ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THIÊN VÂN
TƯ TƯỞNG VỀ HẠN CHẾ SỰ LẠM DỤNG
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THIÊN VÂN
TƯ TƯỞNG VỀ HẠN CHẾ SỰ LẠM DỤNG
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:TS. Nguyễn Minh Tuấn
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các thông tin, dữ liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Ngô Thiên Vân
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời mở đầu
Mục lục
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chƣơng 1 - LÝ DO RA ĐỜI VÀ LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN TƢ
TƢỞNG VỀ HẠN CHẾ SỰ LẠM DỤNG QUYỀN LỰC
NHÀ NƢỚC.........................................................................................8
1.1
Lý do ra đời tƣ tƣởng về hạn chế sự lạm dụng quyền lựcnhà
nƣớc......................................................................................................8
1.1.1 Quyền lực nhà nước..............................................................................8
1.1.2 Hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu
khách quan............................................................................................11
1.1.3 Vai trò của hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước.........................14
1.1.3.1 Hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước là cơ sở ra đời Hiến
pháp.....................................................................................................14
1.1.3.2 Hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước là điều kiện để ngăn
ngừa, giảm thiểu sự vi phạm quyền con người..................................20
1.2
Lƣợc sử phát triển tƣ tƣởng về hạn chế sự lạm dụng quyền lực
nhànƣớc...............................................................................................24
1.2.1 Các tư tưởng thời kỳ cổ đại...................................................................24
1.2.2 Các tư tưởng thời kỳ cận đại.................................................................31
1.2.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề tổ chức quyềnlực nhànước......38
Kết luận chương 1...........................................................................................42
Chƣơng 2 - NHỮNG PHƢƠNG THỨC CƠ BẢN ĐỂ HẠN CHẾ
SỰ LẠM DỤNG QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM..........................................44
2.1
Những phƣơng thức cơ bản để hạn chế sự lạm dụng quyền
lựcnhà nƣớc........................................................................................44
2.1.1 Hiến pháp..............................................................................................45
2.1.2 Chủ nghĩa hợp hiến...............................................................................54
2.1.3 Nhà nước pháp quyền...........................................................................60
2.1.4 Bảo hiến................................................................................................69
2.1.5 Học thuyết phân quyền.........................................................................77
2.1.6 Tư pháp độc lập....................................................................................82
2.1.7 Sự ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.................88
2.1.8 Sự giám sát của nhân dân......................................................................93
2.1.9 Những phương thức khác hạn chế sự lạm dụng quyền lực
từ bên ngoài nhà nước...........................................................................97
2.2
Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam...........................................103
Kết luận chương 2.........................................................................................112
KẾT LUẬN..................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................115
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của xã hội loài
người, từ khi ra đời đến nay con người đã mất rất nhiều công sức tìm hiểu bản
chất, quy luật vận động của nó trong tiến trình lịch sử nhân loại để nhằm mục
đích tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sao cho hiệu quả nhất nhằm hạn
chế những mặt tiêu cực của nó. Vì, nhà nước tuy là một thiết chế xã hội đặc
biệt để duy trì trật tự, ổn định giữa những con người cùng sống trong một khu
vực địa lý nhất định, nhưng nhà nước cũng chính là nguyên nhân của sự đàn
áp, bóc lột của nhóm người này đối với nhóm người khác trong khu vực địa lý
nhất định ấy. Chính vì thế, từ thời cổ đại đến nay đã xuất hiện rất nhiều tư
tưởng, học thuyết khác nhau về việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước,
mà nội dụng trọng tâm là để tìm ra phương thức hạn chế, kiểm soát quyền lực
nhà nước sao cho hiệu quả nhất. Lịch sử xã hội loài người đã cho thấy nhận
thức của con người phát triển cùng với quá trình tích lũy những kiến thức của
thời đại, nêntheo thời gian con người đã tìm ra những biện pháp phù hợp để
bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trước xu hướng tha hóa của chính
quyền nhà nước bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý, kiểm tra,
giám sát quá trình sử dụng quyền lực nhà nước. Điều này đã giới hạn quyền
lực nhà nước tránh sự chuyên quyền, lạm quyền của những chủ thể thực hiện
quyền lực công để mưu cầu lợi ích riêng.
Lịch sử và hiện tại đã ghi nhận rất nhiều cách thức, biện pháp để hạn
chế, kiểm soát quyền lực nhà nước, tùy vào bản chất của từng kiểu nhà nước
khác nhau. Có những cách thức chỉ đem lại hiệu quả trong một thời kỳ lịch sử
nhất định, nhưng có những cách thức vẫn còn phù hợp đến hiện tại. Vấn đề
quan trọng của bất kỳ một nhà nước hiện đại nào là tìm ra được những
phương thức hiệu quả, phù hợp để vận dụng cho mình.
1
Đối với Việt Nam cũng thế, nhất là khi chúng ta đang trên con đường
thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền, thì vấn đề này lại càng
cấp bách hơn nữa. Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, quyền lực nhà nước tập trung
thống nhất không phân chia, mà chỉ phân công, phối hợp hoạt động giữa các
cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
khẳng định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp" [44, tr.85]; với mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của nhà nước và đẩy lùi nạn quan liêu tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Nhưng mục đích này chỉ thành côngkhi sự lạm dụng quyền lực nhà nước
được hạn chế bằng những phương thức hiệu quả, thực tế; đồng thời khi đó
quyền con người, sự công bằng, dân chủ mới được đảm bảo - đây là những
nội dung quan trọng phải đạt được nếu muốn xây dựng thành công mô hình
nhà nước pháp quyền.
Đứng trước yêu cầu cấp bách đó, tôi đã chọn đề tài: “ Tư tưởng về hạn
chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước” để nghiên cứu. Qua đó, tôi mong rằng
những nội dung được đề cập đến trong luận văn sẽ trở thành tài liệu tham
khảo hữu ích cho những ai quan tâm, tìm hiểu đến lĩnh vực hạn chế quyền lực
nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước là một lĩnh vực phức tạp, có
những thời kỳ vấn đề này còn mang tính nhạy cảm cao. Ở Việt Nam trong
hơn 10 năm gần đây, nội dung về hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước mới
được các nhà nghiên cứu về chính trị học, luật học đề cập đến một cách phổ
biến và rộng rãi. Tiêu biểu là một số công trình nghiên cứu như:
2
- Sự hạn chế quyền lực nhà nước (2005) Nxb. Đại học quốc gia, Hà
Nội, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung. Tác giả đã nêu ra sự cần thiết của nhà nước
đối với xã hội, nhà nước luôn có xu hướng tha hóa quyền lực, vì vậy, cần thiết
phải giới hạn quyền lực nhà nước; và đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế
quyền lực nhà nước thông qua cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong
nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài nhà nước.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay – vấn đề và giải
pháp (2007), Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Hà Nội, Th.s Trịnh Thị Xuyến.
Luận án đi sâu phân tích về vấn đề quyền lực nhà nước và tính tất yếu phải
kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nước
trên thế giới (2008), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tô Huy Rứa (chủ biên).
Tác phẩm trình bày lí luận chung về giám sát quyền lực trong bộ máy nhà
nước trong mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở một số
nước trên thế giới. Các tác giả trong công trình đã lý giải tại sao phải hạn chế
quyền lực nhà nước, vì bản thân mỗi con người luôn tồn tại bản tính hai mặt
trong đời sống xã hội là tích cực và tiêu cực, thiện và ác nên cần phải có
những biện pháp kiểm soát tương ứng.
- Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà
nước ở một số nước (2005), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, TS. Nguyễn Thị Hồi. Tác
giả làm rõ việc cần thiết phân chia quyền lực nhà nước, góp phần kiểm soát
quyền lực nhà nước, hạn chế việc lạm dụng quyền lực, chuyên quyền, độc
đoán.
- Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, GS.TS. Trần Ngọc Đường. Tác phẩm trình bày
khá đầy đủ và hệ thống cơ sở lí luận, thực tiễn về quyền lực nhà nước, kiểm
3
soát quyền lực nhà nước trong các nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản); làm
rõ điểm tiến bộ của Việt Nam trong việc phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực khi xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ( 2011), Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng. Tác giả đã phân tích và lý giải cách thức tổ
chức và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các kiểu và mô hình nhà nước
khác nhau như nhà nước phong kiến Việt Nam, nhà nước tư sản; tổ chức và
kiểm soát quyền lực nhà nước của Nga, Trung Âu, Đông Âu trước năm 1991,
nhà nước liên bang Nga và nhà nước Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra còn có một số tác phẩm như Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp
hiến, Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài – Sách tham khảo, Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Sách chuyên khảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, vv… Những công
trình nghiên cứu kể trên đã đóng góp đáng kể cho việc nghiên cứu lĩnh vực
hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước. Từ việc tham khảo những tác phẩm
này đã giúp học viên có thêm những kinh nghiệm quý để triển khai những vấn
đề, nội dung chưa được đề cập, tiếp cận sâu.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ của mình, tôi sẽ đi sâu nghiên cứu về
việc ra đời tư tưởng hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước cũng như những
phương pháp hạn chế và bài học kinh nghiệm quý giá đối với Việt Nam. Đây
là những nội dung mà các công trình kể trên chưa hệ thống bao quát, toàn
diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Làm rõ quá trình hình thành tư tưởng hạn chế sự lạm dụng
quyền lực nhà nước. So sánh, đánh giá những phương thức để hạn chế sự lạm
dụng quyền lực nhà nước qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
4
- Nhiệm vụ: Từ mục đích ở trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
+ Phân tích những tư tưởng về hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà
nước trong các thời kỳ lịch sử nhân loại. Cũng như quan điểm của các nhà tư
tưởng mác - xít và quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đế này để rút ra những
điểm kế thừa trong Hiến pháp 2013.
+ Phân tích những phương thức hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà
nước cả từ bên trong lẫn bên ngoài nhà nước, từ đó đề xuất những phương
thức phù hợp với Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là tư tưởng về hạn chế sự lạm dụng quyền lực
nhà nước và những phương thức hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu: là quá trình hình thành, phát triển các tư tưởng
về hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong lịch sử và hiện tại, cũng
như sự vận dụng tư tưởng này trên thực tế, thể hiện thông qua các phương
thức hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước từ bên ngoài và từ bên trong
nhà nước ( tự hạn chế) ở trên thế giới và ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
* Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Qua việc phân tích các tài liệu, lý luận về tư tưởng hạn chế sự lạm dụng
quyền lực nhà nước thành các giai đoạn và cách thức khác nhau, để tìm hiểu
sâu sắc hơn tư tưởng này. Từ đó tổng hợp các giai đoạn, cách thức đã phân
tích để hệ thống đầy đủ và khoa học về lý do ra đời và lược sử phát triển của
tư tưởng hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước.
* Phương pháp lịch sử
Qua việc nghiên cứu lý do ra đời và lược sử phát triển của tư tưởng hạn
chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước, từ đó hiểu rõ hơn bản chất và xu hướng
5
phát triển của tư tưởng này trong xã hội hiện đại. Thông qua đó, rút ra được
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
* Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
Thông qua việc sắp xếp những cách thức hạn chế sự lạm dụng quyền
lực nhà nước theo bản chất của hiện tượng này, để hệ thống các phương thức
hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước thành các phương thức bên trong và
phương thức bên ngoài.
6. Tính mới của đề tài
- Luận văn đã hệ thống tương đối đầy đủ, toàn diện quá trình hình
thành, phát triển cũng như nguyên nhân ra đời của tư tưởng hạn chế sự lạm
dụng quyền lực nhà nước.
- Luận văn đã bước đầu so sánh, đánh giá được các phương thức hạn
chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước và qua đó đề xuất phương thức phù hợp
cho Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở những phân tích về sự hình thành, tồn tại và phát triển của
nhu cầu hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước cũng như các phương thức
hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong lịch sử và hiện tại, luận văn sẽ
nêu được nhu cầu tất yếu, khách quan của việc hạn chế sự lạm dụng quyền
lực nhà nước, cũng như những phương thức cơ bản để hạn chế sự lạm dụng
quyền lực nhà nước. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Đồng thời, cũng từ kết quả nghiên cứu đề tài này, luận văn sẽ trở thành
một tài liệu tham khảo có giá trị, mang tính hệ thống về lý thuyết hạn chế sự
lạm dụng quyền lực nhà nước và các phương thức của nó. Qua đó, giúp cho
việc tìm hiểu về lý thuyết hạn chế quyền lực nhà nước được dễ dàng hơn.
8. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương:
- Chương 1: Lý do ra đời và lược sử phát triển tư tưởng về hạn chế sự
lạm dụng quyền lực nhà nước.
- Chương 2: Những phương thức cơ bản để hạn chế sự lạm dụng quyền
lực nhà nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
7
Chƣơng 1
LÝ DO RA ĐỜI VÀ LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG
VỀ HẠN CHẾ SỰ LẠM DỤNG QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
1.1. Lý do ra đời tƣ tƣởng về hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà
nƣớc
1.1.1. Quyền lực nhà nước
Quyền lực là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu và bởi nhiều nhà tư
tưởng của nhiều thời đại, song cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa về
quyền lực được đông đảo mọi người, từ các học giả đến các nhà hoạt động
thực tiễn thừa nhận. Do đó, có nhiều quan niệm khác nhau về quyền lực, song
với nghĩa chung nhất có thể hiểu quyền lực là sức mạnh mà nhờ đó một chủ
thể có thể bắt các chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình. Quyền lực
công cộng mang tính tất yếu, khách quan trong đời sống xã hội, nó là tiền đề
đầu tiên để hình thành xã hội và nhờ nó mà các thành viên trong cộng đồng xã
hội gắn kết với nhau. Theo nghĩa này, quyền lực ra đời và tồn tại cùng với sự
tồn tại của con người, bởi vì, hoạt động phối hợp, hoạt động mang tính cộng
đồng là cái vốn có trong hoạt động của con người. Bất kỳ hoạt động chung
nào cũng đòi hỏi cần có người tổ chức, người chỉ huy và những kẻ phục tùngcái vốn tạo thành nội dung sơ khai cũng như nội dung hiện tại của phạm trù
quyền lực. Trong xã hội có giai cấp thì chủ thể có đủ khả năng chỉ huy và
phối hợp hoạt động của tất cả các chủ thể khác chính là nhà nước nên quyền
lực nhà nước là thứ quyền lực quan trọng nhất. Quyền lực nhà nước là việc tối
đa hóa quyền lực công để hiện thực hóa lợi ích chính trị của giai cấp cầm
quyền, trên cơ sở vẫn đảm bảo ở mức độ nhất định lợi ích chung của cộng
đồng.
Từ quan niệm chung thống nhất về quyền lực, có thể hiểu quyền lực
nhà nước là sức mạnh của nhà nước có thể bắt các chủ thể khác trong quốc
8
gia phải phục tùng ý chí của nó. Nhờ có quyền lực này mà nhà nước có đủ
khả năng làm dịu xung đột giai cấp hoặc giữ cho xung đột ấy ở trong vòng
một trật tự nhất định để xã hội có thể tồn tại và phát triển được. Cũng nhờ có
quyền lực đó mà nhà nước có thể thực hiện và bảo vệ được quyền lợi và địa vị
thống trị của giai cấp thống trị, có thể tổ chức và quản lý xã hội, thiết lập,
củng cố, bảo vệ trật tự và sự ổn định của xã hội, làm cho xã hội phát triển theo
chiều hướng mà nó mong muốn. Hầu hết hiến pháp các quốc gia đều tuyên
bố, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho nhà
nước nên được thực hiện nhân danh nhân dân và đại diện cho lợi ích của toàn
xã hội. Song thực tế, xét về bản chất thì quyền lực nhà nước chủ yếu là quyền
lực của giai cấp thống trị và một phần quyền lực xã hội. Sự vân động của
quyền lực nhà nước luôn chịu sự quy định của mối quan hệ giữa tính giai cấp
và tính xã hội của quyền lực. Ở một mức độ nhất định quyền lực nhà nước
cũng chịu ảnh hưởng từ phía các lực lượng xã hội , tổ chức xã hội. Do vậy,
khi hoạt động trước hết vì lợi ích của một giai cấp hay một liên minh giai cấp
nhất định, nhà nước phải tính tới lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác và khi
có tính độc lập nhất định, nó có thể thực hiện một số chức năng trọng tài trong
cuộc cạnh tranh giữa các lực lượng không thống nhất; nhà nước còn phải nhân
dân toàn quốc gia dân tộc để thực hiện những hoạt động nhằm bảo vệ công lý,
bảo đảm trật tự an toàn và ổn định xã hội. bảo vệ lợi ích chung của cả cộng
đồng.
Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan
trong bộ máy, với những con người cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực
thi quyền lực cụ thể phụ thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và
con người trong bộ máy ấy. Nếu như người cầm quyền được trao quyền,
không biết thực thi quyền lực cho đúng, hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích
vụ lợi thì sức mạnh của quyền lực nhà nước sẽ gây nguy hiểm cho xã hội. Vì
9
thế muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do con người được đề cao, xã hội
không phải gánh chịu những lộng hành sai phạm vô ý thức hoặc có ý thức của
nhà nước thì phải có cơ chế hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước, kiểm
soát hoạt động của công chức, viên chức nhà nước. Đây là một yêu cầu tất
yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà nước dân chủ, kể cả trong nền
dân chủ XHCN của chúng ta. Sự lạm quyền không chỉ diễn ra giữa giai cấp
thống trị với giai cấp bị trị, với nhân dân và với cộng đồng xã hội, mà còn
diễn ra chính trong nội bộ giai cấp thống trị. Trong giai cấp thống trị chỉ có
một bộ phận cầm quyền, bộ phận này vì lợi ích riêng có thể lạm quyền vi
phạm đến lợi ích của giai cấp mình. Điều đó cũng có thể diễn ra trong nội bộ
đảng cầm quyền, khi trở thành bộ phận lãnh đạo cầm quyền có thể vì lợi ích
riêng mà vi phạm đến lợi ích chung của đảng. Có thể nói xu hướng lạm quyền
thường xuyên diễn ra trong các nhà nước ở bất kỳ loại chế độ chính trị nào.
Cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong thực tế rất đa
dạng và phong phú, tuy nhiên có thể tựu chung lại thành hai cơ chế cơ bản là
tập quyền và phân quyền. Tập quyền có nghĩa là lực cao nhất của nhà nước
thuộc về một cá nhân hoặc một cơ quan, cá nhân và cơ quan ấy có thể chi
phối sự hình thành và hoạt động của các chức vụ nhà nước hoặc các cơ quan
nhà nước khác. Còn phân quyền nghĩa là quyền lực nhà nước được phân tách
thành các loại lập pháp, hành pháp, tư pháp và được giao cho các cơ quan nhà
nước khác nhau.Các cơ quan này độc lập với nhau và ngang bằng nhau hoặc
phụ thuộc với nhau ở một mức độ nhất định, có thể chịu trách nhiệm trước
nhau, trong hoạt động có sự phân công, phối hợp, kiểm soát thậm chí đối
trọng nhau để tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Khi quyền lực càng tập trung, thì khả năng hạn chế nó càng khó. Mục
đích của việc hạn chế quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực nhà nước
không bị lạm dụng, ngăn chặn các hiện tượng, xu hướng, quan liêu, độc tài,
10
chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước, không bị sử dụng trái với ý
chí của nhân dân. Nếu không đặt ra những giới hạn rõ ràng của việc sử dụng
quyền lực nhà nước thì nó sẽ trở thành bức rào cản của tự do và dân chủ, kìm
hãm sự tiến bộ xã hội. Xã hội càng phát triển, quyền lực của nhà nước càng
lớn thì yêu cầu của việc hạn chế quyền lực nhà nước tránh khỏi sự lạm quyền
càng tăng lên.
1.1.2. Hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu
khách quan
Vấn đề hạn chế quyền lực nhà nước là một lĩnh vực phức tạp của đời
sống chính trị xã hội ở bất kỳ nhà nước nào. Theo giải thích của từ điển Tiếng
Việt thì: "hạn chế là ngăn lại, giữ lại trong một giới hạn nhất định, không để
hoặc không thể cho vượt qua". Từ giải thích này, có thể thấy khi nói đến hạn
chế là đồng nghĩa với việc phải xác định một giới hạn cụ thể cho hành động.
Cũng theo từ điển Tiếng Việt thì: "lạm dụng là sử dụng quá mức, quá quyền
hạn". Như vậy có thể hiểu: Lạm dụng quyền lực nhà nước chính là sự tha hoá
của quyền lực thể hiện dưới dạng chủ thể nắm quyền lực tự cho mình thêm
những quyền mà họ không có được khi được trao quyền. Khuynh hướng này
diễn ra trong hầu hết các quá trình nắm quyền lực của chủ thể nhưng diễn
biến tăng lên về sau với những hậu quả khó lường trước được. Lạm quyền có
thể là sự tạo ra thêm quyền lực, có thể là mang lại lợi ích không chính đáng
cho mình. Đây thực chất là việc trái phép dưới dạng vượt quá giới hạn, làm
biến dạng quyền lực. Nó thường phụ thuộc nhiều vào mục đích của người
nắm quyền lực. Nói cách khác thì sự lạm quyền chính là sự lợi dụng địa vị có
sẵn của chính chủ thể nắm quyền lực.Suy ra, khi muốn hạn chế sự lạm dụng
quyền lực nhà nước nghĩa là phải đặt ra những giới hạn trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước để tránh sự lạm quyền, chuyên quyền. Theo phân tích ở
trên thì quyền lực có tính tất yếu vì trong xã hội có tổ chức thì quyền lực là
11
vấn đề không thể thiếu để duy trì xã hội trong vòng trật tự và ổn định, đảm
bảo lợi ích chung của cộng đồng, nó vừa là sợi dây vô hình để liên kết mọi
người theo một trật tự xã hội nhất định, đồng thời nó lại vừa là công cụ để
đảm bảo cho các liên kết này không bị phá vỡ theo hướng triệt tiêu luôn cả xã
hội. Ngay từ khi bắt đầu xuất hiện, quyền lực nhà nước có mục đích trước hết
là để điều hòa những mâu thuẫn giai cấp, duy trì sự cân bằng trong xã hội,
nhưng chủ thể nắm giữ, sử dụng quyền lực nhà nước đó là con người, với bản
chất ham muốn không có giới hạn làm cho khả năng lạm quyền, lộng quyền,
chuyên quyền của những người nắm giữ quyền lực nhà nước rất dễ xảy ra,
làm cho quyền lực mất đi ý nghĩa tích cực ban đầu của nó. Đó cũng là lý do
mà các vị vua, chúa giàu có thời xưa với quyền lực vô hạn, hay các nước đế
quốc thực dân hùng mạnh thế kỳ 19, thế kỷ 20 tiến hành những cuộc chiến
tranh xâm lược những quốc gia khác. Khi con người chưa có quyền lực thì họ
cố giành lấy quyền lực, khi có quyền lực rồi họ lại cố tăng cường, mở rộng
quyền lực, vì quyền lực chính là phương tiện đơn giản, nhanh chóng nhất để
đạt được những mục đích của con người.Với bản tính vị kỷ của mình, con
người bị điều khiển bởi khát vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công
cụ để đạt các khát vọng khác. Hobbes nhấn mạnh rằng, tinh thần vị kỷ trong
loài người là một khát vọng không ngừng đối với quyền lực và điều này chỉ
mất đi khi con người chết. Do đó, ngay từ khi nhà nước được hình thành,
cùng với việc tìm kiếm những phương thức nhằm nâng cao tính hiệu quả của
việc sử dụng quyền lực, người ta cũng đi tìm những cách thức hạn chế quyền
lực nhà nước khỏi sự lạm quyền, chuyên quyền- đây là một tất yếu khách
quan. James Madison- cha đẻ của Hiến pháp Hoa Kỳ đã khằng định: "Nhưng
để hình thành một chính phủ được điều hành giữa người với người, khó khăn
lớn nhất là chính quyền phải kiểm soát được những gì cơ quan này điều hành
và bước tiếp theo phải tự kiểm soát chính mình. Một sự phụ thuộc vào dân
12
chúng rõ ràng là sự kiểm soát cơ bản nhất đối với mọi chính quyền"[1, tr.438439].
Thực tế đã cho thấy, quyền lực luôn có xu hướng tự mở rộng và tự tăng
cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu hướng lạm
quyền, chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai cũng vậy, chính điều
này và khát vọng quyền lực của con người đã được các nhà tư tưởng chính trị
từ trước đến nay đề cập đến như một nội dung quan trọng trong quá trình
phân tích về hành vi chính trị. Bên cạnh đó, bộ máy nhà nước và những người
nắm giữ quyền lực nhà nước thường có xu hướng lạm quyền, chuyên quyền,
bất kể là trong chế độ quân chủ hay dân chủ, nếu quyền lực không được hạn
chế hiệu quả. Một trong những đặc trưng quan trọng của nhà nước đó là nó có
sự độc quyền về việc ban hành pháp luật và độc quyền sử dụng bộ máy cưỡng
chế. Đây là các công cụ hết sức quan trọng mà bất cứ giai cấp nào, tổ chức, cá
nhân nào có nó cũng muốn sử dụng sao cho có lợi nhất cho mình. Lịch sử
phát triển của xã hội loài người là lịch sử của quá trình đấu tranh cho tự do,,
dân chủ và quyền con người. Trong đó. vấn đề hạn chế sự lạm dụng quyền lực
nhà nước là một trong những phương tiên, công cụ chính trị- pháp lý quan
trọng để đảm bảo thực thi điều đó. Mục tiêu cao nhất của việc giới hạn quyền
lực nhà nước là đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, đồng thời với
nó là giới hạn phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước ở một mức độ nhất
định sao cho nó có đủ thẩm quyền để duy trì sự ổn định và phát triển của xã
hội. Ngoài ra, khi hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước còn nhằm đảm
bảo tính cẩn trọng trong các quyết định do nhà nước ban hành. Hơn thế nữa,
việc hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước còn là yêu cầu khách quan của
thời đại mới. Thời đại ngày nay, các quốc gia, dân tộc muốn phát triển không
thể đứng ngoài guồng máy quá trình hội nhập quốc tế. Quá trình này đặt ra
nhiều vấn đề, vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho mỗi quốc gia. Trong đó,
13
dân chủ hóa là xu thế tất yếu. Quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền,
dân chủ là phương thức để hình thành nên quyền lực nhà nước và cũng chính
là phương thức hiệu quả nhất để hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước.
Xu thế hội nhập đòi hỏi các nhà nước cần phát triển và hoàn thiện hệ thống
các thể chế dân chủ, tạo cơ sở pháp lý để các cấp chính quyền hoạt động có
hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân dân và là cơ sở pháp lý để
nhân dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong xã hội dân chủ,
pháp luật quy định rõ quyền của người dân: quyền sở hữu, quyền tự do ngôn
luận, chủ động tham gia các hoạt động xã hội, có quyền kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước để hạn chế sự lạm quyền, chuyên quyền.
1.1.3. Vai trò của hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước
1.1.3.1. Hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước là cơ sở ra đời
Hiến pháp
Hiến pháp theo cách hiểu ngày nay là đạo luật cơ bản của một quốc gia,
quy định về thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà
nước, cũng như các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và cơ chế bảo vệ
các quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp
lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia. Tất cả các văn bản
pháp luật khác phải phù hợp, không được trái với hiến pháp.
Sự ra đời của Hiến pháptrong xã hội tư sản đánh dấu một tiến bộ lớn
lao trong lịch sử lập pháp, tiêu biểu là Hiến pháp Hoa Kỳ - bản Hiến pháp
thành văn đầu tiên của thế giới, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ trong
phạm vi nước Mỹ mà còn lan rộng trên toàn thế giới. Sự thành công của Hiến
pháp Hoa Kỳ thể hiện ở việc: cho đến tận bây giờ, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia
giàu có nhất, tự do nhất, hùng mạnh nhất trên thế giới với một bản hiến pháp
tồn tại lâu nhất ( ra đời ngày 17 tháng 9 năm 1787). Để lý giải được sự thành
14
công ấy, chúng ta phải trở lại thời điểm soạn thảo Hiến pháp của các nhà lập
quốc Hoa Kỳ:
"Các nhà lập quốc ( Mỹ) đã phải trả lời câu hỏi: vì cần có con
người mới làm được công việc cai trị, thì làm sao thiết lập được
một chế độ cai trị theo luật chứ không phải cai trị theo người?
Tựu chung là vì các vị đó cũng là những nhà chính trị thực tế
nên muốn gắn liền tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến vào những
đặc điểm độc đáo đương thời của mình. Vấn để nan giải vừa có
tính chất triết lý vừa có tính chất thực tiễn này có lẽ được diễn tả
rõ nhất bởi James Madison trong Luận cương Liên bang số 51.
Madison nói rằng phải dùng tham vọng để trị tham vọng. Tư lợi
của con người cần phải được gắn liền vào quyền do hiến pháp
quy định. Chỉ cần hiểu biết một chút ít về bản chất của con người
cũng cho ta thấy rằng " cần phải có những cơ chế như vậy mới
ngăn chặn được sự lạm dụng quyền lực của chính quyền". Nếu
con người đều là thần thánh cả thì sẽ không cần có các cơ chế
bên trong và bên ngoài để kiểm soát chính quyền. Nhưng
Madison là con người thực tế. Cũng theo lời của Madison, chủ
nghĩa hợp hiến đòi hỏi phải có một chính sách " dùng các sự
mâu thuẫn và đối nghịch trong tư lợi để khai thác những điểm
yếu của ( luôn luôn có ngay cả trong) các động cơ cao thượng".
Một thể chế hợp hiến, xây dựng trong tinh thần khôn ngoan tôn
trọng con người, cần phải cho chính quyền có thể kiểm soát được
những người dưới quyền cai trị của chế độ. Tuy nhiên, đi đôi với
điều đó, nhưng không kém phần quan trọng là phải có một cơ
cấu đề phòng để kiểm soát và giữ quân bằng ngay trong chính
quyền ( chính quyền tự kiểm soát lấy mình)"[28, tr.61-62].
15
Điều này cho thấy các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã đề cao nhiệm vụ hạn
chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước khi soạn thảo Hiến pháp và họ đã thành
công trong việc xây dựng một bản Hiến pháp giới hạn và kiểm soát được sự
lạm dụng quyền lực của chính quyền, bằng cách tổ chức bộ máy nhà nước
dựa trên tư tưởng phân quyền của Montesquieu. Chính điều này đã đem lại
thành công cho nước Mỹ như hiện tại.
Từ dẫn chứng về Hiến pháp Hoa Kỳ đã cho chúng ta thấy vai trò quan
trọng của Hiến pháp trong việc giới hạn quyền lực nhà nước để tránh sự lạm
quyền xảy ra. Hay nói cách khác nghĩa là, để hạn chế sự lạm dụng quyền lực
nhà nước thì phải có một đạo luật mà người phải chấp hành nó không phân
biệt là người dân hay nhà nước hay "không ai có thể đứng trên đạo luật này".
Chính vì nhu cầu này mà Hiến pháp ra đời. Đặc trưng về sự vận động của mọi
loại quyền lực nói chung, trong đó có quyền lực nhà nước, là hai xu hướng:
Thứ nhất, đó là xu hướng sử dụng trái phép quyền lực được giao để phục vụ
cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ (lợi dụng quyền hạn). Xu hướng thứ hai
là lạm dụng quyền lực (lộng quyền, lạm quyền). Cả hai xu hướng này đều là
biểu hiện của sự tha hóa quyền lực, vốn là xu hướng khách quan trong quá
trình vận động, phát triển của quyền lực. Cả hai xu hướng trên đều dẫn đến
những hậu quả vô cùng tai hại cho xã hội, và người phải gánh chịu chính là
nhân dân. Do tính chất đặc biệt của quyền lực nhà nước như vậy, nên ngay từ
khi nhà nước ra đời cho tới nay, tất cả các chế độ xã hội đều nhận thức và đặc
biệt coi trọng việc hạn chế quyền lực nhà nước, với những phương thức khác
nhau. Trong chế độ nô lệ và phong kiến, quyền lực nhà nước - mà thể hiện tập
trung ở quyền lực của nhà vua, được coi như một thứ quyền lực thần thánh,
không giới hạn. Nhà Vua- người thống trị thay mặt cho nhà nước đều cho
mình là nguồn gốc của mọi công lý trong xã hội. Ông ta một mình có cả
quyền lập pháp, hành pháp, sửa đổi, đình chỉ và cả việc xét xử sự vi phạm
16
pháp luật do chính ông ta ban hành. Là người cai trị, ông ta có quyền tuyệt đối
và không phải tuân thủ pháp luật. Vị trí của ông ta không phải ở dưới mà ở
trên pháp luật. Đó là một nhà nước độc tài, chuyên chế gắn liền với các chế
độ chính trị phi dân chủ, quyền lực nhà nước có một đặc điểm quan trọng là
vô hạn định, luôn luôn tiềm ẩn một mối nguy hại cho loài người. Chế độ độc
tài là chế độ loại trừ đa số nhân dân tham gia vào các công việc nhà nước.
Chế độ chuyên chế rất gần với chế độ độc tài, không những loại trừ đa số
nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước mà còn can thiệp quá sâu vào
lĩnh vực của đời sống nhân dân. Các nước luôn phải cố gắng thiết lập và nuôi
dưỡng những cơ chế mang lại cho các cơ quan nhà nước sự mềm dẻo và sự
khuyến khích để hoạt động vì lợi ích chung, đồng thời kiềm chế những hành
vi độc đoán tham nhũng trong cách cư xử với các doanh nghiệp và công dân.
Những cơ chế này chính là những quy định hạn chế quyền lực trong pháp luật
của mỗi quốc gia, mà trước hết là phải nói đến Hiến pháp. Nhà nước luôn
luôn có xu hướng lạm quyền mà vi phạm đến quyền lợi của cá nhân. Vì thế
hạn chế, kiểm soát để bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay có
thể còn được gọi là bản chất của Hiến pháp.
Trong chế độ phong kiến, nhà Vua bao giờ cũng chỉ có quyền, mà
không bao giờ phải gánh chịu trách nhiệm về những hành vi thực hiện các
quyền của mình nên xu hướng lạm quyền ngày càng gia tăng. Bởi vậy, vấn đề
kiểm soát quyền lực và trách nhiệm của Nhà nước chỉ được giải quyết một
cách triệt để hơn và bài bản hơn, vì mục đích của sự bảo đảm nhân quyền
trong cách mạng tư sản. Do đó, chủ nghĩa Hiến pháp đến thời kỳ này mới
hình thành và phát triển. Càng ngày kiểm soát và trách nhiệm của quyền lực
nhà nước càng trở nên gắn bó mật thiết với dân chủ và sự kiểm soát này được
quy định thành luật, nhất là quy định của đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao
để cho mọi chủ thể nắm quyền lực nhà nước phải chấp hành. Đó là Hiến pháp.
17
Sự hiện diện của Hiến pháp là một căn cứ căn bản cho việc hạn chế sự lạm
dụng quyền lực của nhà nước, bởi vậy vấn đề hạn chế sự lạm dụng quyền lực
nhà nước phải được xem là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội,
khi mà xã hội cần đến Nhà nước thì đồng thời cũng cần phải kiểm soát Nhà
nước.
Pháp luật ngày càng trở nên là một công cụ hữu hiệu cho việc điều
chỉnh các hoạt động của xã hội. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân
theo các quy định – chuẩn mực của pháp luật. Tất cả các quy phạm điều chỉnh
mọi hoạt động của xã hội hợp thành hệ thống thống nhất các văn bản pháp
luật của quốc gia. Đứng đầu các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật là
Hiến pháp và các văn bản của Nghị viện/Quốc hội ban hành. Tuy rằng, Hiến
pháp có một đời sống ngắn hơn so với các đạo luật khác trong hệ thống pháp
luật, nhưng nó lại có hiệu lực pháp lý cao nhất trong tất cả. Sở dĩ Hiến pháp
có hiệu lực pháp lý tối cao nằm ở nội dung của Hiến pháp, hay nói cách khác
chính là đối tượng điều chỉnh đặc biệt của Hiến pháp. Đó là mối quan hệ xã
hội trong việc chính con người phải quản lý con người. Chính đối tượng này
đã làm cho Hiến pháp phải là văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao. Việc quy
định sự hạn chế quyền lực nhà nước có thể gọi đó là tính nhân bản của Hiến
pháp. Hay có thể nói ngược lại Hiến pháp muốn thể hiện tính nhân bản của
mình thì phải có các quy định nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Vị trí tối
thượng của Hiến pháp và luật được thể hiện rõ nét nhất trong hình thức nhà
nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức nhà
nước và vận hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này được phân
định và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân
chủ của người dân được bảo vệ. Hiến pháp là công cụ quan trọng nhất để xác
lập và phân định các quyền. Vì vậy, Hiến pháp được coi là linh hồn của pháp
quyền và là bản khế ước xã hội quan trọng nhất.
18
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ
chức quyền lực công khai. Mọi đường lối, chính sách và quyết định của nhà
nước đều phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các mối quan hệ qua lại
giữa nhà nước và cá nhân cũng phải dựa trên pháp luật. Khác với nhà nước
pháp trị, pháp luật của nhà nước pháp quyền phải vươn tới sự đầy đủ toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực, với phương châm: Đối với "cá nhân thì cho phép
làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm", còn đối với "cơ quan nhà nước
chỉ được phép làm những gì mà pháp luật quy định". Pháp luật của nhà nước
pháp quyền còn có mục tiêu vì con người, vì quyền con người. Đó là một
trong những biện pháp hạn chế quyền lực hữu hiệu nhất. Khi một quốc gia
không tôn trọng nguyên tắc pháp trị, thì người bị trị không thể nào được che
chở hữu hiệu trước những hành động bột phát của những người cầm quyền.
Bạo tàn và độc đoán hay độc tài sẽ phát sinh một khi một chính quyền làm
luật và xóa bỏ luật mà không để cho dân chúng phê bình, chỉ trích đạo luật,
khi chính quyền bỏ tù một cá nhân mà không tiến hành xử án một cách công
khai, hay không có cơ hội cho người bị xử án biện hộ, khi các thẩm phán xử
án dưới sự đe dọa của các cơ quan công quyền… Nhưng sẽ không có một hệ
thống pháp luật nào có thể hoạt động cách tự động, vô nhân tính và chính xác
như một cái máy. Luật pháp không tự nó mà có, không tự nó thi hành, đều
phải thông qua con người. Chính con người làm ra pháp luật, và cũng chính
con người thi hành pháp luật và cũng chính con người giải thích pháp luật.
Chính vì vậy, con người phải biết tự giới hạn hành vi của mình thông qua
Hiến pháp.Như vậy, nhà nước pháp quyền là nhà nước bị giới hạn quyền lực,
mà phương tiện giới hạn quyền lực của nhà nước là các văn bản quy phạm
pháp luật, đứng đầu là bản Hiến pháp. Cho đến nay, nhà nước pháp quyền trở
thành một giá trị văn minh của nhân loại mà mọi nhà nước muốn trở thành
dân chủ, văn minh đều phải hướng tới không phân biệt chế độ chính trị. Việt
19
Nam cũng không ngoại lệ, trong hơn 10 năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm và mong muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại.Nhưng vấn
đề cơ bản và cấp bách trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân do dân vì dân ở nước ta hiện nay chính là vấn đề hạn chế sự lạm dụng
quyền lực nhà nước. Nội dung này chỉ có thể được giải quyết thông qua việc
xây dựng Hiến pháp như một công cụ để giới hạn, kiểm soát quyền lực nhà
nước.
1.1.3.2. Hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước là điều kiện để
ngăn ngừa, giảm thiểu sự vi phạm quyền con người
Những ý tưởng về quyền con người ( nhân quyền) đã ra đời từ rất sớm
cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước.Ở bất cứ
thời kỳ nào, nhân loại cũng luôn dành sự quan tâm tới vấn đề mang cả ý nghĩa
về mặt lý luận cũng như thực tiễn vấn đề quyền con người. Theo một số học
giả, những tư tưởng về quyền con người, quyền công dân xuất hiện và được
ghi dấu ấn đầu tiên cùng với sự xuất hiện của văn minh cổ đại. Văn kiện được
chú ý nhất và được đánh giá là chứa đựng các tư tưởng thành văn rõ nét về
quyền con người, quyền công dân là Bộ luật Hammurabi do nhà vua
Hammurabi xứ Babylon ban hành (thời điểm vào khoảng năm 1780 TCN).
Nhà vua xứ này đã thể hiện tấm lòng thương dân của một vị vua anh minh khi
thiết lập ra đạo luật để xác định ranh giới quyền của thần dân vương quốc
mình sử dụng nó như một công cụ để"ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ
yếu" [67,tr.226]. Có thể nói đây là văn kiện đầu tiên thể hiện những tư tưởng
về quyền con người, quyền công dân phản ánh cái nhìn của giai cấp thống trị
đối với giai cấp bị trị, tuy rằng mới chỉ mang tính sơ khai. Sau bộ luật
Hammurabi, nhân loại có thêm những văn bản pháp luật khác đề cập tới
những giá trị cơ bản của quyền con người. Tuy nhiên, chỉ có một số ít những
20