh,
đăng ký khai tử, là hoạt động áp dụng pháp luật của cá nhân có thẩm quyền,
được nhà nước trao quyền nhằm áp dụng pháp luật, đưa các quy định của pháp
luật về hộ tịch vào trong cuộc sống. Đối với với lĩnh vực tư pháp, Viện kiểm
sát nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án, quyết định truy tố trước pháp luật
hoặc Tòa án nhân dân ra một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì đó
chính là hoạt động áp dụng pháp luật của Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân
14


nhằm áp dụng pháp luật, đưa các quy định của Luật hình sự, Luật tố tụng hình

sự và các luật chuyên ngành khác đi vào cuộc sống.
Trong hoạt động thực hiện pháp luật, sự phân biệt giữa hoạt động áp
dụng pháp luật và thi hành pháp luật cũng chỉ là mang nghĩa tương đối. Bởi
lẽ trên thực tế, hai hoạt động này có sự giao thoa với nhau trong quá trình
thực hiện pháp luật bởi các chủ thể của việc thi hành pháp luật và áp dụng
pháp luật đều có trách nhiệm pháp lý và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật đã
quy định. Chính vì vậy, việc áp dụng pháp luật cũng có thể được coi như là
một hoạt động thi hành pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật.
Không chỉ có sự tương đối giữa áp dụng pháp luật với thi hành pháp
luật mà áp dụng pháp luật khi phân biệt với các hình thức thực hiện pháp
luật cũng mang nghĩa tương đối. Điều này có nghĩa là các hình thức thực
hiện pháp luật ở một góc độ nào đó thì chúng có mối liên hệ mật thiết với
nhau để từ đó các chủ thể có cách thức thực hiện phù hợp với quy định của
pháp luật.
Pháp luật được đi vào cuộc sống được thông qua việc áp dụng pháp
luật từ phía nhà nước, và nhờ vào nó mà nhà nước bằng chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của mình mà điều chỉnh, quản lý các lĩnh vực trong đời sống
xã hội sao cho chúng diễn ra một cách có trật tự và giúp cho nhà nước hoạt
động được hiệu quả hơn. Do vậy, sự xuất hiện của nhà nước trong hoạt động
áp dụng pháp luật sẽ càng làm cho các quy định của pháp luật được đảm bảo
thực hiện trên thực tế hơn là chỉ tồn tại hoạt động tuân theo pháp luật, chấp
hành pháp luật và sử dụng pháp luật.
Hoạt động áp dụng pháp luật đƣợc thực hiện bởi các cơ quan có
thẩm quyền, nhà chức trách trong các trƣờng hợp sau đây:
Thứ nhất, các biện pháp cưỡng chế hay các chế tài được nhà nước áp
dụng đối với các chủ thể có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Ví dụ công dân A đã
15


thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS, nhưng không phải

ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và công dân A tự giác chấp
hành các chế tài tương xứng. Vì vậy cần phải có hoạt động áp dụng pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng để ra bản án đối với A và buộc A phải chấp
hành hình phạt đó. Liên hệ như trường hợp phạm tội của Lê Văn Luyện ở
Bắc Giang, Luyện thực hiện hành vi trộm cắp rồi giết người nhưng những
hành vi này không mặc nhiên bị xử lý mà phải có hoạt động áp dụng pháp
luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: sự tham gia của cơ quan điều
tra ra quyết định khởi tố, viện kiểm sát ra quyết định truy tố và tòa án xét xử
và tuyên bố bản án. Từ chức năng, nhiệm vụ vai trò của mình, tòa án nhân dân,
viện kiểm sát nhân dân hay cơ quan điều tra sẽ áp dụng các quy định của bộ
luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự để giải quyết một cách chính xác các vụ án
hình sự xảy ra trong xã hội.
Thứ hai, áp dụng pháp luật cần thiết khi các những quyền và nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi, chấm dứt nếu thiếu sự
can thiệp của Nhà nước. Ví dụ, pháp luật có quy định công dân có quyền tự do
kinh doanh, nhưng quyền này chỉ phát sinh khi công dân làm thủ tục đăng ký
kinh doanh và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Quyền đó có thể bị chấm dứt nếu công dân đó vi phạm
pháp luật.
Sự tham gia từ phía nhà nước (những cá nhân, tổ chức được nhà nước
trao quyền) là điều kiện quyết định để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định của các chủ thể pháp luật. Ví dụ: theo quy
định tại Điều 36 Hiến pháp 2013 thì nam nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Mặc dù
vậy quyền kết hôn, ly hôn đó của nam nữ sẽ không được thực hiện nếu như
không có sự tham gia từ phía nhà nước, cụ thể là Ủy ban nhân xã có thẩm
quyền trong việc thực hiện đăng ký kết hôn hay tòa án nhân dân ra quyết định
ly hôn. Do vậy, quyền và nghĩa vụ pháp lý của hai bên nam nữ sẽ phát sinh
16



hoặc chấm dứt sau khi có sự can thiệp từ phía Ủy ban nhân dân xã cấp giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn hay tòa án ra quyết định ly hôn.
Thứ ba, cơ quan nhà nước áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Nhà nước đóng vai trò làm bên
thứ ba trong trường hợp này là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp để pháp
luật được thực hiện một cách nghiêm minh trên thực tế.
Thứ tư, áp dụng pháp luật cần thiết trong hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Đồng thời, nhà
nước cũng đứng ra để xác thực một sự kiện pháp lý xảy ra trên thực tế mà
pháp luật đã quy định. Trong trường hợp này điển hình nhất là việc các bên
tham gia các giao dịch dân sự được công chứng tại các phòng công chứng nhà
nước, các công chứng viên của phòng công chứng nhà nước đứng ra chứng
nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng giao dịch đó.
- Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Là một hình thức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật có những đặc
điểm riêng bên cạnh những đặc điểm chung như các hình thức pháp luật khác,
- Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước của áp dụng pháp luật.
Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan Nhà nước hay nhà
chức trách có thẩm quyền tiến hành. Cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
được thay mặt nhà nước thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật theo đúng
nhiệm vụ và chức năng của họ mà pháp luật đã quy định.
Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
các chủ thể có liên quan. Hoạt động áp dụng pháp luật có mang tính quyền lực
nhà nước nên nó được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các hình thức cưỡng
chế, giáo dục và thuyết phục. Các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền, được nhà
nước trao quyền thực thi quyền lực nhà nước sẽ căn cứ quy định pháp luật để
17


đưa ra quyết định áp dụng pháp luật có giá trị pháp luật thi hành đối với các cá

nhân, tổ chức có liên quan.
- Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định.
Hoạt động áp dụng pháp luật phải thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật
theo đúng những quy trình, thủ tục mà pháp luật đã quy định. Ví dụ, việc giải
quyết một vụ án hình sự phải tiến hành theo những quy định cụ thể của Bộ luật
Tố tụng Hình sự; hoặc việc xử phạt hành chính được điều chỉnh bởi những quy
phạm, thủ tục xử phạt hành chính. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các
bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định về thủ tục luật định để đảm bảo quyền, lợi ích của cá nhân, tổ
chức, đảm bảo nguyên tắc pháp chế.
Trong từng trường hợp cụ thể, chủ thể áp dụng pháp luật phải thực hiện
hoạt động áp dụng pháp luật theo đúng những quy trình, thủ tục mà pháp luật
đã quy định. Tương ứng với từng lĩnh vực mà hoạt động áp dụng pháp luật có
thể gây bất lợi hoặc có lợi cho các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật. Từ đó,
việc áp dụng pháp luật phải thật chính xác đầy đủ để tránh tình trạng áp dụng
không đúng quy định của pháp luật khiến cho các đối tượng đáng ra được
hượng lợi thì lại phải gánh chịu hậu quả nặng nề, hoặc đối tượng đáng ra bị xử
lý nghiêm minh thì lại ung dung ngoài vòng pháp luật.
-Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với
các quan hệ xã hội nhất định.
Bằng hoạt động áp dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định
được cá biệt hóa vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống. Một tình
huống xảy ra trong thực tế được chủ thể áp dụng pháp luật áp dụng một cách
chính xác các điều luật mà ở đó đã dự liệu được sẵn tình huống này xảy ra trên
thực tế. Sau khi xem xét, đối chiếu tình huống thực tế và quy định của pháp
18


luật, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền sẽ đưa ra những mệnh lệnh

cá biệt để đưa những quy phạm pháp luật đã được luật định đó áp dụng vào
đúng trường hợp đang diễn ra trong đời sống. Ví dụ: công dân A là công dân
Việt Nam đã câu kết với phần tử phản động có hành vi chống phá chế độ, phản
bội Tổ quốc, trong trường hợp này, trên cơ sở pháp luật hiện hành, công dân A
sẽ bị xử lý theo Điều 78 BLHS về tội phản bội Tổ quốc.
-Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.
Thực tiễn cuộc sống diễn ra vô cùng đa dạng, phong phú, mà quy định
pháp luật thì phải cô động, như là một công thức chung để áp dụng vào “ 101”
tình huống khác nhau trong thực tiễn. Do vậy, đòi hởi tính sáng tạo của áp dụng
pháp luật, nhưng là sự sáng tạo trên các nguyên tắc của pháp luật.
Yêu cầu đối với áp dụng pháp luật là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó
để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành.
Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận
dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Điều đó đồi hởi
các chủ thể của hoạt động áp dụng phải có kiến thức, kỹ năng và bản lĩnh nghề
nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp thì mới có thể phân tích, đánh giá tình huống
để đưa ra một cách giải quyết đúng pháp luật. Có như vậy, quyết định áp dụng
pháp luật mới được tâm phục, khẩu phục, có tính khả thi. Kết quả áp dụng
pháp luật chủ yếu được thể hiện bằng các văn bản áp dụng pháp luật, hay còn
gọi là văn bản pháp luật cá biệt do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc các tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền ban hành trên cơ
sở pháp luật về nội dung và thủ tục để xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ
thể của cá nhân, tổ chức hoặc xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi
phạm pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật có giá trị pháp lý bắt buộc thực
hiện.
19


1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự

của tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân
Áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của TAND là một trong
những dạng áp dụng pháp luật nói chung do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện. Về thuật ngữ, trong thực tế cũng có cách sử dụng khác như áp
dụng pháp luật hình sự về xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. Tuy
vậy, khi dùng khái niệm áp dụng pháp luật ở đây có thể còn bao hàm ý nghĩa
rộng hơn, vì theo nguyên tắc pháp quyền, tòa án ngoài việc căn cứ vào pháp
luật hình sự còn phải căn cứ vào Hiến pháp để giải quyết vụ án hình sự.
Trong luận văn này, như đã nêu ở phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn,
tác giả xin được giới hạn vào áp dụng pháp luật hình sự về xét xử các vụ án
hình sự của tòa án nhân dân.
Xét về bản chất, ADPL hình sự của Tòa án là một hình thức áp dụng
pháp luật do Tòa án tiến hành, áp dụng quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
và quy phạm pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án hình sự thuộc thẩm
quyền và thực hiện một số nhiệm vụ trong giai đoạn thi hành án hình sự.
Để nhận thức đầy đủ về áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án
hình sự của tòa án, cần thiết xác định vị trí của hoạt động này trong toàn bộ
hoạt động tố tụng hình sự theo quy định pháp luật hiện hành.
Hoạt động giải quyết án hình sự của TAND là một giai đoạn trong toàn bộ
quá trình giải quyết án hình sự.
Theo quy định hiến hành, tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính
xác và đúng pháp luật.
20


Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, hoạt động giải

quyết án hình sự là toàn bộ quá trình hoạt động từ khởi tố, điều tra, hoạt động
truy tố đến hoạt động xét xử (sơ thẩm; phúc thẩm) và thi hành án hình sự. Giám
đốc thẩm, tái thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong giải quyết vụ
án hình sự mà là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những bản án hình sự đã có
hiệu lực pháp luật.
Hoạt động giải quyết vụ án hình sự được tiến hành theo quy định của
BLTTHS kể từ khi khởi tố vụ án làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và những người tham gia tố tụng,
cho đến khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm chấm dứt
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự đó.
Giai đoạn đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án hình sự là giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự, tiếp đến là các hoạt động điều tra, thông qua kết quả của
hoạt động điều tra, Viện kiểm sát tiến hành hoạt động truy tố, sau khi Viện kiểm
sát truy tố, Toà án tiến hành hoạt động xét xử. Toàn bộ các giai đoạn cơ bản này
phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, phạm vi thẩm quyền của các cơ
quan nhà nước theo quy định của BLTTHS. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án một cách khách quan, tuân thủ theo thỉu tục tố tụng chuẩn,
tránh sai sót và làm oan cho người vô tội, bỏ lọt người phạm tội. Toàn bộ quá trình
giải quyết vụ án được gọi là quá trình tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS, xét xử vụ án hình sự của Toà án
là một giai đoạn chuyển tiếp sau giai đoạn điều tra, truy tố. Xét xử là chức năng
đặc trưng của tòa án đã được xác định trong Hiến pháp. Bản chất của hoạt động

21


xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân thực hiện là nhằm định tội danh và

hình phạt đối với các chủ thể phạm tội.
Sau khi tiếp nhân hồ sơ từ Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành các thủ tục tố
tụng cần thiết như: áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ
án ra xét xử…Nhiệm vụ quan trọng nhất của tòa án với tư cách là cơ quan có
chức năng xét xử vụ án hình sự là xác định tội danh và quyết định hình phạt
được giải quyết thông qua phiên tòa xét xử hình sự.
Xét từ phương diện pháp luật thủ tục và pháp luật nội dung, Áp dụng Bộ
luật hình sự (BLHS) là ADPL về nội dung ( áp dụng pháp luật vật chất ), còn
áp dụng BLTTHS là ADPL về hình thức, thủ tục.
Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm cả áp dụng quy phạm pháp luật nội
dung và quy phạm pháp luật hình thức, thủ tục. Tầm quan trọng đều như nhau
để đảm bảo công lý, quyền, lợi ích của con người cũng như sự trong sạch, tính
khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đặc biệt là trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền, yêu cầu tuân thủ quy trình, thủ tục tố tụng trong cả
quá trình giải quyết vụ án hình sự lại được đặt ra một cách nghiêm ngặt so với
các thời kỳ trước đây. Sự tuân thủ các quy định pháp luật thủ tục và nội dung
nhằm đảm bảo quyết định chính xác trách nhiệm hình sự, bảo đảm nguyên
tắc khách quan, công bằng, tránh sự oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm, bằng
cách đó để tạo lập niềm tin của xã hội vào công lý.
1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án hình sự của Tòa
án nhân dân.
Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự của TAND là một
trong những hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho nên cũng có những đặc điểm chung như của các loại hình áp dụng
pháp luật nói chung. Đồng thời, áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình
sự của TAND lại có những đặc điểm riêng xuất phát từ đối tượng xét xử, từ
22


chức năng, nhiệm vụ của Tóa án nhân dân trong bộ máy nhà nước. Trong điều

kiện nhà nước pháp quyền, tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013, cần có sự bỏ
sung, tiếp cận mới đầy đủ hơn về Tòa án nhân dân nói chung, về áp dụng pháp
luật trong xét xử vụ án hình sự nói riêng.
Yêu cầu của ADPL trong xét xử các vụ án hình sự của TAND là đảm
bảo tính khách quan của một vụ án cụ thể, đảm bảo việc lựa chọn đúng các quy
phạm pháp luật hình sự và đưa ra một bản án đúng đắn đối với người phạm tội,
không làm oan cho người vô tội. Hoạt động ADPL trong xét xử vụ án hình sự
của tòa án vừa phải tuân thủ đúng quy định pháp luật về thủ tục, vừa phải áp
dụng đúng các quy định pháp luật về nội dung và kết quả được thể hiện ở việc
định tội danh và quyết định hình phạt.
Hoạt động ADPL trong xét xử vụ án hình sự của tòa án có những đặc
điểm cơ bản sau:
Đặc điểm thứ nhất, áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự
là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, nhân danh công lý do Tòa án
thực hiện
Tòa án là cơ quan duy nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có thẩm quyền xét xử. Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp”. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Hoạt động ADPL HS của Tòa án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
toàn bộ qúa trình giải quyết vụ án hình sự. Thông qua phiên tòa xét xử công
khai, mọi kết quả điều tra, truy tố, các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ, được thẩm vấn, đối chất, tranh luận, làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án tại phiên tòa. Việc xét xử phải tuân thủ đúng thủ tục luật định và
23


các quy phạm pháp luật về nội dung, không nên coi nhẹ quy trình thủ tục, điều

mà có thể nói thời kỳ trước đây còn có sự xem nhẹ.
Trên cơ sở đánh giá toàn diện vụ án, hội đồng xét xử đưa ra quyết định
về tội danh và hình phạt đối với chủ thể phạm tội. Chỉ có hội đồng xét xử nhân
danh nhà nước mới có quyền quyết định một người có tội hay không, tội danh
được quy định tại điều khoản nào của Bộ luật hình sự và buộc người phạm tội
phải chịu hình phạt tương xứng, đồng thời minh oan cho người không phạm tội
bị truy tố.
Hoạt động áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử là trọng tâm của hoạt
động tố tụng hình sự. Các giai đoạn tố tụng trước khi xét xử cũng như tại phiên
tòa đều nhằm giúp cho hội đồng xét xử đưa ra một phán quyết chính xác, đúng
pháp luật. Hoạt động ADPL trong xét xử các vụ án hình sự phải phù hợp với
Hiến pháp năm 2013, các văn bản của Đảng và nhà nước về cải cách tư pháp.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của tòa án phải
đảm bảo các nguyên tắc về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, của tòa án
nhân dân và phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù theo quy định của Bộ luật
hình sự, bộ luật tố tụng hình sự.
Theo Hiến pháp năm 2013, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền, khi tiến hành xét xử, tòa án nhân dân các cấp cần quán triệt sâu sắc ba
nguyên tắc quan trọng đã được Hiến định, là: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và quyền
bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo đảm.
Đồng thời những nguyên tắc cơ bản khác trong áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử án hình sự của tòa án cũng phải được tuân thủ nghiêm ngặt
nhằm đảm bảo cho tính khách quan, công bằng của các bản án, bảo vệ công lý,
quyền, lợi ích của con người, trật tự an toàn xã hội và phát triển đất nước như
24


nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo,

nguyên tắc hai cấp xét xử, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc không
ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Trong quá trình xét xử, yêu cầu cao nhất là bảo đảm ra bản án, quyết
định đúng pháp luật, mang lại công lý cho mọi người, không được để xảy ra án
oan và bỏ lọt tội phạm[5]. Chủ thể trực tiếp áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử bao giờ cũng là hội đồng xét xử án hình sự. Hội đồng xét xử sơ thẩm
gồm thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Điều 185 BLTTHS năm 2003 quy định
“Thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm
nhân dân. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì
thành phần hội đồng xét xử gồm 2 thẩm phán và 3 hội thẩm nhân dân”. Các
quyết định của hội đồng xét xử hình sự sơ thẩm, chủ yếu là bản án hình sự sơ
thẩm và sau khi tuyên án (ban hành) một thời gian nhất định, hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị mới có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại điều 15, 16, 17 BLTTHS năm 2003 thì khi xét xử thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, hội thẩm nhân
dân ngang quyền với thẩm phán, hội đồng xét xử cả sơ thẩm và phúc thẩm đều
thảo luận và quyết định theo đa số. Vì vậy quyết định của hội đồng xét xử là
quyết định mang tính tập thể của đa số thành viên hội đồng xét xử.
Điều 224 BLTTHS năm 2003 quy định thành phần của hội đồng xét xử
phúc thẩm gồm 3 thẩm phán trong trường hợp cần thiết có thêm 2 hội thẩm
nhân dân. Quyết định của hội đồng xét xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật
ngay sau khi tuyên án.
Tuy rằng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án là sự tiếp
tục sau giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và phải căn cứ vào kết qủa điều tra,
truy tố của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, nhưng đồng thời hoạt động xét xử
25



×