Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Kích thích vật chất và kích thích tinh thần cho người tham gia lao động tập thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.71 KB, 37 trang )

Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Mục lục

LỜI NÓI ĐẦU
Thực tế hiện nay cho thấy, vấn đề con người và quản lý con người là một vấn
đề không những Đảng và Nhà nước ta quan tâm mà còn là một vấn đề các tổ chức
kinh tế, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh cũng
phải đặc biệt quan tâm và chú trọng. Vì con người không những tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, mà còn là người tiêu dùng, người sử dụng những của cải vật chất
do chính bàn tay mình làm ra. Đối với các doanh nghiệp, thì con người là một chi
phí đầu vào rất quan trọng có chiến lược phát triển cho doanh nghiệp. Do đó cần
phải khai thách hết tiềm năng, tiềm tàng của người lao động để giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và
tăng lợi nhuận doanh thu cho doanh nghiệp. Như vậy, để doanh nghiệp mình tồn
tại và phát triển cùng với nền kinh tế thị trường như hiện nay, đòi hỏi nhà quản lý
phải biết khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực của doanh nghiệp mình.
Muốn khai thác và sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và có hiệu quả thì cần thỏa mãn
các nhu cầu về lợi ích về vật chất, lợi ích tinh thần cho người lao động. Hay nói
cách khác, cần phải có biện pháp tạo động lực cho người lao động trong lao động.
Nhằm kích thích về mặt vật chất, tinh thần cho người lao động có thể phát huy
được hết nội lực của bản thân mình trong lao động và đem lại lợi nhuận cao nhất
cho doanh nghiệp.Do đó, nhận thức được tầm quan trọng của công tác tạo động lực
trong lao động, được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Phan Thanh Thảo, với
những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học chúng em mạnh dạn chọn
chuyên là: “Kích thích vật chất và kích thích tinh thần cho người tham gia lao
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 1



Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

động tập thể ”. Báo cáo này nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề
tạo động lực trong lao động.Vấn đề tạo động lực trong lao động là một vấn đề phức
tạp, do thời gian tìm hiểu chưa được nhiều, tài liệu thu thập được còn ít, kiến thức
và kinh nghiệm thực tiễn của bản thân còn hạn chế. Cho nên những phân tích, đánh
giá trong báo cáo này không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong được
sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của cô giáo và các bạn.
Chúng emm xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc!

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 2


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

1. Tổng quan về kích thích vật chất và tinh thần cho người tham gia
lao động tập thể
1.1 Nhu cầu

1.1.1. Khái niệm nhu cầu
Nhu cầu là những gì cần thiết cho sự tồn tại, duy trì và phát triển của một
con người.
Để tồn tại và phát triển con người cần có thức ăn, thức uống, quần áo, nhà
ở, quan hệ xã hội, quan hệ khác giới… Những thứ cần thiết đó là nhu cầu sinh sống
khách quan của con người. Con người luôn ước muốn và tìm cách hoạt động thỏa
mãn các nhu cầu sinh sống và phát triển. Con người luôn tìm kiếm khả năng thỏa
mãn nhu cầu, định hướng thỏa mãn từng loại nhu cầu cụ thể.
1.1.2. Động lực của sự thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần đối với người lao

động
Ở bất kỳ xã hội nào, việc xác nhận nhu cầu và thỏa mãn nhu cầu của con
người nói chung và người lao động nói riêng đều là động cơ thúc đẩy mọi hoạt
động và điều chỉnh mọi hành vi của từng cá nhân và tập thể trong xã hội đố bởi
nhu cầu là sự đòi hỏi của các cá nhân và tập thể khác nhau muốn có những điều
kiện nhất định để sống, để tồn tại và phát triển, nhu cầu qui định xu hướng lựa
chọn các ý nghĩa sự rung cảm và ý chí của người lao động, nó qui định hoạt động
xã hội của cá nhân, của giai cấp và của tập thể.

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 3


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Nhu cầu cuộc sống của người lao động rất phong phú và đa dạng. Nó có tính
lịch sử và tính giai cấp rõ rệt. Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu đều gắn liền với sự
phát triển của nền sản xuấ xã hội và sự phân phối các giá trị vật chất và tinh thần
trong điều kiện xã hội đó.
Nhu cầu về vật chất là nhu cầu hang đầu, đảm bảo cho người lao động có thể
sống để tạo ra của cải vật chất và làm nên lịch sử. Trong “Hệ tư tưởng Đức” Mác
và Angghen đã viết: “Người ta phải sống được rồi mới làm nên lịch sử.” Nhưng
muốn sống thì trước hết phải có thức ăn và nước uống, nhà cửa, quần áo và một số
thứ khác nữa. Như vậy, mọi người đều cần được thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu
đó để tồn tại.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, các nhu cầu vật chất của con người ngày
càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Trình độ phát triển của xã hội ngày
càng cao thì nhu cầu càng nhiều hơn, càng phức tạp hơn, thậm chí những nhu cầu
đơn giản nhất cũng không ngừng thay đổi. Những nhu cầu vật chất của con người

ngày nay đã khác hẳn so với thời xưa và đã chuyển từ yêu cầu về lượng sang yêu
cầu về chất.
Nhu cầu về tinh thần của người lao động cũng rất phong phú và đa dạng.
Trước hết, họ có nhu cầu lao động, nhu cầu làm việc có ích, có hiệu quả cho bản
than và cho xã hội. Bởi vì lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, là
nguồn gốc của mọi sang tạo của cong người. Bằng lao động không những mọi
người đảm bảo được cuộc sống của mình, mà còn phát triển mọi khả năng của bàn
tay và trí tuệ, phát hiện ra ý nghĩa cuộc sống của mình với tư thế là người làm chủ
thiên nhiên và lịch sử.

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 4


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Thứ hai là nhu cầu học tập để nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức.
Trong quá trình lao động khai thác và khắc phúc thiên nhiên, con người gặp không
ít khó khăn. Ở mỗi vị trí của mình họ đều mong muốn có trình độ nhất định để
vượt qua khó khăn, lao động có hiệu quả và tiến tới chế ngự thiên nhiên. Trình độ
khoa học kỹ thuật càng cao thì nhu cầu học tập của người lao động càng lớn, và
nhờ đóhọ nhận thức thế giới xung quanh đúng đắn hơn, thích thú hay chán nản, say
sưa hay phẫn nộ, vui mừng hay bực dọc… Người lao động cũng thấy rõ ý nghĩa
cuộc sống của mình, lao động của mình thì họ càng tích cực trong mọi hoạt động
xã hội càng hăng say lao động để có năng suất và hiệu quả cao hơn.
Mọi biện pháp nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập nâng cao nhận thức cho
người lao động, thực chất là khuyến khích họ, là chắp cánh cho họ vươn tới những
kiến thức chuyên môn cao hơn, những khả năng sáng tạo mới hiệu quả hơn.
Thứ ba là nhu cầu thẩm mỹ và giao tiếp xã hội. Đây là những nhu cầu tinh

thần đặc biệt và tất yếu của con người. Trong quá trình sống và lao động con người
cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên và xã hội. Sự yêu thích cái đẹp trở thành một nhu
cầu của cuộc sống, đó là cái đẹp trong tính cách con người, trong tập thể lao động,
là cái đẹp của màu sắc âm thanh, là cái đẹp trong lối sống và quan hệ xã hội…
Tình cảm của người lao động hướng về cái đẹp, từ cái đẹp vật chất đến cái đẹp
trong tâm hồn, đẹp trong cách sống, sẽ làm cho cuộc sống của họ càng tăng thêm ý
nghĩa, kích thích hứng thú lao động, sáng tạo của họ. Chủ nghĩa xá hội không chỉ
tôn trọng đầy đủ quyền sống của con người mà còn tạo điều kiện cho họ phát triển
toàn diện, cân đối, những con người vừa tích cực vừa đẹp.
Sự giao tiếp xã hội giúp cho người lao động trong tập thể có được những
thông tin về cuộc sống và lao động. Qua giao tiếp họ trao đổi với nhau những kinh
nghiệm và kiến thức trong lao động, trong cuộc sống tình cảm tốt đẹp của tập
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 5


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

thể… Mỗi người đều muốn được tập thể đánh giá mình một cách xứng đáng, bản
than mình muốn có một vị trí xã hội vinh dự và đáng tự hào trước bạn bè, muốn có
tên mình trong cái thang giá trị hiện thời của tập thể và xã hội.
Thứ tư là nhu cầu công bằng xã hội, trong lao động cũng như trong cuộc
sống ngày nay mọi người đều muốn sự công bằng. Đó là biểu hiện của sự phát
triển cao độ của ý thức và tình cảm con người trong quan hệ xã hội, trong lao động
tập thể. Mỗi người ý thức về mình và ý thức về người khác, họ quan tâm người
khác như chính mình đối với bản thân mình.
Công bằng xã hội là nhu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài, mỗi người và mỗi tập
thể cần phấn đấu được thỏa mãn, đồng thời đấu tranh mọi tiêu cực để giành lấy
công bằng cao hơn đầy đủ hơn. Dưới chủ nghĩa xã hội, nhà nước đã từng bước

thực hiện công bằng xã hội bằng những chính sách cụ thể của mình trên nguyên tắc
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Xuất phát từ nhu cầu và thực tiễn đó, nghị quyết đại hội 6 của Đảng ta đã chỉ
rõ: “Bảo đảm cho người lao động có nhu cầu thỏa đáng, phụ thuộc trực tiếp vào kết
quả lao động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động, Tôn trọng lợi ích
chính đáng của những hoạt động kinh doanh dịch vụ hợp pháp, có ích cho xã hội.
Kết hợp sức mạnh của cơ quan chức năng và sự đấu tranh của quần chúng, nghiêm
trị những kẻ phạm pháp bất kỳ ở cương vị nào. Đảm bảo sự công bằng về quyền
lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống lại đặc quyền đặc lợi.”
Tóm lại, nhu cầu của con người nói chung và của người lao động nói riêng
là vô tận, nó không có giới hạn, không bao giờ hoàn toàn được thỏa mãn. Song sự
thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần, dù là ít, cũng sẽ là động cơ thúc đẩy con
người tích cực lao động, hăng say sáng tạo. Chìa khóa để tìm ra động cơ bên trong
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 6


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

thúc đẩy co người lao động tích cực là nghiên cứu các nhu cầu của họ, và tìm ra
biện pháp để thỏa mãn những nhu cầu đó. Thực tế đã chỉ ra rằng, nếu chỉ nói ý chí
chung chung thì đến một lúc nào đó sẽ triệt tiêu động lực lao động của con người.
Bởi vậy, vấn đề đặt ra đối với người lãnh đạo một tập thể lao động, giám đốc một
xí nghiệp, đối với một nhà quản lý hay một nhà tổ chức lao động là sự quan tâm
đến các nhu cầu vật chất và tinh thần của quần chúng. Cần xem đó là những điều
kiện cần thiết để quần chúng yên tâm, phấn khởi và tin tưởng, hứng thú và hăng
say trong lao động và sáng tạo.
1.2. Quyền lợi


1.2.1 Khái niệm
Quyền lợi là viết tắt của quyền được hưởng lợi ích nào đó. Quyền lợi của
người tham gia lao động tập thể là quyền được chia – hưởng lợi ích và tinh thần
của thành quả chung. Thành quả của lao động chung thường có giá trị kinh tế và ý
nghĩa xã hội. Người không tham gia tạo ra thành quả nào đó không có quyền chia
hưởng. Người tham gia ít có quyền ít, người tham gia nhiều có quyền nhiều. Mức
chia hưởng lợi của người tham gia phụ thuộc vào độ lớn của thành quả chung và
vào tỷ lệ tham gia của người đó trong tập thể.
Quyền lợi của người tham gia lao động chung nào đó, cũng có thể hiểu là
phần thuộc quyền sở hữu chung của người đó trong thành quả chung được tạo ra.
Đấy không phải là phần được “ban phát” và cũng không phải là phần phải “cầu
xin”. Điều quan trọng và khó khăn nhất là làm sao xác định được tỷ lệ tham gia
đóng góp của mỗi cá nhân trong tập thể.
Như vậy, quyền được chia hưởng giá trị kinh tế và sự vẻ vang của thành quả
chung một cách công bằng so với giá trị của khả năng lao động tiêu hao và so với
người khác trong tập thể là quyền lợi của người tham gia lao động chung nào đó.
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 7


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

1.2.2. Đảm bảo quyền lợi cho người tham gia lao động
Đảm bảo quyền lợi cho từng người, đảm bảo hài hòa quyền lợi cho tất cả
những người đó tham gia đóng góp tạo ra thành quả nào đó, bao giờ cũng đem lại
cho từng thành viên, cho sự nghiệp chung một xung lực to lớn.
Trong một cộng đồng để cho người này “hời” tức là người khác bị “thiệt thòi”
và như vậy tức là để xảy ra trường hợp chiếm dụng, tước đoạt của nhau.
Trong tập thể chia hưởng thành quả chung không theo tỷ lệ tham gia đóng

góp, tức là đảm bảo quyền lợi không hài hòa, thiếu công bằng, bao giờ cũng xảy ra
các phản ứng tiêu cực như: “cầm chừng”, lẩn tránh tham gia, trì hoãn, Ph. Ăng –
ghen đã viết: “Không đảm bảo sự hài hòa về lợi ích, đừng mong có sự thống nhất
về mục đích, chưa nói có sự thống nhất trong hành động” (Các Mác và Ph. Ăng –
ghen – Tiếng Nga tập 8 trang 14).
Đảm bảo quyền lợi cho từng người, đảm bảo hài hòa quyền lợi cho tất cả
những ai đó tham gia đóng góp tạo nên thành quả nào đó luôn mang lại cho từng
thành viên, cho sự nghiệp chung một nguồn động viên to lớn.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay : việc làm, thu nhập của người lao động ở
nước ta ngày càng được quan tâm. Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh tiền lương,
thưởng, trợ cấp đối với người lao động. Người lao động còn được quan tâm hơn về
đời sống tinh thần và các hoạt động văn hóa, thể thao.
Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ đối với người lao động ở các thành phần kinh tế,
nhất là thành phần kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập. Tình trạng xâm phạm quyền
lợi của người lao động diễn ra ở nhiều địa phương. Không ít chủ sử dụng lao động
cố tình trốn tránh khoản tiền đóng bảo hiểm xã hội, quỵt tiền lương, bớt xén tiền
làm thêm giờ, chế độ phép của người lao động. Nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 8


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

nợ đọng số tiền bảo hiểm xã hội của người lao động lên tới hàng tỷ đồng và kéo
dài nhiều năm. Các chủ doanh nghiệp tư nhân còn thường xuyên đưa ra những quy
định khắc nghiệt trong quá trình sử dụng lao động. Không ít sơ suất của người lao
động bị xử phạt rất nặng, chủ yếu đánh vào lương, thưởng. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là việc ký hợp đồng lao động không đúng quy
định của pháp luật, mà thiệt thòi thường thuộc về người lao động. Việc tuyển dụng,

bố trí, sắp xếp, sử dụng, sa thải người lao động cũng rất tùy tiện. Có chủ doanh
nghiệp ra quyết định đuổi việc người lao động mà không cần văn bản, không đưa
ra họp bàn, xem xét. Biện pháp bảo đảm an toàn đối với người lao động cũng chưa
được coi trọng. Chủ doanh nghiệp không trang bị hoặc trang bị sơ sài các phương
tiện bảo hộ lao động. Khi xảy ra tai nạn, người lao động lại tự chịu hậu quả. Ngoài
ra, còn xuất hiện những biểu hiện ngược đãi, đối xử tệ bạc với người lao động
Các vi phạm nêu trên diễn ra ở nhiều địa phương thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Ðáng tiếc là, có những vụ việc nghiêm trọng, nhưng chưa được cơ quan có
thẩmquyền kiểm tra, xử lý kịp thời. Vai trò của tổ chức công đoàn trong các doanh
nghiệp tư nhân thường mờ nhạt, chưa phát huy trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của
người lao động. Bên cạnh đó, lực lượng thanh tra lao động mỏng và hoạt động yếu.

Như vậy, quyền lợi kinh tế và tinh thần cho người tham gia lao động tập thể
phải được đặc biệt quan tâm giải quyết. Đảm bảo quyền lợi một cách hài hòa có tác
dụng vô cùng to lớn đối với người lao động, đối với công việc (sự nghiệp) chung.
Cần đầu tư tiền của và trí tuệ đủ lớn mới giải quyết được hài hòa quyền lợi. Trước
hết phải đầu tư nghiên cứu nhằm xác định mức độ, tỷ lệ tham gia đóng góp của các
thành viên trong tập thể. Sau đó là phải nghiên cứu đề ra được phương pháp, các

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 9


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

hình thức đảm bảo quyền lợi có tác dụng kích thích người tham gia lao động chung
cao nhất.

1.3. Kích thích


1.3.1. Bản chất của kích thích
Kích thích, về thực chất là đem lại cho người tham gia lao động tập thể những
gì người đó có quyền về giá trị và thích nhất về hình thức.
Trong lý luận và thực tiễn, vấn đề kích thích người tham gia lao động tập thể
đang được tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Ở đây là vấn đề tác động, vấn đề “kích ”
vào những gì người tham gia lao động tập thể “thích” nhất,để họ tích cực, sáng
tạo, đóng góp đươc nhiều nhất cho công nghiệ (sự nghiệp) chung.
Người tham gia lao động tập thể “thích” nhất khi được:
1 – Tin tưởng, tôn trọng khả năng, giao nhiệm vụ quan trọng tương ứng.
2 – Đảm bảo tốt các điều kiện làm việc.
3 – Tự chủ tương đối về cách thức lao động.
4 – Đảm bảo an toàn cho sức khỏe, cho sinh mạng.
5 – Đánh giá thành tích và đãi ngộ một cách rõ ràng, công bằng, chính
thức.
6 – Đối xử bình đẳng, lịch sự,tế nhị.
7 – Phát triển trình độ.
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 10


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

1.3.2 Các vấn đề về kích thích
Sự kích thích bằng cách sử dụng các phương pháp và hình thức khuyến
khích người lao động bằng lợi ích vật chất để động viên họ tích cực lao động có
năng suất và chất lượng cao. Trong hệ thống các biện pháp kích thích về kinh tế,
biện pháp kích thích vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó, vấn đề mấu
chốt là sự quan tâm đến lợi ích cá nhân, nhất là trong lĩnh vực hoạt động kinh tế.

Mỗi chế độ xã hội có một phương thức và hệ thống kích thích lao động của nó do
hệ thống quan hệ sản xuất tương ứng quyết định. Sự quan tâm đến lợi ích vật chất
của người lao động đối với kết quả lao động của mình là một trong những nguyên
tắc quản lí nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hình thức chủ yếu để kích thích vật chất là
tiền lương, tiền thưởng, phân phối lợi nhuận, quỹ phúc lợi công cộng,vv. Trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, kích thích vật chất được kết hợp chặt chẽ, hài hòa với kích
thích tinh thần, hai mặt gắn bó và thúc đẩy lẫn nhau; không để xảy ra tình trạng
thúc đẩy tập thể cũng như cá nhân người lao động đơn thuần chạy theo lợi ích vật
chất, theo đồng tiền với bất cứ giá nào, bất chấp đạo đức xã hội; cũng như không
động viên suông tinh thần, không quan tâm thích đáng lợi ích vật chất.
Đối với người lao động trong tập thể đánh giá đúng thành tích tham gia đóng
góp của người đó là một kích tố mạnh mẽ. Đãi ngộ theo mức độ, tỉ lệ tham gia,
đóng góp khả năng lao động là một kích tố to lớn tiếp theo. Kích thích người tham
gia lao động tập thể bằng vật chất là phân chia cho họ phần thành quả chung theo
tỷ lệ tham gia, đóng góp. Về thực chất, là trả công lao động cho họ, người tham
gia lao động được trả công, đó là lẽ tự nhiên, là sát thực.Điều quan trọng và khó
khăn nhất là làm sao để có mức chi trả hợp lý và có cách thức trao trả có tác dụng
kích thích nhất.

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 11


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

2. Kích thích vật chất cho người lao động tham gia lao động tập thể
2.1 Những vấn đề cơ bản về kích thích vật chất

Khái niệm: kích thích người lao động tham gia lao động tập thể bằng vật

chất là phân chia cho họ phần thành quả chung theo tỷ lệ tham gia đóng góp. Về
thực chất là trả công lao động cho họ. đó là lẽ tự nhiên,là sát thực.
Đối với người lao động trong tập thể được đánh giá đúng thành tích tham gia
đóng góp là một kích tố mạnh mẽ. Đãi ngộ theo mức độ tham gia đóng góp khả
năng lao động là một kích tố to lớn tiếp theo.
Hệ thống trả công lao động cho những người tham gia lao động chung nào
đó bao gồm các nội dung: nguồn chi trả, mức độ hơn kém nhau, hình thức chi trả,
thời gian trao trả. Phải nghiên cứu giải quyết đồng bộ các nội dung để người lao
động được kích thích nhất,đồng thời lợi ích chung không bị vi phạm.
Nguồn chi trả công lao động phải là phần có giá trị mới được tập thể tạo ra,
được thị trường,khách hàng chấp nhận.
Không rõ nguồn chi trả hoặc chi trả không đúng nguồn sẽ gây xung đột,vi
phạm ,lợi ích này khi giải quyết lợi ích kia,tức là sẽ tạo ra sức phá hoại cho sự
nghiệp chung.
Phần giá trị mới được tập thể tạo ra và thị trường chấp nhận là doanh thu trừ
đi tổng giá trị nguyên vật liệu, trừ đi khấu hao tài sản cố định, trừ đi chi phí năng
lượng,các khoản nộp phạt và các khoản chi thuộc lao động vật hóa khác.
Phần giá trị mới ở tập thể bao giờ cũng phải giành một phần nào đó để tích
lũy phát triển sản xuất về mặt công cụ, công nghệ mới… Phần còn lại sử dụng để
trả công lao động.
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 12


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Nguồn trả công lao động là phần giá trị người sử dụng sản phẩm chi trả cho
người tạo ra sản phẩm đó. Sản phẩm được tạo ra càng nhiều,càng phù hợp với yêu
cầu chất lượng,thị hiếu của khách hàng,suất chi cho lao động vật hóa càng ít,thì

càng được khách hàng ưng thuận chi trả nhiều, nguồn trả công lao động càng cao.
Mức chi trả lao động phải tương xứng với giá trị khả năng lao động đã được
chuyển vào sản phẩm, đồng thời phụ thuộc vào phần giá trị mới tập thể tạo ra,
được khách hàng chấp nhận.mức chi trả công lao động phù hợp đảm bảo cho các
lợi ích không bị xung đột,đảm bảo tiền đề, điều kiện, cơ sở cho con người tái tạo
sức lao động,tham gia lao động tập thể tiếp sau đó.mức chi trả công cho người lao
động cụ thể không được nhỏ hơn mức lương tối thiểu và không bị chặn trên.trả
công lao động trong tập thể cho những người khác nhau thường khác nhau vì họ
thường thực hiện các công việc khác nhau , có khả năng lao động và đem lại kết
quả khác nhau.Sự khác nhau về chi trả công lao động phải dựa theo sự khác nhau,
sự tương quan giữa cường độ và mức độ phức tạp của lao động, giữa năng suất và
chất lượng sản phẩm.Nếu người nào đó trong lao động có các dấu hiệu tao thêm
giá trị sử dụng được khách hàng chấp nhận, hoặc có dấu hiệu ngăn ngừa tổn
thất,trực tiếp giảm tổn thất, thì người đó phải được trả công hơn người khác.
Người tham gia làm tăng giá trị mới, về thực chất là người đó đã tiêu hao một
lượng khả năng lao động cao cấp đó đã được đóng góp vào sản phẩm. Lượng giá
trị đó, tốt hơn hết, nên được hoàn trả cho người đã tự tạo ra và cống hiến cho công
việc chung, đó là điều người lao động luôn quan tâm, nếu được thực hiên thì họ
được kích thích. Và nếu được thực hiện ổn định như vậy,tất cả người lao động sẽ
chủ động, tự tạo ra khả năng lao động cao cấp, khả năng phát triển, cải tiến, sáng
tạo, khả năng phối hợp ngăn ngừa trục trặc,tổn thất. Họ sẽ hăng hái thực hiện khả

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 13


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

năng lao động cao cấp.Mọi người ai cũng toàn tâm,toàn tài với sự nghiệp chung thì

sự nghiệp chung,xã hội mới phát triển thực sự.
2.2. Các phương pháp kích thích vật chất cho người lao động tham gia lao động
tập thể

2.2.1. Tiền lương
2.2.1.1 Khái niệm
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động mà người lao động đã
bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và được thanh toán theo kết quả lao động
cuối cùng.
Là thu nhập chủ yếu của người lao động và được xác định theo hai cơ sở chủ
yếu là số lượng và chất lượng lao động của mỗi người.
Tiền lương hình thành có tính đến kết quả của cá nhân, của tập thể và của xã
hội, nó quan hệ trực tiếp đến việc thực hiện lợi ích của cá nhân người lao động.
Qua mối quan hệ phụ thuộc này cho phép thấy được vai trò của tiền lương là công
cụ tác động của công tác quản lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh.Tiền lương
là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, vừa là một yếu tố chi phí cấu thành
nên giá trị của các loại sản phẩm lao vụ, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, do
đó các doanh nghiệp sử dụng hiệu quả sức lao động nhằm tiết kiệm chi phí, tăng
tích lũy cho đơn vị, tăng thu nhập cho người lao động.
2.2.1.2 Quy chế tiền lương
Một doanh nghiệp cần phải có quy chế tiền lương tốt.
Việc đầu tư xây dựng quy chế tiền lương tốt trong doanh nghiệp thành một
loại hình văn bản riêng và phổ biến đến mọi nhân viên như một phần của văn hóa
doanh nghiệp là rất nên làm.
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 14


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may


Vấn đề tiền lương có ảnh hưởng tới tất cả các phương diện trong nội dung
quản lý nguồn nhân lực của một doanh nghiệp và là mối quan tâm hàng đầu của
người lao động.
Người lao động mong sự công bằng trong tiền lương không những vì thu nhập
mà còn vì lòng tự trọng. Họ cảm thấy bị xúc phạm khi kết quả làm việc của họ hơn
một số người nào đó (có thể là trong hoặc ngoài doanh nghiệp)mà vẫn phải chịu
một mức lương thấp hơn.
Doanh nghiệp muốn tạo động lực làm việc tốt cho nhân viên thì phải chứng
minh được rằng chỉ có kết quả làm việc tốt mới cạnh tranh được mức lương
Quy chế tiền lương tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.
Một hệ thống tiền lương và tiền công tốt sẽ duy trì đội ngũ hiện tại và đảm bảo
đối xử công bằng với tất cả mọi người, có tác dụng nâng cao năng suất và chất
lượng lao động, giúp doanh nghiệp thu hút và duy trì được những nhân viên giỏi.
vậy các lợi ích mang lại từ quy chế tiền lương tốt là:


Giúp thu hút và giữ lại các nhân viên cần thiết



Không phải trả tiền lương và tiền công quá cao



Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác trả lương hàng ngày



Giúp giải thích cho nhân viên về những chênh lệch tiền lương.


Tạo một cơ sở vững chắc để ước tính quỹ lương.
Ấn định tiền lương phải dựa trên những quy định của pháp luật,thị trường
bên ngoài và những yếu tố bên trong doanh nghiệp:
• Quy định của pháp luật:
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 15


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Tìm hiểu và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về các vấn đề lao
động trước khi xây dựng cơ chế trả lương là việc làm bắt buộc. Doanh nghiệp cần
lưu ý đến các vấn đề như mức lương tối thiểu Nhà nước quy định hợp đồng và
lương thử việc, lương thời vụ, lương trong kỳ thai sản, ốm đau, nghỉ việc...
• Thị trường bên ngoài:
Khảo sát mức lương trên thị trường lao động: Liên tục rà soát lại các mức
lương trong doanh nghiệp của bạn dựa trên các mức lương của đối thủ cạnh tranh
và dựa trên mức lương chuẩn trên thị trường. Điều này sẽ làm cho nhân viên hết
boan khoăn xem mức lượng hiện tại của họ có cạnh tranh không?
Tính đến yếu tố biến động của giá cả sinh hoạt: Khi xác định mức lương cần
xem xét đến yếu tố biến động của giá cả sinh hoạt. Khi nền kinh tế quốc dân vẫn
còn trong giai đoạn chuyển đổi và mức lương chung còn thấp, việc xem xét các
nhu cầu cơ bản của con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
• Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Xác đinh đơn giá và quỹ tiền lương của doanh nghiệp: Xác định doanh nghiệp
cần phải chi bao nhiêu cho tiền lương và tỷ lệ trên doanh thu là bao nhiêu và đó
chính là đơn giá tiền lương trong năm. Đơn giá này sẽ là cơ sở để xác định lương
cơ bản cho các nhóm chức danh, căn cứ để tính lương khoán trên doanh thu hay

đơn vị sản phẩm.
Phản ánh giá trị công việc: Khi xác định mức lương cho một người, phải xem
xét giá trị công việc người đó mang lại cho doanh nghiệp.

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 16


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Thâm niên công tác: Mặc dù giá trị công việc là yêu tố chính trong quy trình
xác định mức lương song vẫn phải xem xét các yếu tố như thâm niên công tác( số
năm phục vụ, kinh nghiệm...) theo các giá trị xã hội phổ biến.
Căn cứ vào kết quả làm việc: Việc tăng lương và chia tiền thưởng phải dựa trên
kết quả làm việc. Cần phải có một hệ thống đánh giá kết quả làm việc hoàn chỉnh
để tạo động lực cho những nhân viên có kết quả làm việc cao.
* Quy trình xây dựng quy chế tiền lương trong doanh nghiệp
Nhận thức được tầm quan trọng của quy chế tiền lương trong doanh nghiệp
và có được những kiến thức cơ bản về vấn đề lương người chủ doanh nghiệp sẽ
xây dựng được một quy chế tiền lương theo quy trình đơn giản sau:
Bước 1: Lấy ý kiến và quan điểm của nhân viên
Mục đích của trưng cầu ý kiến nhân viên là để tránh được những sai
lầm mang tính chủ quan, áp đặt. Ngoài ra còn cho người lao động cảm thấy
được tôn trọng vì họ được tham gia quyết định việc tính lương. Vì vậy các
vấn đề sau cần được trưng bày ý kiến:
(1)Ưu điểm của cơ chế trả lương hiện tại?
(2)Nhược điểm của cơ chế trả lương hiện tại?
(3)Những vấn đề cần khắc phục?
(4)Mong muốn và quan điểm của mỗi người về tính hợp lý, sự công bằng

trong cách tính lương?
Bước 2: Chủ doanh nghiệp soạn thảo quy chế tiền lương

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 17


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Sau khi thực hiện xong bước 1 thì người chủ doanh nghiệp tổng hợp
các ý kiến lại để xem xét. Đồng thời dựa vào các yếu tố để ấn định mức
lương ở trên để soạn thảo quy chế tiền lương cho doanh nghiệp mình.
Bước 3:Ban hành, áp dụng và định kỳ đánh giá, sửa đổi, bổ sung quy
chế
Trước khi ban hành áp dụng quy chế cần họp phổ biến và lấy ý kiến
của nhân viên. Quy chế lương càng rõ ràng, minh bạch thì tinh thần và động
lực của nhân viên càng cao. Mức trả cho mỗi người là bí mật nhưng cách
tính lương phải rõ ràng và dễ hiểu. Sau khi áp dụng, nên nhớ rằng cơ chế
hoặc chính sách trả lương không thể là bất biến mà nó cần được xem xét và
đánh giá, sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh kinh doanh và những yêu cầu
mới.
2.2.2 Thưởng và trợ cấp
2.2.2.1 Thưởng
Tiền thưởng là hình thức kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối với
người lao động trong việc phấn đấu thực hiện tốt công việc vì nó đánh trực tiếp vào
nhu cầu vật chất của người lao động. Do đó Các doanh nghiệp phải đưa ra các chế
độ thưởng rõ ràng, các định mức để được thưởng cụ thể. Có thể chọn lựa một số
hình thức thưởng như:
‐ Thưởng hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất

‐ Thưởng cho nhân viên đem về lợi nhuận cho công ty
‐ Thưởng do nâng cao tỷ lệ sản phẩm đạt chất lượng
‐ Thưởng phát minh sáng kiến

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 18


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

‐ Thưởng tiết kiệm nguyên vật liệu
‐ Thưởng đảm bảo an toàn lao động sản xuất
‐ Thưởng định kỳ đánh giá và nâng lương, nâng bậc
‐ Thưởng thực hành tiết kiệm
Có các chỉ tiêu thưởng khác nhau, được phân chia rõ ràng giúp cho người
lao động cảm thấy mình được quan tâm sâu sắc, điều đó sẽ tạo động lực để họ gắn
bó với doanh nghiệp. Chú ý nếu các chỉ tiêu đặt ra, các điều kiện xét thưởng không
phù hợp cũng làm giảm tác dụng vai trò của nó.
Xác định đúng người, đúng việc cần thưởng.
Nguồn tiền thưởng chỉ nên là tiền lãi, tiền tiết kiệm được
Tiêu chuẩn thưởng phải là những tiêu chuẩn khi đảm bảo các tiêu chuẩn đó có
được lãi tiết kiệm.Cần chỉ tiêu hóa các tiêu chuẩn thưởng để xem xét thưởng được
rõ ràng,có định lượng.
Hình thức thưởng: tiền, quà,chuyến tham quan, du lịch….
Thưởng cần kịp thời, đúng lúc. Đối với công nhân,thưởng cho họ khi họ chủ
động,tích cực, sáng tạo trong lao động: hoàn thành khối lượng công việc cao hơn
so với người khác; đạt chất lượng sản phẩm cao; tiết kiệm nguyên vật liệu, năng
lượng; hoàn thành đếu đặn nhiệm vụ được giao.Thực hiện được như vậy có nghĩa
là công nhân góp phần tạo nên giá trị mới,tạo thêm giá trị sử dụng của sản phẩm,

tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, giảm tổn hao do trục trặc trong sản xuất. Công
nhân thực hiện được những điều có lợi, được đánh giá được chia hưởng phần lợi
tạo ra. Họ được kích thích, được thỏa mãn.
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 19


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Đối với cán bộ,nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý, thưởng cho họ khi họ
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cơ bản;thực hiện các công việc ngoài nhiệm vụ cơ
bản; có sáng kiến; cải tiến; phát minh; sáng chế. Đó là những nét của lao động cao
cấp, lao động sáng tạo thêm giá trị,ngăn ngừa ,loại trừ tổn thất; tạo thêm giá trị sử
dụng của sản phẩm. Kết quả là giảm chi phí sản xuất hoặc tăng giá mua của khách
hàng hoặc cả hai mặt đó.Người nào thực hiện được các nét đó,nếu chắc chắn được
đánh giá công nhận mà được chia hưởng phần lợi mà họ góp phần tạo ra thì họ
được kích thích,sẽ chủ động tích cực,chuẩn bị khả năng lao động và cống hiến khả
năng lao động cao cấp cho sự nghiệp chung.
Quy định các mức tiền thưởng: Nên quy định các mức tiền thưởng ổn định theo
phần trăm của giá trị sinh thêm, giá trị tiết kiệm,phần tổn thất được loại trừ. Phần
trăm thưởng phải đủ lớn mới có tác dụng kích thích. Nhiều nhà kinh tế nghiên cứu
cho rằng: nên thưởng từ 30 đến 70% giá trị được tạo thêm cho sáng kiến,cải tiến,
sáng chế công cụ lao động, phương pháp làm việc; thưởng 5 đến 10% giá trị tổn
thất được loại trừ hoặc được giảm. Điều quan trong và khó khăn là làm sao tính
toán, giám định đúng giá trị sinh thêm, tiết kiệm, tiết kiệm thuần túy và làm sao
xác định chính xác nhưng người tham gia, mức độ tham gia của từng thành viên.
2.2.2.2. Trợ cấp
Các hình thức trợ cấp :
• Trợ cấp cho những cá nhân có hoàn cảnh khó khăn.

• Trợ cấp thai sản.
• Trợ cấp khi ốm đau bệnh tật.
• Trợ cấp không có việc.
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 20


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

• Trợ cấp tai nạn.
• Trợ cấp thiên tai.
Yêu cầu:
• Kịp thời, đúng lúc.
• Đúng người đúng việc

2.2.3. Khuyến khích cá nhân
Thăng cấp
Lợi nhuận
Khen thưởng
Tháng lương 13
2.2.4. Phụ cấp
* Định nghĩa
Phụ cấp là khoản thu nhập ngoài lương cơ bản, nhằm chi trả cho các khoản
phí phát sinh trong quá trình làm việc của người lao động.
*Các hình thức phụ cấp
Phụ cấp tiền điện thoại:
- Đối tượng: Các chức danh thuộc ngạch điều hành, ngạch quản lý và
những CBNV được Tổng Giám đốc phê duyệt.
- Mức phụ cấp:

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 21


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

- Mỗi CBNV chỉ được phụ cấp 1 mức điện thoại theo mức phụ cấp cao
nhất được hưởng.
- Cách trả phụ cấp:
 Đối với các ngạch chức danh hưởng mức phụ cấp theo cước thực tế phát
sinh, sẽ do công ty thanh toán trực tiếp cho cơ quan viễn thông;
 Các đối tượng phụ cấp theo định mức cố định, hàng tháng sau khi hoàn tất
các yêu cầu liên quan đến nghiệp vụ kế toán, sẽ được thanh toán tiền phụ
cấp điện thoại.
Phụ cấp xăng xe
- Đối tượng: Tất cả CBNV có sử dụng xe đi lại phục vụ cho công việc của
công ty.
- Mức phụ cấp: Các công ty thành viên căn cứ vào địa bàn hoạt động, điều
kiện đi lại tự xây dựng mức phụ cấp xăng xe cho CBNV theo 02 tiêu chí
sau:
 Khoảng cách từ nơi làm việc đến nơi công tác;
 Mức độ sử dụng xe máy liên hệ công việc.
- Cách trả phụ cấp: CBNV thuộc đối tượng phụ cấp xăng xe sẽ được thanh
toán hàng tháng sau khi hoàn tất các thủ tục theo quy định cụ thể của
từng công ty thành viên.
Phụ cấp tiền ăn:
- Đối tượng Tùy thuộc vào tình hình và điều kiện hoạt động sản xuất kinh
doanh, các công ty con đề xuất hình thức phụ cấp tiền ăn cho CBNV khối
trực tiếp và gián tiếp trình HĐQT Công ty phê duyệt.

- Hình thức: Các công ty thành viên căn cứ vào địa bàn hoạt động, quy mô
sản xuất kinh doanh có thể tổ chức nấu ăn hoặc phụ cấp bằng tiền cho
CBNV. Phụ cấp tiền ăn bao gồm 03 loại sau:
 Phụ cấp tiền ăn trưa;
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 22


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

 Phụ cấp tiền ăn ca đêm;
 Phụ cấp cả 03 buổi ăn sáng, ăn trưa và ăn tối
- Mức phụ cấp: Do công ty con đề xuất HĐQT Công ty phê duyệt trên cơ
sở:
 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty con;
 Mức doanh thu của công ty con;
 Biến động giá cả trên thị trường.
Phụ cấp khác:
- Căn cứ trên tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty con có
thể đề xuất trình HĐQT Công ty xem xét phê duyệt một số loại phụ cấp
khác cho người lao động.

2.2.5. Bảo hiểm cho người lao động
2.2.4.1. Bảo hiểm xã hội
Là khoản tiền mà người lao động được hưởng trong trường hợp nghỉ việc do
ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, khó khăn…Để được hưởng
khoản trợ cấp này, người sử dụng lao động và người lao động trong quá trình tham
gia sản xuất kinh doanh tại đơn vị phải đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội theo quy
định. Quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ 20% trên tổng số tiền

lương cấp bậc phải trả hằng tháng (15 % tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, 5%
còn lại do người lao động đóng góp ).

2.2.4.2. Bảo hiểm y tế

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 23


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

Là khoản tiền hàng tháng của người lao động và người sử dụng lao động
đóng cho các cơ quan BHXH để được đài thọ khi có nhu cầu khám bệnh và chữa
bệnh. Quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ 3% trên tổng số tiền
lương cấp bậc (trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, 1% còn lại do
người lao động đóng góp ).

3. Kích thích tinh thần cho người tham gia lao động tập thể
3.1. Những kiến thức cơ bản về kích thích tinh thần.

Ngoài nhu vầu về vật chất con người còn nhu cầu về tinh thần. Những biện
pháp thỏa mãn nhu cầu tinh thần của người lao động chính là nhằm khuyến khích
họ hăng say lao động, phát huy sáng kiến, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật , kinh nghiệm tiên tiến nhằm tăng năng suất lao động.
Người nào cũng thích được khen ngợi, thích được nổi danh. Người tham gia
lao động chung, lao động tập thể thích được người chủ, lãnh đạo, người khác biết
về mình nói chung, biết về khả năng, về thành công cảu mình, thích được tin, được
tôn trọng. Thể hiện trước người khác là một loại nhu cầu của con người sống giữa
những con người. Tạo cơ hội cho con người thể hiện trước người khác, biết khen

ngợi nhau một cách xứng đáng, tế nhị, đúng lúc vv...là một việc làm cần thiết, giúp
cho con người sống đẹp hơn, tập thể người lao động tốt hơn.
Thành quả lao động thường có giá trị kinh tế và ý nghĩa xã hội. Người nào tạo
ra thành quả đó cũng thích được chia sẻ không những chỉ giá trị kinh tế, mà còn cả
sự vẻ vang, niềm vinh quang. Người tham gia đóng góp nhiều sức lực, tài năng
phải được người khác biết đến, phải được lãnh đạo, người chủ tập thể, xã hội công

Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 24


Môn : Tổ chức và định mức lao động CN may

nhận. Được tác động về mặt tinh thần sẽ giúp người lao động hào hứng, tích cực,
sáng tạo nhiều hơn.
Có những khi sự công nhận thành tích một cách chính thức, long trọng trước
đông đảo người khác cũng có tác dụng kích thích hơn cả việc trao cho một phần
thưởng bằng tiền, bằng hiện vật một cách thầm lặng, kín đáo.
Ở bản thân kích thích vật chất đã có kích thích tinh thần. Kích thích vật chất
đúng đắn đem lại kích thích tinh thần to lớn. Trong hoạt động kinh tế, ở các trường
hợp bình thường, người nhận nhiều tiền công hơn là người tài giỏi hơn, khả năng,
năng lực cao hơn, người có ích cho tập thể lại cho xã hội nhiều hơn, người có được
tự hào vẻ vang hơn. Trong xã hội để cho người giỏi hơn, có cống hiến thực sự
nhiều hơn cho sự tiến bộ, lại bị nghèo khó về vật chất, bị thương hại là một nghịch
lý, gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
Về bản chất, quyền lợi kinh tế và tinh thần liên quan chặt chẽ với nhau, là hai
mặt của quyền lợi, phụ thuộc vào đóng góp, cống hiến cho sự nghiệp (công việc)
của xã hội.
Người lao động tham gia đóng góp nhiều sức lực, tài năng được quyền chia

hưởng nhiều giá trị vật chất và tinh thần. Quyền được hưởng là phải khẳng định
trước hết, sau đó là hình thức, cách thức trao quyền sao cho có tác dụng kích thích
nhất.
Khi trình độ người lao động còn thấp, kích thích tinh thần bằng bằng khen,
huy chương, huân chương có tác dụng nhất định. Khi trình độ người lao động cao,
kích thích vừa bằng vật chất, vừa bằng tinh thần mới có tác dụng lớn. Với những
lao động phổ thông thì tiền lương và một công việc ổn định luôn là tiêu chí hàng
đầu để họ quyết định gắn bó với doanh nghiệp. Song, với cấp quản lý cấp trung và
Giáo viên: Phan Thanh Thảo

Page 25


×