Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Đánh giá việc thực hiện mục tiêu về Nguồn nhân lực trong Chiến lược phát triển giai đoạn 2011 2020 của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương tín Saccombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.3 KB, 89 trang )

Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của bản thân, có sự hỗ trợ
từ Giáo viên hướng dẫn là TS. Đặng Thị Lệ xuân. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong chuyên đề này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nghiên cứu nào. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được nêu trong chuyên đề thực tập là trung thực và có trích
dẫn nguồn. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước Hội đồng, cũng như kết quả Chuyên đề thực tập của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2015
Tác giả

Trần Văn Minh

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương
Tín Sacombank, chi nhánh Đống Đa - Hà Nội, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
anh chị, cô chú tại chi nhánh cũng như nhờ sự cố gắng của bản thân, em đã hoàn
thành việc thực tập có chất lượng, đảm bảo đúng tiến độ thời gian của trường, khoa.


Em xin chân thành cảm ơn các anh chị cô chú tại chi nhánh Đống Đa - Hà
Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ chỉ bảo để em có thể hoàn thành tốt công việc thực
tập của mình.
Chân thành cảm ơn TS. Đặng Thị Lệ Xuân đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc
hoàn thành chuyên đề thực tập.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2015
Tác giả

Trần Văn Minh

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................................................1

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
BCTC
CBNV

ĐH
KHCN
LLLĐ
NHNN
NHTM
SPDV
THCN
TMCP
UNIDO
VEPR

SV: Trần Văn Minh

: Hiệp hội các quóc gia Đông Nam Á.
: Báo cáo tài chính
: Cán bộ nhân viên
: Cao đẳng.
: Đại học.
: Khoa hoc công nghệ
: Lực lượng lao động.
: Ngân hàng nhà nước.
: Ngân hàng thương mại.
: Sản phẩm dịch vụ.
: Trung học chuyên nghiệp.

: Thương mại cổ phần.
: Tổ chức phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc.
: Viện nghiên cứu chính sách Việt Nam.

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................................................1

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

1

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Cùng với sự phát triển và hoàn thiện ngày càng cao của hệ thống kế hoạch hóa
phát triển, vai trò của chiến lược phát triển ngày càng được khẳng định, không chỉ
với nền kinh tế của một quốc gia mà cả với các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp lớn.

Bởi chiến lược cung cấp tầm nhìn của một quá trình phát triển mong muốn, nó phác
thảo quá trình phát triển nhằm đạt được những mục tiêu nhất định cho một thời kỳ
dài.
Để chiến lược được thực hiên một cách hiệu quả và đạt được những mục tiêu
đề ra thì cần có một hệ thống đánh giá chính xác và có hiệu quả đối với quá trình
thực hiện chiến lược cũng như các hoạt động đã thực hiện.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương
tín Sacombank, chi nhánh Đống Đa-Hà Nội, tôi đã tìm hiểu kĩ về chiến lược phát
triển của ngân hàng và có một cái nhìn tổng quát về quá trình thực hiện chiến lược
trong năm năm đầu của chiến lược phát triển giai đoạn 2011-2020.Chiến lược phát
triển của ngân hàng đã đi được gần một nửa chặng đường với nhiều thành tựu kết
quả đạt được và không ít mặt hạn chế. Tôi nhận thấy việc đánh giá tình hình thực
hiện chiến lược phát triển của ngân hàng tại thời điểm này là hết sức quan trọng.
Bởi việc đánh giá giúp cho ngân hàng biết được mình đang đứng ở đâu trong quá
trình phát triển, biết được mình đã làm được những gì, chưa làm được gì, từ đó rút
ra các bài học kinh nghiêm, có sự điều chỉnh kịp thời cũng như có các giải pháp
thực hiện cho giai đoạn tiếp theo.Việc đánh giá đúng và kịp thời giúp đưa ra những
căn chỉnh phù hợp cho việc lựa chọn chiến lược thực hiện, là phương hướng phát
triển đúng đắn của ngân hàng. Đối với Chiến lược phát triển của Sacombank, phát
triển nguồn nhân lực luôn được coi là một nhiệm vụ hàng đầu phục vụ cho sự phát
triển của ngân hàng. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài: “Đánh giá việc thực hiện
mục tiêu về nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển giai đoạn 2011-2020
của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín Sacombank” làm
chuyên đề thực tập của mình để góp phần vào công tác đánh giá của ngân hàng.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu sau:
• Mục tiêu tổng quát: trên cơ sở đánh giá việc thực hiện các mục tiêu về nguồn
nhân lực trong chiến lược phát triển của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn
Thương Tín trong năm năm đầu thực hiên để chỉ ra những điểm đã làm được,


SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

2

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

những mặt còn hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế, từ đó đề xuất một số giải
pháp thực hiện các mục tiêu về nhân lực trong thời gian còn lại của chiến lược.
• Mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất: Nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về chiến lược phát triển
và việc đánh giá thực hiện nói chung cũng như đánh giá thực hiện các mục tiêu của
chiến lược phát triển nói riêng.
Thứ hai: Tìm hiểu về các nội dung, mục tiêu về nhân lực và giải pháp thực
hiện trong năm năm của chiến lược phát triển, đối chiếu với kết quả đã đạt được, từ
đó đưa ra những phân tích và đánh giá cho việc thực hiện các mục tiêu vầ nhân lực
trong chiến lược phát triển.
Thứ ba: Trên cơ sở phân tích và đánh giá, đề xuất một số giải pháp cho việc
thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng trong năm năm còn
lại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
• Đối tượng nghiên cứu là chiến lược phát triển của ngân hàng Thương mại Cổ
phần Sài Gòn Thương Tín giai đoạn 2011-2020, bao gồm các nội dung chỉ tiêu về
nhân lực và giải pháp thực hiện trong năm năm đầu của chiến lược.
• Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: trong khoảng thời gian năm năm đầu thực hiện chiến lược từ

năm 2011 tới 2015.
- Về không gian: tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín
Sacombamk.
- Về nội dung: chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng giai đoạn
2011-2020, các giải pháp thực hiện chiến lược và kết quả đạt được trong năm năm
đầu của chiến lược.
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp thu thập thông tin.
Nguồn thông tin sử dụng để đánh giá trong bài viết của tôi chủ yếu được thu
thập từ nguồn: văn bản chiến lược phát triển của ngân hàng giai đoạn 2011-2020,
báo cáo thường niên và báo cáo tài chính hợp nhất của ngân hàng qua các năm, các
tài liệu bài báo trên mạng Internet.
Các thông tin thu thập được xử lý bằng cách phân tích , so sánh giữa các
nguồn tìm được, đánh giá mức độ tin cậy, từ đó chọn thông tin đáng tin cậy nhất.
Các thông tin được chọn lựa sẽ được sắp xếp theo trình tự thời gian, loại nội dung…
để thuận tiện cho việc sử dụng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Bài viết của tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để thực hiện việc
SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

3

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

đánh giá mức độ thực hiện các mục tiêu về nhân sự của ngân hàng. Do đặc thù của

công tác theo dõi đánh giá cũng như hạn chế về điều kiện nguồn lực, thời gian và
kiến thức nên bài viết của tôi chủ yếu sử dụng hình thức nghiên cứu tại bàn.
Tất cả các thông tin sau khi được xử lí là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá
và so sánh với mục tiêu đề ra. Việc nghiên cứu tại bàn giúp hình thành khung lí
thuyết về chiến lược phát triển trong doanh nghiệp, công tác đánh giá để vận dụng
vào thực tiễn việc đánh giá thực hiên các mục tiêu về nhân lực tại ngân hàng.
Nghiên cứu tại bàn cũng giúp tôi hiểu về quy trình đánh giá và xây dựng được
khung đánh giá phục vụ cho việc đánh giá của mình.
Phương pháp thông kê mô tả, cụ thể là việc biểu diễn mô tả các số liệu về kết
quả thực hiện qua các năm dưới dạng các bảng, biểu đồ; mô tả các kết quả bằng lời
văn. Phương pháp này giúp hình dung ra kết quả thực hiện các mục tiêu về nhân lực
một cách tổng quát cho cả giai đoạn năm năm, thấy được diễn biến, xu hướng biến
động của các chỉ số.
Phương pháp so sánh số liệu giữa mục tiêu và kết quả thực hiện giúp xác
định hiệu quả, mức độ hoàn thành các mục tiêu. So sánh các kết quả đạt được của
ngân hàng với các ngân hàng tương tự giúp đánh giá thêm về các kết quả.
Phương pháp phân tích, đặt các kết quả đạt được trong bối cảnh nguồn lực đã
có, mục tiêu cần đạt và các yếu tố môi trường trong ngoài ngành để đánh giá sự phù
hợp của các mục tiêu, các giải pháp, từ đó đề xuất phương hướng giải pháp cho giai
đoạn sau.
Ngoài ra, bài viết còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác (tổng hợp,
hệ thống hoá, khái quát hoá…) để thực hiện việc nghiên cứu đánh giá có hiệu quả
nhất.
5. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan.
Có thể đề cập đến một số bài viết công trình nghiên cứu có liên quan tới
đánh giá việc thực hiện các mục tiêu về nguồn nhân lực tại ngân hàng cụ thể như
sau:
- Công văn số 2274/BKHĐT-TCTK của Bộ Kế hoạch Đầu tư về khung
theo dõi đánh giá việc thực hiện chiến lươc phát triển Thống kê ngày 10 tháng 4
năm 2013. Công văn này ban hành lèm theo tài liệu hướng dẫn theo dõi và đánh giá

thực hiện chiến lược phát triển thống kê việt nam giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn
đến năm 2030. Cụ thể, tài liệu này xây dựng một khung lý thuyết cơ bản về theo dõi
và đánh giá việc thực hiện chiến lược phát triển thống kê, hướng dẫn xây dựng kế
hoạch theo dõi đánh giá dựa trên kết quả và đưa ra khung theo dõi và đánh giá với

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

4

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

từng mục tiêu nội dung cụ thể. Cá nhân tôi đồng ý với khung lý thuyết và khung
theo dõi đánh giá này để vận dụng sang hình thành khung lý thuyết cho việc đánh
giá thực hiện mục tiêu về phát triển nguồn nhân lực trong bài viết của mình.
- Đề tài “Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống giám sát và đánh giá chi tiêu
công ở Việt Nam” của tác giả Sử Đình Thành được công bố năm 2012. Mục đích cơ
bản của đề tài là hướng tới hoàn thiện thiết lập hệ thống M&E chi tiêu công dựa
trên kết quả. Hệ thống M&E chi tiêu công dựa trên kết quả là phương thức quản trị
công hiện đại, cung cấp công cụ đo lường kết quả chi tiêu công và gắn chi tiêu công
với mục tiêu ưu tiên. Nghiên cứu hướng tới mục tiêu tìm kiếm cách thức phát triển
hệ thống M&E phù hợp với bối cảnh hội nhập của Việt Nam, nhằm tăng cường cải
cách khu vực công hướng tới phát triển bền vững. Cá nhân tôi kế thừa ở bài viết này
cách thức hình thành và xây dựng một khung theo dõi đánh giá dựa trên kết quả
thực hiện các mục tiêu về nhân lực sử dụng trong bài viết của mình.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm

2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 –
2020 được Chính phủ công bố vào giữa tháng 9 năm 2015. Ưu điểm của bài viết
này là trùng với khoảng thời gian đánh giá trong bài viết của tôi nên dễ dàng tiếp
cận kế thừa nhiều thông tin về các điều kiện kinh tế vĩ mô, môi trường ngành trong
cùng thời điểm. Tuy nhiên về hạn chế, bài viết này đánh giá ở cấp kế hoạch cho quy
mô cả nền kinh tế. Vì vậy việc mô tả đánh giá chủ yếu bằng lời văn, đánh giá các
yếu tố định tính khái quát cho cả nền kinh tế. Trong khi việc đánh giá tại mọt doanh
nghiệp như ngân hàng cần cụ thể hóa số liệu cho các chỉ số thông qua khung theo
dõi đánh giá.
- Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh của tác giả Nguyễn Minh Hiệp với
tên đề tài “Giải pháp phát triển nguồn nhân lực tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn” được công bố năm 2013. Luận văn này đã phân tích rất rõ ràng và chi tiết
thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở Saccombank trong những năm trước 2013,
từ đó đề xuất các giải pháp để phát triển chất lượng nguồn nhân lực cho ngân hàng.
Việc nghiên cứu thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong bài viết này đã giúp tôi
rất nhiều trong việc hình thành nên bộ chỉ số để xây dựng khung theo dõi đánh giá
trong bài viết của mình.
Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu của các cơ quan nhà nước, bộ ngành
ở Việt Nam như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng hội xây dựng Việt
Nam, một số tổ chức quốc tế đã công bố các báo cáo, báo cáo thùờng niên, nghiên
cứu, đánh giá, ấn phẩm trong đó có đề cập đến đánh giá việc thực hiện ở các cấp kế
SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

5


GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

hoạch của Việt Nam. Cũng có nhiều công trình khoa học, luận văn của các cá nhân
viết về thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở Sacombank, giải pháp phát triển
chất lượng nguồn nhân lực. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã giúp xây
dựng một khung lí thuyết về theo dõi đánh giá chuẩn mực cũng như cũng như cách
tiếp cận về chất lượng nguồn nhân lực nói chung và cả ở Sacombank nói riêng. Tính
đến nay, cá nhân tôi chưa tìm thấy một bài viết nào nghiên cứu về đánh giá việc
thực hiện các mục tiêu về nhân lực trong chiến lược phát triển nói chung cũng như
ở Sacombank nói riêng. Việc nghiên cứu tổng quan các đề tài, bài viết liên quan
trên giúp tôi rất nhiều để thực hiện chuyên đề của mình.

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

6

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.
Lý thuyết về chiến lược phát triển.
1.1.1. Khái niệm về chiến lược phát triển.
“Chiến lược” là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Strategos” được
sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự, sau đó là lĩnh vực chính trị. Các nhà lí luận
thời cận đại Clawzewit cho rằng “chiến lược quân sự là nghệ thuật chỉ huy ở vị thế

ưu thế”.Một nhà xuất bản của từ điển Larous coi “chiến lược là nghệ thuật chỉ huy
các phương diện để giành chiến thắng”. Học giả Đào Duy Anh, trong từ điển tiếng
Việt đã viết: “Chiến lược là các kế hoạch đặt ra để giành thắng lợi trên một hoặc
nhiều mặt trận”. Như vậy, trong lĩnh vực quân sự, thuât ngữ chiến lược nói chung
đã được coi như một nghệ thuật chỉ huy nhằm giành thắng lợi của một cuộc chiến
tranh.
Theo quan điểm chính trị, chiến lược thường được hiểu là hướng và cách giải
quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong thời gian dài. Đi cùng
khái niệm chiến lược là chiến thuật, được hiểu là phương hướng và cách giải quyết
nhiệm vụ mang tính từng mặt, từng thời điểm, từng khu vực nhằm thực hiện chiến
lược đặt ra. Quan niệm nói trên có điểm nhấn là khẳng định bản chất chiến lược (so
với sách lược), đó là sự chọn hướng và cách đi tối ưu mang tính tổng thể và dài hạn.
Theo hai góc độ trên thì khái niệm chiến lược không chỉ đúng cho lĩnh vực
quân sự và chính trị mà còn đúng cho cả lĩnh vực kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, riêng
trong kinh tế cũng có nhiều quan niệm bàn về chiến lược phát triển. Tổ chức phát
triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) cho rằng: “Chiến lược phát triển có
thể mô tả như một bản phác thảo quá trình phát triển nhằm đạt được những mục tiêu
nhất định cho một thời kỳ dài. Chiến lược cung cấp một tầm nhìn của một quá trình
phát triển mong muốn và giải pháp tổng thể tiến hành. Chiến lược hướng dẫn các
nhà hoạch định chính sách trong việc huy động và phân bổ nguồn lực”. Khái niệm
của UNIDO có phần cũng giống quan điểm của các nhà quân sự chính trị, tuy vậy
có muốn gắn kết chiến lược với hoạch định các chính sách và các văn bản hoạch
định khác. Theo cách hiểu của Trung tâm Kinh tế Quốc tế Úc (CIE) thì chiến lược
thể hiện việc mô tả điểm xuất phát và mục tiêu cuối cùng của quá trình phát triển,
phải xây dựng thể chế và tận dụng yếu tố thị trường để đạt được mục tiêu phát triển.
Quan điểm này chú trọng đến nội dung cấu thành chiến lược và gắn chiến lược với
môi trường kinh tế thị trường.
Tựu chung lại từ các góc nhìn khác nhau nói trên, có thể rút ra kết luận:
SV: Trần Văn Minh


Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

7

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

“Chiến lược phát triển cho một tổ chức hay doanh nghiệp là một hệ thống các phân
tích, đánh giá và lựa chọn thể hiện quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu của một quá trình
phát triển mong muốn, sự nhất quán về con đường và các giải pháp cơ bản để thực
hiện”. Trong phạm vi các doanh nghiệp tập đoàn công ty…, chiến lược phát triển
bao gồm các bộ phận: chiến lược tài chính, chiến lược sản phẩm dịch vụ sản phẩm,
chiếm lược maketing, chiếm lược nhân sự, chiếm lược khoa học công nghệ…, tùy
vào đặc điểm của từng đơn vị.
1.1.2.
Đặc trưng của chiến lược phát triển.
Từ những quan niệm về chiến lược phát triển đã nêu ở mục trên, có thể nhận
thấy những đặc trưng cơ bản thể hiện chức năng của chiến lược phát triển khác với
các văn bản hoạch định khác bao gồm:
- Tính chất dài hạn và sự tương đối trong phân đoạn thời gian.
Chiến lược như đã nói ở trên là sự mô phỏng mong muốn về viễn cảnh phát
triển trong tương lai, vì vậy nó thường không bị chặn bởi thời gian. Khoảng thời
gian chiến lược chỉ ước tính sau khi đã hình dung ra bức tranh viễn cảnh của đất
nước hay đơn vị tổ chức và nó phụ thuộc vào khả năng nhìn xa trông rộng của các
nhà hoạch định chiến lược về tương lai. Thời gian chiến lược có thể 10 năm, 20
năm, thậm chí có những nước đã thực hiện xây dựng chiến lược phát triển tới thập
niên 50 của thế kỉ 21. Khoảng thời gian của chiến lược được xác định một cách
tương đối chứ không đòi hỏi chính xác như các văn bản kế hoạch. Chúng ta thương

nói chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho những năm đầu thế kỉ 21, chiến lược
phát triển những năm 2000, hay chiến lược phát triển giai đoạn 2011-2020… tính
chất nêu trên của chiến lược đã tạo nên điều kiện phát huy khả năng nhìn xa trông
rộng và sức sáng tạo trong quá trình tìm đến hướng đi dài hạn.
- Tính chất định tính là chủ yếu.
Chiến lược là sự chọn lựa về con đường mà các quốc gia sẽ đi theo để hướng
tới một mục đích tổng thể trong dài hạn. Chức năng chủ yếu của chiến lược là định
hướng, vạch ra các đường nét chủ yếu cho sự phát triển của đất nước hay tổ chức
trong dài hạn. Vì vậy chiến lược sẽ mang tính chất định tính là chủ yếu. Một bức
tranh càng cụ thể sẽ làm hạn chế nhiều hơn mức độ sáng tạo của các nhà hoạch
định. Tính định lượng trong chiến lược chỉ được thể hiện ở một mức độ cần thiết,
trong đó bao gồm một số tính toán dự báo, các luận chứng cần thiết. Một bản chiến
lược bao gồm quá nhiều chỉ tiêu định lượng sẽ làm cho nó trở thành một bản kế
hoạch dài hạn hay trung hạn nối tiếp nhau.
- Tính kết quả, thành quả và thể hiện sự đột phá ưu tiên.

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

8

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

Nội dung chính của chiến lược phát triển là phản ánh đích đến, điểm cuối cùng
trong một quá trình phát triển, bức tranh vẽ ra phải rõ ràng hoàn chỉnh, tổng thể
trong đó hiện diện tất cả các thành quả của quá trình phấn đấu. Chiến lược không

phải là chiến thuật, không phản ánh nhiều các giải pháp, hay tính toán thể hiện chi
phí hay hiệu quả của quá trình thực hiện các bước đi cụ thể. Đây là chỗ rõ ràng để
phân biệt chiến lược với kế hoạch, quay hoạch hay chương trình dự án phát triển.
Dù vậy trong chiến lược phải thể hiện rõ quan điểm ưu tiên, những điểm nhấn mang
tính đột phá, thể hiện quá trình phát triển dài hạn.
1.1.3. Sự cần thiết của chiến lược phát triển.
Không phải ngẫu nhiên mà khái niệm chiến lược lại được chuyển nhanh từ
quân sự, chính trị sang kinh tế. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nền kinh tế trở thành một mắt xích trong hệ thống
kinh tế thế giới, thì việc xây dựng quản lí bằng chiến lược phát triển là một yêu cầu
bức thiết đặt ra và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi quốc gia hay các tổ chức,
doanh nghiệp. Sự cân thiết phải có chiến lược phát triển được giải thích bằng các lí
do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ tính cạnh tranh ngày càng sâu sắc của nền kinh tế thị
trường hội nhập quốc tế. Xây dựng và quản lí bằng chiến lược phát triển sẽ giúp các
nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chủ động xem xét và đánh giá tổ chức của mình sẽ
đi theo hướng nào và khi nào thì đạt tới.
Thứ hai, những hạn chế bất cập của nền kinh tế thị trường. Thị trường luôn
thay đổi nhanh chóng tạo ra những cơ hội và nguy cơ bất ngờ. Phương thức quản lí
bằng chiến lược giúp các nhà hoạch định chủ động kịp thời dự báo, tính toán và xác
định cơ hội và thách thức, nhằm tân dụng và khai thác triệt để cơ hội, giảm thiểu tác
động tiêu cực cử thách thức để thực hiện mục tiêu phát triển trong tương lai.
Thứ ba, chiến lược cung cấp một tầm nhìn và khuôn khổ chung cho xây dựng
và triển khai các văn bản hoạch định ở các cấp thấp hơn.
1.1.4. Nội dung của chiến lược phát triển.
1.1.4.1. Xác định điểm xuất phát của chiến lược.
Đây là quá trình xác định điểm đầu của con đường chiến lược. Việc xác định
điểm đầu của thời kì chiến lược đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng các yếu tố tiềm
năng phát triển kinh tế, thực trạng phát triển trong thời gian dài, dự báo các yếu tố tác
động có liên quan đến cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế trong tương lai.

1.1.4.2. Xác định đích đến của chiến lược.
Đây là điểm cuối của con đường chiến lược. Thực chất là bức tranh viễn cảnh
về trạng thái mong muốn đạt tới trong tương lai xa. Đây là khái niệm tầm nhìn trong

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

9

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

chiến lược, nó thể hiện khả năng nhìn xa trông rộng của người làm chiến lược. Hay
nói cách khác nó thể hiện cái tầm của người làm chiến lược hay nhà lãnh đạo.
Trong nội dung xác định đích đến cần quan tâm đến các qua điểm phát triển
cơ bản, các quan điểm phát triển chủ đạo, các mục tiêu tổng quát của chiến lược.
1.1.4.3. Tìm ra con đường kết nối hiện tại với tương lai.
Nó bao gồm các biện pháp thực hiện và cơ chế vận hành để bồi dưỡng, khai
thác, huy động, phân bổ và sử dụng hợp lí nguồn lực phát triển.
1.2. Lý thuyết về đánh giá.
1.2.1. Khái niệm về đánh giá.
Đánh giá là một hoạt động nhằm nhận định và xác nhận giá trị đạt được về
mức độ hoàn thành, chất lượng và hiệu quả của một chiến lược, chương trình, một
hoạt động hay một nội dung so với mục tiêu hay các chuẩn mực đã được xác định
từ trước. Hoạt động đánh giá bao gồm quá trình thu thập, xử lý và phân tích để định
lượng tình hình và kết quả công việc; định lượng tính hiệu quả, sự tác động và tính
bền vững của mục tiêu đặt ra.

1.2.2. Mục đích của đánh giá.
Đánh giá cung cấp cho các nhà quản lý chiến lược, chương trình các thông tin
để hiểu rõ hơn vấn đề, xác định các chương trình hỗ trợ cần thiết và giải quyết các
vấn đề của chiến lược, chương trình trong quá trình thực hiện. Việc đánh giá kịp
thời hiệu quả giúp kịp thời điều chỉnh chiến lược, chương trình dự án và đề xuất
những giải pháp thực hiện tốt hơn cho giai đoạn tiếp. Đánh giá cũng là một cơ hội
tốt để nhìn nhận vấn đề rút ra bài học cho các chiến lược, dự án tiếp theo.
1.2.3. Phân loại đánh giá.
1.2.3.1. Theo chủ thể đánh giá.
Đánh giá nội bộ: Do chính tổ chức phòng ban xây dựng ra chiến lược chương
trình dự án tự đánh giá
Đánh giá từ bên ngoài: Do các bên liên quan được hưởng lợi ích hoặc chịu tác
động ảnh hưởng từ chiến lược phát triển, chương trình dự án tham gia đánh giá.

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

10

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

1.2.3.2. Căn cứ theo thời gian, chu kì .
Đánh giá đầu kỳ: Được tiến hành ngay khi một chiến lược, chương trình, dự
án bắt đầu nhằm xem xét tình hình thực tế so với thực trạng ban đầu mô tả trong
văn kiện chiến lược, chương trình, dự án đã được phê duyệt nhằm tìm ra những giải
pháp trong giai đoạn ban đầu khi chuẩn bị thiết kế kỹ thuật và lập kế hoạch làm việc

chi tiết.
Đánh giá giữa kỳ: Được tiến hành vào giữa chu trình thực hiện chiến lược,
chương trình hành động nhằm xem xét tiến độ thực hiện từ khi bắt đầu và khuyến
nghị các điều chỉnh nếu cần thiết.
Đánh giá cuối kỳ: Được tiến hành khi chương trình hành động kết thúc nhằm
đánh giá các kết quả đạt được, xem xét lại toàn bộ quá trình thực hiện, rút ra những
bài học cần thiết và cung cấp cơ sở cho việc chuẩn bị báo cáo kết thúc.
Đánh giá tác động: Được tiến hành tại một thời điểm thích hợp trong vòng 3
đến 5 năm sau khi chương trình kết thúc hoạt động và những kết quả của nó được
đưa vào sử dụng để đánh giá hiệu suất, tính bền vững và những tác động kinh tế xã
hội so với các mục tiêu ban đầu.
Bài viết sử dụng loại đánh giá giữa kỳ trong điều kiện việc thực hiện kế hoạch
phát triển của ngân hàng đã đi được gần một nửa chặng đường
1.2.4.
Các cấp độ trong đánh giá.
Đánh giá đầu ra: là cấp độ đầu tiên, đề cập đến việc theo dõi và đánh giá
thường xuyên và liên tục các hoạt động của chiến lược, chương trình, dự án; quy
trình thực hiện và các kết quả đầu ra được tạo nên.
Đánh giá kết quả: là cấp độ thứ hai, nó liên quan đến việc đánh giá thay đổi
hành vi hoặc thay đổi hệ thống, là kết quả có được từ các đầu ra của chiến lược,
chương trình, dự án.
Đánh giá tác động: cấp độ thứ ba đề cập đến việc đánh giá các thay đổi trong
chất lượng cuộc sống của các nhóm mục tiêu, đó chính là kết quả từ việc thay đổi
hành vi hoặc thay đổi hệ thống do chiến lược, chương trình, dự án tạo nên. Tác
động này bao gồm cả tác động đến các nhóm mục tiêu cụ thể - đã được nêu ở mục
đích phát triển của chiến lược, chương trình dự án, cũng như những đóng góp mà nó
đang thực hiện nhằm đạt được mục đích tổng thể.
1.2.5. Quy trình và nội dung đánh giá.
1.2.5.1. Nội dung đánh giá.
Để đánh giá quá trình thực hiện chiến lược phát triển cần xác định rõ nội

dung cần đánh giá. Do các giai đoạn xây dựng và thực hiện chiến lược có đặc tính
khác nhau nên phải áp dụng nhiều hình thức đánh giá khác nhau phù hợp với đối

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

11

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

tượng cần đánh giá. Về nguyên tắc nội dung cần đánh ở mỗi hình thức đánh phải
phù hợp với đối tượng đánh giá nên không thể giống nhau. Điều đó cũng có nghĩa
là nội dung đánh giá xuất phát từ nội dung chiến lược và phù hợp với nội dung của
chiến lược cũng như các kế hoạch triển khai chiến lược.
Đối với đánh giá việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển, cần
làm rõ một số nội dung sau:
Thứ nhất: Đánh giá sự mức độ cần thiết của việc thực hiện mục tiêu cần đánh
giá, mục tiêu đó có thực sự quan trọng và cần thiết để thực hiện, cần thiết ở mức độ
nào? Phần này cũng nêu ra các đánh giá chủ quan của người tham gia đánh giá về
sự phù hợp của các mục tiêu, sự ưu tiên của các mục tiêu đặt trong bối cảnh thực
trạng phát triển của doanh nghiệp, tổ chức; định hướng phát triển cũng như tất cả
các điều kiện chủ quan và khách quan có ảnh hưởng.
Thứ hai: Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện mục tiêu. Phần này tập trung
làm rõ mức độ hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển
của doanh nghiệp. So sánh các kết quả thành tựu đã đạt được với các chỉ tiêu đề ra
để biết mức độ hoàn thành như thế nào (chưa đạt chỉ tiêu, đạt chỉ tiêu hay vượt chỉ

tiêu). Ngoài đánh giá các chỉ tiêu mang tính định lương, kết hợp thêm việc đánh giá
các kết quả mang tính định tính. Từ sự so sánh giữa mục tiêu và kết quả, có sự phân
tích để đưa ra những nhận xét đánh giá bình luận về việc thực hiện các mục tiêu.
Thứ ba: Đánh giá các giải pháp để thực hiện các mục tiêu. Phần này làm rõ
về sự phù hợp của các giải pháp đã được thực hiện, xem xét xem các giải pháp đã
lựa chọn để thực hiện có thực sự phù hợp cho từng mục tiêu cụ thể hay không, hệ
thống các giải pháp đó có đồng bộ giữa các nhóm mục tiêu hay không. Và quan
trọng nhất là nó có thực sự hợp lý với điều kiện phát triển, môi trường kinh tế để
đem lại hiệu quả cao nhất cho việc thực hiện các mục tiêu.
1.2.5.2. Quy trình thực hiện việc đánh giá.
Quá trình đánh giá thực hiện một số mục tiêu được tiến hành theo 7 bước:
Bước 1: Xác định nội dung cần đánh giá
Xác định mục tiêu là một phần quan trọng của quá trình ra quyết định trong
mỗi tổ chức. Bất cứ một tổ chức nào đều có mục tiêu dù có thể họ chưa có năng lực
trong việc đánh giá. Nếu một cá nhân hay tổ chức nào đó muốn xây dựng hệ thống
đánh giá dựa trên kết quả thì việc đầu tiên phải làm là xác định các nội dung cần
đánh giá, hay chính là việc lựa chọn và thống nhất các kết quả ( xuất phát từ các
mục tiêu) sẽ được đánh giá. Để làm được việc này ta cần nắm được tầm quan trọng
của các kết quả, những vấn đề cần xem xét khi lựa chọn các kết quả để đánh giá,

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

12

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân


tầm quan trọng của việc xây dựng các tiến trình có sự tham gia và tham vấn của các
bên lien quan, quá trình tổng thể xác định và thống nhất về các kết quả.
Tầm quan trọng của kết quả.
Trước tiên cần phân biệt mục tiêu và kết quả. Mục tiêu và kết quả đều là đích
đến của một hành động cụ thể. Tuy nhiên mục tiêu thường mang tính chất lâu dài
khái quát hơn so với kết quả. Để đạt được mục tiêu nào đó ta cần phải đạt được
những kết quả nhất định. Kết quả chính là căn cứ đê xác định các chỉ tiêu, thường
mang tính ngắn hạn hơn.
Kết quả có vai trò quan trọng bởi nó mô tả một cách rõ ràng biểu hiện của sự
hoàn thành, của sự thành công của một dự án hay một chiến lược. Từ mục tiêu
người ta không trực tiếp tiến thẳng tới việc xây dựng các chỉ số mà phải thông qua
các kết quả, cái suy ra từ mục tiêu. Mục tiêu chỉ là cái đích đã định cần đạt tới, để
đạt được điều đó phải thông qua các kết quả.
Kết quả có ý nghĩa quan trọng sống còn trong việc xây dựng hệ thống đánh giá
dựa trên kết quả. Xây dựng hệ thống là một tiến trình suy diễn mà theo đó đầu vào,
các hoạt động và đầu ra đều được suy ra và xuất phát từ kết quả. Các chỉ số, dữ liệu
tình trạng ban đầu, các chỉ tiêu, là các thành phần chủ yếu của một khung đánh giá
kết quả hoạt động, đều được suy ra và xác định dựa trên các kết cục.
Các vấn đề cần xem xét khi lựa chọn kết quả cần đánh giá
Đâu là chiến lược ưu tiên, đâu là các kết quả mong muốn. Đó là câu hỏi mà tất
cả các tổ chức và các bên liên quan đặt ra. Có rất nhiều vấn đề cần xem xét khi đưa
ra chọn lựa các kết quả cần đánh giá, trong ó có hai yếu tố cơ bản là mục tiêu chủ
quan và giới hạn về nguồn lực. Hiển nhiên các kết quả sẽ được xác định từ mục tiêu
đề ra ban đầu. Tuy nhiên với bất kỳ tổ chức nào luôn có giới hạn về nguồn lực nên
việc quan trọng là phải xác định các mục tiêu ưu tiên, từ đó có kế hoạch lập ngân
sách cho đầu ra và quản lí theo kết quả.
Tầm quan trọng của việc xây dựng một quá trình tham vấn có sự tham
gia của các bên liên quan.
Đơn phương xác định mục tiêu dẫn đến thiếu tính sở hữu của những bên liên

quan bên trong và bên ngoài tổ chức cũng như thiếu tính khả thi khi thực hiên để
đạt được mục tiêu. Tương tự như vậy trong việc lựa chọn các kết quả, việc xây
dựng môt quá trình tham vấn và có sự tham gia của các bên có tầm quan trọng sống
còn. Quá trình này phải được xác định bằng việc xây dựng các mục tiêu và tiếp đến
xây dựng kết quả và các chỉ số.
Quá trình tổng thể để xác định và thống nhất về các kết quả
-Xác định người đại diện cụ thể cho từng bên liên quan tới đối tượng cần đánh

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

13

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

giá.
-Xác định mối quan tâm, mục đích của các nhóm đối tượng liên quan
-Chuyển các vấn đề thành các tuyên bố về khả năng cái thiện kết quả
-Xây dựng hệ thống các kết quả cần đánh giá.
Bước 2: Xác định các chỉ số cần đánh giá
Chỉ số là các biến số định tính hoặc định lượng, cho ta các phương tiện đơn
giản để đo lường kết quả hoạt động, phản ánh các thay đổi liên quan đến một biện
pháp can thiệp, hoặc hỗ trợ việc đánh giá kết quả hoạt động của một tổ chức so với
các kết quả đã tuyên bố. Chỉ số cần được xác định cho mọi cấp của hệ thống đánh
giá dựa trên kết quả. Điều này có nghĩa rằng các chỉ số là điều cần thiết để giám sát
sự tiến triển trên phương diện đầu vào, đầu ra, kết cục và các mục tiêu.

Xây dựng chỉ số cơ bản để giám sát kết quả cho phép các nhà quản lí đánh giá
mức độ đạt được các kết quả dự kiến hay cam kết. Xây dựng chỉ số là hoạt động cốt
lõi trong việc xây dựng hệ thống đánh giá dựa trên kết quả. Nó chi phối tất cả các
bước thu thập đánh giá và báo cáo số liệu.
Chỉ số được xác định bằng cách chuyển hóa các kết quả thành một tập hợp các
chỉ số phản ánh kết quả hoạt động có thể đo được.
CREAM là tiêu chuẩn cho các chỉ số tốt phản ánh kết quả hoạt động. CREAM
của các chỉ số chọn lọc phản ánh kết quả hoạt động thực chất của một tập hợp các
tiêu chí giúp xây dựng chỉ số cho một chương trình dự án. Chỉ số kết quả hoạt động
cần phải chính xác và không mập mờ (Clear), phù hợp với đối tượng đang xét
(Relevant), có được với chi phí phải chăng tiết kiệm (Economic), có đủ căn cứ thỏa
đáng để đánh giá kết quả hoạt động (Adequate), thuận tiện cho việc kiểm chứng độc
lập giám sát được(Minotorable).
Bước 3: Thu thập số liệu về tình trạng ban đầu của các chỉ số
Sau khi hoàn thành việc lựa chọn các chỉ số quan trọng về kết quả hoạt động
để giám sát kết quả, chúng ta tiến hành bước tiếp theo là xác định số liệu tình trạng
ban đầu, tức là xác định xem chúng ta đang ở đâu so với kết quả mà chúng ta đang
tìm cách đạt được. Chúng ta không thể dự đoán được kết quả tương lai nếu như
chúng ta không xác định được tình trạng ban đầu. Số liệu tình trạng ban đầu là
thước đo đầu tiên của một chỉ số. Đó là tình trạng hiện tại được dùng làm tình trạng
ban đầu để theo dõi các thay đôi trong tương lai.
Khi thu thập thu thập thông tin tình trạng ban đầu cho từng chỉ số chúng ta cần
trả lời tám cấu hỏi cơ bản sau: nguốn số liệu lấy từ đâu, các phương pháp thu thập
số liệu là gì, ai sẽ thu thập số liệu, số liệu phải được thuu thập với mức thường
xuyên như thế nào, mức độ khó khăn và chi phí của việc thu thập số liệu, ai sẽ phân

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A



Chuyên đề thực tập

14

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

tích số liệu, ai sẽ báo cao số liệu, ai sẽ sử lí số liệu?
Xác định nguồn thông tin số liệu cho các chỉ số là mối quan tâm đầu tiên trong
quá trình xây dựng hệ thống thông tin cho các chỉ số. Trong quá trình xác định
nguồn số liệu, một loạt các vấn đề cần phải nghiên cứu kĩ. Các nguồn số liệu có thể
được tiếp cận một cách dễ dàng không? Liệu các nguồn số liệu có thể cung cấp số
liệu có chất lượng hay không? Việc thu thập số liệu sơ cấp từ các nguồn thông tin
có khả thi và có chi phí hợp lí hay không?
Các nguồn cung cấp số liệu cho chỉ số có thể là sơ cấp hay thứ cấp. Số liệu sơ
cấp là do các tổ chức có liên quan cung cấp, có thể bao gồm số liệu hành chính,
ngân sách và cá nhân, thông tin điều tra, các cuộc phỏng vấn, các thông tin quan sát
trực tiếp. Số liệu thứ cấp đã được các tổ chức bên ngoài thu thập nhưng lại không
phục vụ cho mục tiêu của các tổ chức trong cuộc. Có nhiều quan điểm ủng hộ hay
phản đối việc sử dụng thông tin thứ cấp để xác lập thông tin về xu hướng kết quả
của các chỉ số. Về mặt tích cực, số liệu thứ cấp có thể có chi phí hợp lí hơn. Số liệu
thứ cấp cũng có thể sử dụng trong các trường hợp mà việc thu thập số liệu sơ cấp
một cách thường xuyên không thực tiến hay không khả thi, như trong trường hợp
phải tổ chức các cuộc điều tra quy mô lớn và đắt tiền. Tuy nhiên, do một loạt các lí
do, thông tin thứ cấp phải được sử dụng một cách thận trọng. Khi thu thập số liệu
thứ cấp cần phải tham khảo mục tiêu và chương trình của tổ chức khác. Một câu hỏi
khác cũng xuất hiện trong quá trình sử dụng số liệu thứ cấp là liệu các số liệu này
có hợp lệ, đáng tin cậy không?
Bước 4: Xác định thời gian đạt chỉ tiêu, chỉ số.
Sau khi thu thập số liệu về tình trạng ban đầu của chỉ số, bước tiếp theo là xác

lập các chỉ tiêu phản ánh kết quả, những thú có thể đạt được trong khoảng thời gian
nhất định nhằm từng bước đạt tới kết quả. Việc xác định mức độ mong muốn và
mức độ kỳ vọng của dự án, chương trình đòi hỏi phải lựa chọn các chỉ tiêu kết quả
hoạt động cụ thể. Xác định mục tiêu là bước cuối cùng trong quá trình xây dựng
khung kết quả hoạt động. Chỉ tiêu được xây dựng dựa trên các kết quả, thông tin chỉ
số và trình trạng ban đầu.
Khái niệm về chỉ tiêu.
Chỉ tiêu là một mục tiêu cụ thể được biểu hiện bằng con số, thời điểm và địa
điểm mà các con số đó được thực hiện. Về bản chất chỉ tiêu là các mức lượng hóa
được của các chỉ số mà tổ chức muốn đạt tới trong 1 khoảng thời gian nhất định
Một phương pháp để thiết lập các chỉ tiêu là khởi đầu với các mức chỉ số tình
trạng ban đầu và đưa vào các mức cái thiện mong muốn để đạt tới các chỉ tiêu về

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

15

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

kết quả. Trong quá trình làm như vậy chúng ta sẽ biến điểm bắt đầu và các nguồn
lực sẵn có để thực hiện các chỉ tiêu trong khoảng thời gian cụ thể. Điều này cho ta
biết chỉ tiêu về kết quả hoạt động.
Các yếu tố cần tính đến khi lựa chọn các chỉ tiêu cho chỉ số kết quả hoạt
động.
Khi chọn các chỉ tiêu giành cho chỉ số hoạt động, chúng ta cần phải quan tâm

tới một loạt các yếu tố. Một trong các yếu tố là tầm quan trọng của việc coi trọng
tình trạng dữ liệu ban đầu. Chúng ta phải hiểu một cách rõ ràng về xuất phát điểm ở
tình trạng ban đầu. cụ thể khi dự đoán chỉ tiêu mới về kết quả hoạt động, chúng ta
phải tính đến thành tích trước đây. Chúng ta có thể quan sát mức độ thành tích của
một tổ chức trong vài năm trước đây, trước khi dự đoán các chỉ tiêu kết quả hoạt
động trong tương lai.
Một yếu tố nữa cần tình đến trong quá trình xác định chỉ tiêu là mức độ kỳ
vọng về nguồn tài chính và các nguồn lức khác (năng lực, ngân sách, đội ngũ cán
bộ, nguồn tài chính, trang thiết bị khác….) có sẵn trong cả quá trình thực hiện.
Chúng có thể bao gồm các nguồn tài chính nội bộ hay các nguồn tài chính bên
ngoài từ các nhà tài trợ song phương và đa phương. Các chỉ tiêu phải có tính khả
thi trong điều kiện hiện tại của nguồn lực và năng lực tổ chức hoạt động đầu vào và
đầu ra.
Xác định thời gian đạt chỉ tiêu
Phần lớn các chỉ tiêu được xác định hàng năm, tuy nhiên một số chỉ tiêu có thể
được xác định hàng quý. Đồng thời việc xác định chỉ tiêu trong khoảng thời gian
dài hơn 3-4 năm là không nên. Bởi có quá nhiều những yếu tố không biết và rủi ro
về nguồn nhân lực hay đầu vào mà không thể dự đoán được sẽ ảnh hưởng tới việc
đạt được mục tiêu. Vì vậy mà cần thực tế khi xác định chỉ tiêu.
Ngoài ra việc xác định thời gian cụ thể cho chỉ tiêu còn phục vụ cho công tác
đánh giá việc thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Bước 5: Thu thập và xử lí thông tin phục vụ đánh giá việc đạt được các
chỉ tiêu
Nguồn thông tin trước hết cần khai thác triệt để từ những tài liệu sẵn có (báo
cáo sơ kết, báo cáo tổng kết, công trình nghiên cứu khoa học, hồ sơ, sổ sách ghi
chép hành chính…) của tổ chức đơn vị, nơi trực tiếp thực hiện các chỉ tiêu được
giao. Nếu khai thác các nguồn thông tin có sẵn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của
đánh giá thực hiện thì mới tiến hành thu thập thông tin bổ sung. Trong quá trình
khai thác, thu thập thông tin, cần quan tâm đến những yếu tố về thời gian, chất


SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

16

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

lượng, phạm vi và chi phí để đạt được kết quả.
Dữ liệu về việc hoàn thành chỉ tiêu được khai thác và thu thập từ các đơn vị
thực hiện được tập hợp, phân tích bởi cá nhân, đơn vị thực hiện đánh giá và được
gửi lên tuyến trên để xem xét, ra quyết định. Bằng cách này, dữ liệu sẽ được chuyển
thành thông tin và kiến thức làm cơ sở cho các quyết định. Dữ liệu này chỉ là các
nguyên liệu thô và bản thân nó không có ý nghĩa. Nó chỉ trở nên có ý nghĩa nếu nó
được tổng hợp và phân tích để có thể trở thành thông tin. Kiến thức xuất hiện khi
thông tin được liên hệ ngược trở lại các hoạt động nhằm đưa ra những giải thích và
rút ra các bài học giúp cấp quản lý ra quyết định. Điều quan trọng là không những
cần phải lập kế hoạch thu thập dữ liệu như thế nào mà còn phải lập kế hoạch để dữ
liệu được chuyển thành thông tin như thế nào.
Các dữ liệu về việc thực hiện chỉ tiêu sau khi được thu thập cần sắp xếp theo
một số trình tự nhất định để dễ quản lý và phân tích. Để làm được điều đó, cần phải
chuyển dữ liệu sang một dạng có tính hệ thống, nhập thông tin thu thập được và sắp
xếp theo một mẫu chung, chẳng hạn như sắp xếp vào trong một cơ sở dữ liệu máy
tính. Thực hiện tổng hợp, phân tích và thuyết minh các chỉ tiêu phục vụ đánh giá.
Cho đến nay chưa có một phương pháp tiếp cận mang tính chất tiêu chuẩn để phân
tích và thuyết minh số liệu đánh giá. Tuy nhiên sự chính xác và tương thích của
thông tin và sự thuận tiện để đưa ra những đánh giá tổng thể là những yếu tố có tính

chất quan trọng để phân tích và đánh giá dữ liệu thu thập được. Khi phân tích và
đánh giá số liệu cần quan tâm đến địa điểm thu thập thông tin và các mối quan hệ
đa chiều về thời gian, chất lượng, phạm vi, quy mô để có được những nhận định có
giá trị trong quá trình đánh giá thực hiện mục tiêu. Việc thu thập dữ liệu và quan sát
các xu hướng cụ thể, giải thích các phát hiện được thực hiện thông qua các cuộc họp
xem xét và tư vấn với cấp tương ứng. Phân tích các thông tin thu thập được luôn
đóng vai trò quan trọng, cần có sự bàn bạc, cân nhắc xem các dữ liệu thu được có
phản ánh đầy đủ mục tiêu của chương trình hay không; đặc biệt cần tìm ra những
nguyên nhân làm cho mục tiêu chưa đạt được, từ đó đưa ra những kết luận, bài học
kinh nghiệm và khuyến nghị để giúp các cấp quản lý có thể điều chỉnh kế hoạch,
hoặc điều chỉnh mục tiêu. Các thông tin thu được từ phân tích các kết quả có thể
được trình bày dưới dạng biểu bảng, đồ thị và dạng văn bản được sắp xếp theo các
câu hỏi và các chỉ số cụ thể chuẩn bị cho việc diễn giải và báo cáo.
Bước 6: Đánh giá việc thực hiện mục tiêu.
Sau khi xây dựng được khung đánh giá và thu thập được các thông tin phục vụ
cho đánh giá thì việc tiếp theo là sử dụng các công cụ để phân tích và đánh giá.
SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

17

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

Việc đánh giá thực hiện mục tiêu cụ thể giúp làm rõ những nội dung sau:
Mô tả: tập trung vào việc miêu tả một cách thận trọng tình huống, quá trình hoặc
sự kiện. Thường được sử dụng như là cơ sở cho cách tiếp cận nghiên cứu tình huống.

Mức độ đáp ứng: xác định xem một chương trình dự án có đáp ứng được các
tiêu chí đã đề ra hay chưa.
Sự tương quan:nói lên mối liên quan giữa hai tình huống điều kiện nhưng
không xác định mối quan hệ nhân quả
Tác động hay là nguyên nhân và kết quả: thiết lập mối quan hệ nhân quả
giữa hai tình huống hay điều kiện.
Tính logic của chương trình: đánh giá xem liệu thiết kế có đem lại thứ tự
nhân quả đúng hay không.
Mức độ thực hiện: đánh giá xem việc thực thi có diễn ra như đúng kế hoạch
hay không
Thành tích: thiết lập mói quan hệ giữa đầu vào, hoạt động, đầu ra, kết quả và
tác động
Sử dụng các công cụ chính sách một cách hợp lí: xác định xem liệu các
công cụ hợp lí có được lựa chọn để đạt tới các mục tiêu định trước hay không.
Bước 7: Rút kinh nghiệm.
Rút kinh nghiệm là bước cuối cùng và cũng là một bước quan trọng trong quá
trình đánh giá, bởi việc rút kinh nghiệm giúp người thực hiện công tác đánh giá biết
được những thiếu xót lỗ hổng trong công tác đánh giá, từ đó phân tích xác định các
bài học kinh nghiệm để tránh trong các lần đánh giá sau.
1.3. Các yếu tố tác động tới công tác đánh giá.
Có nhiều yêu tố tác động ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động đánh giá. Trong
đó phải kể tới ba nhóm yếu tố chính: xuất phát từ người hoặc bộ phận trực tiếp đánh
giá; lựa chọn phương pháp đánh giá; chất lượng nguồn thông tin dùng để đánh giá.
Người, bộ phận tham gia đánh giá.
Đánh giá là một công việc đặc thù, đòi hỏi nhiều kĩ năng, kiến thức, kinh
nghiệm cũng như các điều kiện về nguồn lực. Vì vậy, không phải bất cứ cá nhân tổ
chức nào cũng có năng lực đánh giá.Chất lượng của công tác đánh giá phụ thuôc
trực tiếp vào nguồn lực tham gia đánh giá, cụ thể là năng lực của người, tổ chức
tham gia đánh giá. Khả năng chuyên môn của người thực hiên công tác đánh giá
càng cao, càng có kinh nghiệm thì kết quả đánh giá sẽ càng có tính hiệu quả thiết

thực. Một vấn đề khác từ người thực hiện đánh giá, nếu bằng cách nào đó mà
những người đánh giá được hưởng lợi hoặc bị thiệt hại từ kết quả đánh giá, thì cách
thức đánh giá, đích hướng kết quả đánh giá cũng bị tác động bởi chủ quan ý muốn
của người đánh giá. Vì vậy mà kết quả đánh giá bị giảm tính chính xác.

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

18

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

Lựa chọn phương pháp đánh giá.
Việc lựa chọn phương pháp đánh giá, công tác xây dựng khung đánh giá cũng
ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng công tác đánh giá. Với mỗi một nội dung cần
đánh giá cần nghiên cứu để chọn lựa một phương pháp phù hợp để đạt được chất
lượng kết quả đánh giá là chính xác, khách quan và mang lại hiệu quả.
Chất lượng thông tin dùng để đánh giá.
Thông tin là nguồn nguyên liệu chính phục vụ cho công tác đánh giá. Thông
tin được thu thập một cách không chính xác, không đầy đủ hay không khách quan
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng công tác đánh giá. Vậy làm thế nào để kiểm
duyệt thông tin trước khi quyết định sử dụng nó vào công tác đánh giá. Có sáu tính
chất sau dùng để kiểm định thông tin. Việc đánh giá tổng hợp sáu tiêu chí sau
không đảm bảo thông tin là hoàn hảo hay không có lỗi nhưng nó là một cơ sở cho
các nhà quản lí đưa ra quyết định có sử dụng thông tin hay không.
-Tính trung lập khách quan: thông tin phải độc lập, không bị bóp méo. Thông

tin phải được trình bày với các mô tả về điểm mạnh điểm yếu. Tất cả các thông tin
liên quan đều phải được trình bày.
-Tính hữu dụng: thông tin phải phù hợp, kịp thời và được trình bày một cách
dễ hiểu.
-Tính chính xác về kĩ thuật: thông tin phải đáp ứng được các yêu vầu về kĩ
thuật liên quan .
-Sự tham gia của các bên liên quan: quá trình đánh giá đòi hỏi sự tham gia,
tham vấn của các bên liên quan. Vì vậy mà thông tin cũng cần được cung cấp từ tất
cả các bên liên quan cũng như được tham vấn về thông tin.
-Phản hồi và phổ biến: thông tin cần được chia sẻ một cách phù hợp, có trọng
tâm và kịp thời.
-Đáng giá đồng tiền bỏ ra: chỉ đầu tư để thu thập các thông tin cần thiết, không
thu thập dàn trải những thông tin không cần thiết để giảm chi phí.

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

19

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU
TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN THƯƠNG TÍN
GIAI ĐOẠN 2011-2020
2.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín.

2.1.1 Thông tin tổng quan về ngân hàng.
2.1.1.1. Thông tin chung.
Tên tiếng Việt: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín.
Tên tiếng Anh: Saigon Thuong Tin Commercial Joint Stock Bank.
Tên giao dịch: Sacombank
Giấy phép thành lập và hoạt động số 006/NH-GP do Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cấp ngày 05/12/1991.
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ phần:
Mã số doanh nghiệp: 0301103908
Đăng ký lần đầu ngày 03/01/1992 số 059002 tại phòng Đăng ký kinh doanh
Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. HCM.
Đăng ký thay đổi lần thứ 36 ngày 07/11/2014.
Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 238311 theo Quyết định số 665/QĐSHTT cấp ngày 07/01/2015.
Ngày thành lập: 21/12/1991
Vốn điều lệ: 12.425.115.900.000 đồng (tại thời điểm 06/01/2015)
Thời điểm niêm yết: 02/06/2006
SWIFT code: SGTTVNVX
Trụ sở chính: 266 - 268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.8, Quận 3, TP. HCM
Điện thoại: + 848 39 320 420
Fax: + 848 39 320 424
Email:
Website: www.sacombank.com.vn.

2.1.1.2. Ngành nghề sản xuất kinh doanh.
Cung cấp các dịch vụ về tài chính ngân hàng như:
Dịch vụ huy động vốn
Dịch vụ cho vay
Dịch vụ thanh toán quốc tế
Dịch vụ tài trợ xuất nhập khẩu
Dịch vụ tài khoản

Dịch vụ thẻ
SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


Chuyên đề thực tập

20

GVHD: TS. Đặng Thị Lệ Xuân

Dịch vụ ngân hàng điện tử
Dịch vụ chuyển tiền nhanh trong nước, nước ngoài.
Dịch vụ chi trả kiều hối.
Dịch vụ mua bán ngoại tệ.
Dịch vụ cho thuê ngăn tủ sắt.
Dịch vụ bao thanh toán
Các giải pháp bảo hiểm và đầu tư.
Các dịch vụ ngân hàng khác trong khuôn khổ được phép hoạt động của ngân hàng.
2.1.2. Quá trình phát triển.
2.1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Năm 1991: là một trong những ngân hàng TMCP đầu tiên được thành lập tại TP.
HCM. Tại thời điểm khai trương, Sacombank có 100 nhân sự và vốn điều lệ 3 tỷ đồng.
Năm 1993: mở chi nhánh đầu tiên tại hà nội, tiên phong thực hiện dịch vụ
chuyển tiền nhanh giữa Hà Nội và TP. HCM, góp phần giảm dần tình trạng sử dụng
tiền mặt giữa hai trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước.
Năm 1996: ngân hàng đầu tiên phát hành cổ phiếu đại chúng với mệnh giá
200.000 đồng/cổ phiếu để huy động vốn.
Năm 1997: tiên phong thành lập tổ tín dụng ngoài địa bàn (nơi chưa có Chi

nhánh Sacombank trú đóng): Tổ tín dụng Lai Uyên, tỉnh Sông Bé (tỉnh Bình Dương
hiện nay) để đưa vốn về nông thôn, góp phần cải thiện đời sống của các hộ nông
dân và hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trong nền kinh tế.
Năm 2001: là ngân hàng đầu tiên tiếp nhận vốn góp từ cổ đông nước ngoài.
Mở đầu là Tập đoàn Tài chính Dragon Financial Holding (Anh Quốc) tham gia góp
10% vốn điều lệ. Việc góp vốn này đã mở đường cho sự góp vốn của Công ty Tài
chính Quốc tế (IFC) và Ngân hàng ANZ, nâng số vốn cổ phần của các cổ đông
nước ngoài tại Sacombank lên 30% vốn điều lệ vào năm 2003.
Năm 2002: mở đầu chiến lược đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ tài chính trọn gói
bằng việc đưa vào hoạt động Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản (SacombankSBA). Tiếp sau đó, lần lượt các công ty con trong lĩnh vực kiều hối (Sacombank-SBR),
cho thuê tài chính (Sacombank-SBL), vàng bạc đá quý (Sacombank SBJ) được ra đời
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các khách hàng.
Năm 2005: Khai trương mô hình ngân hàng dành cho phụ nữ: Chi nhánh 8 Tháng
3 TP. HCM. Đây là mô hình đặc thù dành riêng cho phụ nữ đầu tiên tại Việt Nam được
Sacombank triển khai với sứ mệnh “Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam hiện đại”.
Năm 2006: là ngân hàng TMCP việt nam đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán với tổng số vốn tại thời điểm niêm yết là 1.900 tỷ đồng. Sự

SV: Trần Văn Minh

Lớp: Kinh tế phát triển 54A


×