Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại VIệt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.73 KB, 28 trang )

Chúng ta đều biết rằng,ở mỗi quốc gia, dân tộc trong mọi thời đại muốn tồn tại và
phát triển đều rất cần đến con người. “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”luôn được cha
ông nhấn mạnh vì nhân tài chính là nhân tố cốt lõi của nguồn lực con người trong mọi
thời đại. Hơn nữa chúng ta sống và làm việc trong thời đại mà khoa học thực sự đã trở
thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp, thời đại mà không còn khoảng cách về không
gian và thời gian thì chính tiềm lực khoa học – công nghệ và trình độ dân trí mới là nhân
tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Vì thế ưu tiên phát triển
nhân tố con người, đặc biệt là đầu tư đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn, khoa học
kỹ thuật không những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn làm chủ và khẳng định vị thế
của mình trên trường quốc tế trong tiến trình hội nhập của mỗi quốc gia nói chung và
Việt Nam nói riêng.
Thực tế hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang ngày càng coi trọng nguồn nhân
lực có chất lượng cao, lấy vấn đề đào tạo và xây dựng nó làm “quốc sách hàng đầu”
trong chiến lược quốc gia đặc biệt là trong tiến trình hội nhập như hiện nay.
Điều này đã được xác định rõ qua từng chủ trương chính sách phát triển đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội của Đảng đã chỉ rõ: Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã định
hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: “Người lao động có trí tuệ cao, có tay
nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền
giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại”.
Vậy theo xu hướng khách quan và chủ quan của sự phát triển hiện nay đặc biệt là
theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước thì hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân
lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phải luôn chiếm một vị trí trung tâm và
đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là
trong giai đoạn hiện nay –giai đoạn đẩy mạnh sự hợp tác toàn cầu, hội nhập quốc tế.


Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.
1.1 Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC)


1.1.1 Cơ sở lí luận về nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1.1 Cơ sở lí luận chung
Từ thời của Mác, dù chưa đề cập đến thuật ngữ NNLCLC nhưng Mác đã nêu ra quan
niệm có liên quan đến vấn đề này: “Những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ
sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn”. Ở đây,
Mác muốn nói đến những con người có trình độ, có khả năng ứng dụng những thành tựu
khoa học-kỹ thuật vào sản xuất.
Hiện nay,theo nghiên cứu trên thế giới và thực tiễn, có rất nhiều quan niệm về
NNLCLC. Trong “Đại từ điển kinh tế thị trường” của Trung Quốc giải thích khái niệm nhân
tài: “Là những người, trong điều kiện xã hội nhất định, có tri thức chuyên môn nhất định, có
năng lực và kỹ năng cao, với tính lao động sáng tạo của bản thân trong điều kiện thực tiễn
hoạt động xã hội, có khả năng góp phần cống hiến nào đó đối với sự phát triển của xã hội,
của nhân loại”.
Ở nước ta, lần đầu tiên thuật ngữ NNLCLC xuất hiện đó là trong Văn kiện Đảng
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định “Phát triển nhanh nguồn nhân lực chất
lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành” [tr. 96]. Nó đã thể hiện rằng trong chiến lược
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam có những điểm mới, trong đó tập trung phát triển
NNLCLC, xem đó là bước đột phá nhằm sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, đồng thời tạo sự phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
Những năm gần đây, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đi sâu vào để tìm hiểu,
nghiên cứu vấn đề này và đưa ra một số quan niệm về NNLCLC. Tiêu biểu như:
Trong “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
GS.VS.TS Phạm Minh Hạc quan niệm NNLCLC là: Đội ngũ nhân lực có trình độ và


năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, thực hiện
có hiệu quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta, là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi
vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa được mở rộng theo kiểu “vết dầu loang”, bằng cách
dẫn dắt những bộ phận có trình độ và năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh.
Ở trên tác giả nhấn mạnh đến “trình độ và năng lực” ,chú trọng đến chuyển giao

công nghệ.
Còn theo GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn trong “Nghiên cứu văn hóa con người,
nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI” đưa ra khái niệm “một nguồn nhân lực mới” để chỉ “lực
lượng lao động có học vấn, có trình độ chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng
nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất”. Tác giả chỉ chú trọng
đến học vấn và chuyên môn.
NNLCLC được TS. Nguyễn Hữu Dũng quan niệm trong “Phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh
tế quốc tế” là: “Nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người
lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề
cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (trên đại học,
cao đẳng, công nhân lành nghề)” . Ở đây tác giả lại chú ý đến trình độ lành nghề.
Trong tạp chí “Thông tin Chủ nghĩa xã hội - lí luận và thực tiễn”, TS Bùi Thị Ngọc
Lan cho rằng: NNLCLC là bộ phận tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Lực lượng này có
trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động giỏi và có khả năng
thích ứng nhanh với những biến đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất, có phẩm chất
tốt và có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào
quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Tác giả đã
đưa ra thêm khá nhiều tiêu chí để xác định hơn.
Như vậy, NNLCLC đã được đưa ra và hiểu dưới nhiều góc độ tùy theo nhưng tiêu
chí cụ thể đặt ra, ở góc độ tổng hợp nhất ta có thể hiểu như sau : NNLCLC là một bộ
phận kết tinh những gì tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Là bộ phận lao động có trình độ
học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao hay có kỹ năng lao động giỏi, có năng lực sáng tạo,
phải có tác phong công nghiệp và đạo đức trong nghề nghiệp. Đặc biệt là khả năng thích


ứng nhanh, đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn, biết vận dụng tri thức, kỹ năng và
kinh nghiệm đã được đào tạo và tích lũy trong quá trình lao động nhằm đem lại kết quả
sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
NNLCLC chính là lực lượng cốt lõi cả trong hai mặt số lượng và chất lượng của nguồn

nhân lực. NNLCLC có lực lượng nòng cốt là những công nhân lành nghề – những người
trực tiếp sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng cả ở trong nước và
nước ngoài. Do đó, họ phải có một trình độ trí tuệ nhất định để tiếp thu và làm chủ được
công nghệ tiên tiến. Hơn thế nữa, với những tri thức khoa học và những kinh nghiệm tích
luỹ được trong quá trình sản xuất trực tiếp, người công nhân không những sử dụng các
công cụ lao động hiện có, mà còn có thể sáng chế ra những tư liệu lao động mới, hoàn
thiện kỹ thuật và phương pháp sản xuất. Lực lượng lao động “đầu tàu”của NNLCLC là
đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức Đảng ta đã khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức
luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền
bá tri thức”để mở rộng hợp tác quốc tế song phương và đa phương, đặc biệt với các tổ
chức quốc tế, các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Luôn mở rộng hợp tác với
các tổ chức khoa học và công nghệ trong khu vực và trên thế giới, chia sẻ kinh nghiệm,
trao đổi thông tin, thu hút nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức trong nước giao
lưu khoa học với thế giới bằng các hình thức phù hợp…
1.1.1.2 Đào tạo, phát triển nâng cao chất lượng NNL- kinh nghiệm ở một số nước trên thế
giới
Trong mấy chục năm gần đây, nhìn ra nước ngoài, chúng ta thấy sự phát triển rất nhanh
chóng của nhiều nước ở khu vực Đông á bao gồm Nhật Bản, Hàn quốc và Đài Loan
cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của nhiều nước công nghiệp mới, các nước
ASEAN , Trung Quốc và ngay cả những nước rất phát triển như Mỹ.Tất cả đều phần lớn
nhờ vào sự phát triển của nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực.
chúng ta đã biết rằng Nhật – là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên vì vậy để phát


triển họ chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản và Chính phủ nước này
ngay từ rất lâu đã đặc biệt chú trọng tới tiềm năng của nguồn lực quý giá này thông qua
sự phát triển của giáo dục đào tạo, thực sự coi đây là quốc sách hàng đầu. Cụ thể như
chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc; tất cả học sinh
trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi được học miễn phí. Kết quả là, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các

trường đại học, cao đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Nhật Bản trở thành một trong
những cường quốc giáo dục của thế giới. Thực tế hiện nay là một minh chứng cụ thể
nhất. Nhật đã đứng trong top những cường quốc trên thế giới. Nhật Bản luôn là bài học
điển hình về sự thành công cho sự đầu tư phát triển về con người để chúng ta học hỏi.
Với một thị trường lao động khá năng động, Mỹ rất coi trọng môi trường sáng tạo và
khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Mỹ - nước duy nhất trên thế giới, cơ hội thu
hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà khoa học, bác học giỏi từ châu Âu và
nhiều nước khác trong đó có Việt Nam đã nhập cảnh vào Mỹ. Thực tế này trả lời cho câu
hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước có nhiều nhà khoa học hàng đầu thế
giới trong nhiều lĩnh vực.Và Mỹ luôn là cường quốc trong nhiều thập niên qua.
Trung Quốc ngay từ những năm 2003 đã đề ra Chiến lược tăng cường hơn nữa công tác
bồi dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả
được đề ra trong Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung của chiến lược
là: lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây dựng đội ngũ đông đảo nhân tài có chất lượng
cao; kiên quyết quán triệt phương châm tôn trọng lao động, trí thức, tôn trọng nhân tài và
sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều
chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh
công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá
và sử dụng nhân tài một cách khoa học...Hiện nay sự phát triển về kinh tế của họ là một
minh chứng rõ ràng nữa.Trung Quốc hiện nay phát triển kinh tế chỉ sau Mỹ.
Trong khu vực Đông Nam Á, Xin-ga-po được coi là hình mẫu về phát triển nguồn nhân
lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này đã rất thành công trong việc xây dựng


một đất nước có trình độ dân trí cao và và cũng rất đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục
mà hiện nay họ đang là một trong những nước có nền giáo dục đứng trong tốp đầu.
Hệ thống giáo dục của nước này rất linh hoạt và luôn hướng đến khả năng, sở thích cũng
như năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng của
mình. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học - công nghệ mới vào giảng dạy,

chương trình đào tạo của Xin-ga-po luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống
văn hóa dân tộc.
Chủ trương thu hút sinh viên quốc tế đến học tập, Chính phủ Xin-ga-po miễn xét thị thực
cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa
phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng... Nhà nước Xin-ga-po
chỉ đầu tư vào rất ít trường công lập để có chất lượng mẫu mực, có chính sách tín dụng
thích hợp để thu hút đào tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập, Chính phủ tạo điều
kiện để phát triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước ngoài, mời gọi các đại
học quốc tế đặt chi nhánh...
Trên đây là những ví dụ điển hình cho việc coi trọng và phát triển nguồn lực con người
mà đặc biệt là NNLCLC đã đem lại thành công và vị thế trên trường quốc tế của các quốc
gia.
1.1.1.Mối quan hệ giữa nguồn nhân lực (NNL) và nguồn nhân lực chất lượng cao
Với bài tham luận “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhu cầu cấp bách” Tổng
Biên tập Báo Sài Gòn Giải Phóng Trần Thế Tuyển dẫn chứng, cụm từ “nguồn nhân lực”
trên công cụ tìm kiếm Google, trong 0,1 giây cho ra 65.300.000 kết quả; còn nếu gõ cụm
từ “nguồn nhân lực chất lượng cao”, trong 0,1 giây cho ra 29.500.000 kết quả. Những
con số đó đã phần nào nói lên tầm quan trọng của nguồn nhân lực, mà đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao trong thời đại khoa học - kỹ thuật phát triển như vũ bão với một
quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra một cách chóng mặt ở mọi ngõ ngách của thế giới
như hiện nay.


Khi nghiên cứu các đề tài về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam có
rất nhiều học giả, các nhà nguyên cứu đã đưa nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân
lực. Có thể hiểu khái niệm nguồn nhân lực một cách ngắn gọn là nguồn lực con người.
Cụ thể, khái niệm nguồn nhân lực tập trung phản ánh ba vấn đề sau đây:
Thứ nhất, xem xét nguồn nhân lực dưới góc độ nguồn lực con người-yếu tố quyết định sự
phát triển của xã hội.
Thứ hai, nguồn nhân lực bao gồm số lượng và chất lượng, trong đó mặt chất lượng thể

hiện ở trí lực, nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống và sự kết hợp giữa các yếu tố đó.
Thứ ba, nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nhất thiết phải gắn
liền với thời gian và không gian mà nó tồn tại.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là
bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên thực tế đang làm việc (gồm những người trong
độ tuổi lao động và những người trên độ tuổi lao động), những người trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động nhưng chưa có việc làm (do thất nghiệp hoặc đang làm nội trợ
trong gia đình), cộng với nguồn lao động dự trữ (những người đang được đào tạo trong
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề…).
Giữa chất lượng NNL và NNLCLC có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng. Khi đề cập tới nguồn lực con người, người ta thường nói tới
mặt số lượng và mặt chất lượng của nó. Số lượng nguồn lực con người chính là lực lượng
lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhưng, yếu tố quan trọng nhất trong nguồn lực con người không phải là số lượng, mà là
chất lượng nguồn lực con người. Đây mới chính là yếu tố quyết định đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Nói đến chất lượng của nguồn lực con người là nói đến hàm lượng trí tuệ
ở trong đó, nói tới “người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất
tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với
một nền khoa học, công nghệ hiện đại”. Sở dĩ người ta nói đến tính vô tận, tính không bị


cạn kiệt, tính khai thác không bao giờ hết của nguồn lực con người chính là nói tới yếu tố
trí tuệ. Trí tuệ của con người ngày càng phát triển và có tác động mạnh mẽ nhất đối với
sự tiến bộ và phát triển xã hội. Nhà tương lai học Mỹ- Alvin Toffler khẳng định rằng,
mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ có trí tuệ con người là không
bao giờ cạn kiệt và “tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết”. Để khẳng định mình
trong một thế giới cạnh tranh đầy khốc liệt, chất lượng nguồn nhân lực đóng một vai trò
sống còn đối với một nền kinh tế đang trên đà phát triển và hội nhập như Việt Nam
Và tổng thể NNL của một quốc gia, NNLCLC chính là bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNLCLC không thể

không đặt nó trong tổng thể vấn đề nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường ( yêu
cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh tế,
tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác;
có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc.
Như vậy, NNLCLC cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về
khả năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng.
Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào
thực chất, chất lượng.
1.1.2.Yêu cầu của NNLCLC
Nguồn nhân lực chất lượng cao không đồng nghĩa với học hàm, học vị cao, nghĩa là nếu
một người nào đó cho dù có học hàm, học vị cao nhưng lại không có đóng góp gì thực
sự có giá trị về mặt khoa học hay thực tiễn trong suốt quá trình lao động hoặc nghiên
cứu khoa học thì không được gọi là nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngược lại, những
người không hề có học hàm, học vị cao, thậm chí chỉ là người công nhân, kỹ thuật viên,
cán bộ có trình độ trung cấp, hay kỹ sư, cử nhân, nhưng nếu họ lại có tay nghề hay
chuyên môn rất giỏi về một lĩnh vực nào đó, đáp ứng tốt nhất yêu cầu công việc và có
những đóng góp thực sự có giá trị cho xã hội thì đó chính là nguồn nhân lực chất lượng


cao. Vì vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao là những người có khả năng hoàn thành
nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc nhất, sáng tạo và hoàn hảo nhất, có đóng góp thực
sự hữu ích cho công việc, cho xã hội.
Để làm rõ hơn khái niệm “nguồn nhân lực chất lượng cao”, cũng như để dễ dàng hơn
trong việc thống kê, phân tích và đánh giá lực lượng lao động này, cần thiết phải xây
dựng những tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao ở mức độ cụ thể hơn.
Có nhiều chỉ số để đánh giá vấn đề này, chúng ta điểm qua chỉ số tổng hợp chung nhất là
Chỉ số phát triển con người (HDI). Đây cũng là chỉ tiêu mà Việt Nam đạt mức cao và
hoàn thành mục tiêu trong Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Theo số
liệu công bố trong báo cáo phát triển con người của các nước ASEAN, in trong niên giám

thống kê tóm tắt năm 2009 của tổ chức thống kê mới công bố. Chỉ số HDI của các nước
ASEAN như sau: Brunây 0,919; Campuchia 0,575; Indonesia 0,726; Lào 0,608; Malaysia
0,823; Myanmar 0,585; Philipine 0,745; Thái Lan 0,786; Singapore 0,918; Việt Nam
0,718. Như vậy, mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực này nhưng ngay trong
khối ASEAN chỉ số HDI của chúng ta cũng chỉ cao hơn 3 nước là Lào, Campuchia và
Myanmar. Cũng theo số liệu của TĐTDS 2009, tỷ lệ lao động được đào tạo có trình độ từ
sơ cấp trở lên cũng chỉ đạt 14,9%. Sơ bộ những điều này cho thấy mặc dù đã đạt nhưng
thành tích nhất định nhưng để nâng cao chất lượng dân số, phát triển được nguồn nhân
lực chất lượng cao, tận dụng hiệu quả, thì còn là một thách thức rất lớn đối với chương
trình phát triển kinh tế-xã hội của nước ta trong giai đoạn tới.
Dưới đây là các chỉ tiêu cụ thể hơn.
Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có đạo đức nghề
nghiệp, đó là lòng yêu nghề, say mê với công việc, có tính kỷ luật và có trách nhiệm với
công việc. Cao hơn cả, đạo đức nghề nghiệp còn thể hiện ở mong muốn đóng góp tài
năng, công sức của mình vào sự phát triển chung của dân tộc. Đây được coi là tiêu chí


mang lại tính chất nền gốc trong quá trình xây dựng những tiêu chí các định nguồn nhân
lực chất lượng cao.
Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có khả năng
thích ứng công nghệ mới và linh hoạt cao trong công việc chuyên môn. Tiêu chí này đòi
hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, để có khả năng thích ứng
tốt với những công việc phức tạp và luôn thay đổi trong thời đại ngày nay. Điều này cũng
có nghĩa là nguồn nhân lực chất lượng cao phải có bản lĩnh nghề nghiệp để không bị
động trước những thay đổi nhanh chóng cả về nội dung và cách thức tiến hành công việc
của thời đại toàn cầu hóa vá kinh tế tri thức.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có khả năng
sáng tạo trong công việc.
Sáng tạo bao giờ cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Đặc biệt
trong thời đại ngày nay, những gì là mới và sôi động của ngày hôm qua nhanh chóng trở

thành cũ kỹ và tầm thường trong ngày hôm nay. Nếu không liên tục có những ý tưởng
sáng tạo thì hoạt động của các tổ chức và suy rộng ra là của một dân tộc sẽ bị tê liệt. Vì
vậy, tiêu chí này nhằm xác định nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung nhưng đặc biệt
nhấn mạnh tới một lực lượng tinh túy nhất, đó là những nhà lãnh đạo, chủ doanh nghiệp
và các nhà khoa học. Họ được gọi chung là nhân tài. Họ, “trước hết phải là những người
có nhân cách, trí tuệ phát triển, có một số phẩm chất nổi bật mà rất ít người có, đồng thời
phải là người giàu tính sáng tạo, có tư duy độc đáo, giải quyết các công việc nhanh, chính
xác, mang lại hiệu quả rất cao”
Và một yếu tố không thể thiếu đối với nguồn nhân lực chất lượng cao là sức khoẻ.
Sức khoẻ ngày nay không chỉ được hiểu là tình trạng không có bệnh tật, mà còn là sự
hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần. Mọi người lao động, dù lao động cơ bắp hay lao
động trí óc đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri
thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa cần phải có


sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong
những điều kiện khác nhau hết sức khó khăn và khắc nghiệt.
Ngoài ra còn có một số tiêu chí khác như:
Nền sản xuất công nghiệp hiện nay còn đòi hỏi ở người lao động phải có các năng lực
cần thiết như: có kỷ luật tự giác, biết tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, có tinh thần
trách nhiệm, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, lương tâm nghề
nghiệp,… nghĩa là phải có văn hóa lao động công nghiệp.
Người lao động còn phải có năng lực xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại,
giữa dân tộc và thời đại. Truyền thống được hiểu là: phức hợp những tư tưởng, tình cảm,
những tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí, v.v. của một
cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Như vậy, truyền thống có cả mặt tích cực và tiêu cực dù muốn hay
không vẫn để lại dấu ấn vào hiện tại, và ở mức độ nhất định, có thể còn ảnh hưởng đến sự
vận động của tương lai. Quá trình hội nhập đòi hỏi người lao động vừa biết kế thừa
những giá trị truyền thống, vừa biết phát triển những giá trị đó lên tầm cao hơn, đồng thời

tiếp thu những tinh hoá quý giá của văn hoá nhân loại. Nếu không biết kết hợp truyền
thống với cách tân để vượt lên, để hội nhập, để tìm mọi cách bước vào xã hội hiện đại thì
tương lai chỉ mãi là sự tụt hậu.
1.3 Vai trò NNLCLC trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
1.3.1 Khái niệm về hội nhập quốc tế
Khác với toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế là hành động chủ quan, có chủ đích của con
người nhằm khai thác nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh của đất nước mình.
Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập
nhưng không hoà tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc mình và nhất là bảo vệ được
nền độc lập dân tộc.


Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng
cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực,
quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn
khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
Tìm hiểu thêm về khái niệm này nên lấy hội nhập quốc tế hay hội nhập kinh tế
1.3.2.Tác động của hội nhập quốc tế đến NNLCLC
1.3.2.1 Thách thức
Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực.Mỗi một lĩnh vực, một bộ phận lại
chịu sự tác động riêng của quá trình này. Là bộ phận không thể thiếu của một quốc gia
NNLCLC cũng sẽ có cơ hội phát triển cũng như thách thức khó khăn trong quá trình hội
nhập.
Quá trình hội nhập sẽ tiếp nhận những công nghệ mới – đặc biệt là công nghệ máy tính –
làm thay đổi bản chất của công việc, đòi hỏi người lao động nói chung phải được trang bị
những kỹ năng tổng hợp thông tin và kỹ năng tư duy độc lập, họ cần có khả năng học tập
sâu hơn, phân tích dữ liệu tốt hơn và ứng phó giải quyết các vấn đề mới nhanh
hơn.NNLCLC ngày càng có nhiều cơ hội để nâng cao khả năng cũng như để hoàn thiện
mình hơn.
Hội nhập và mở cửa làm thay đổi cấu trúc nền kinh tế, cơ cấu giá cả, khả năng và cách

thức tiêu dùng dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế và thu nhập của người dân trong
những khu vực chưa theo kịp với tiến trình toàn cầu hoá (việc làm năng suất thấp, thu
nhập thấp do kỹ năng thấp). Đặc biệt là về tiền lương và thưởng phải đảm bảo thu hút
nhân tài luôn là vấn đề nan giải. Lương phải đảm bảo sự khuyến khích và thỏa mãn
những nhu cầu cần thiết người lao động nói chung , phải đảm bảo cung cấp điều kiện
làm việc phù hợp với năng lực chuyên môn nghề nghiệp của NNLCLC nói riêng và đảm
bảo sự cạnh tranh về thu hút nhân lực với các nước.


Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra nhiều thách thức trong giải quyết việc làm, các doanh
nghiệp có sức cạnh tranh kém, quy mô nhỏ có nguy cơ phá sản; mất việc làm, thiếu việc
làm lớn trong khu vực phi chính thức; Phải nhấn mạnh rằng đã tham gia hội nhập là
chúng ta đã phải chịu sự cạnh tranh rất lớn từ nước ngoài. Vì thế vấn đề quản lí doanh
nghiệp, nếu không thích ứng tất yếu sẽ bị loại và dễ dàng dẫn đến tình trạng chảy máu
chất xám và khả năng mất đi nguồn lực chủ chốt này chỉ còn là vấn đề thời gian–thực sự
là một vấn đề hết sức cấp bách hiện nay.
Bên cạnh đó thì cạnh tranh về lao động trình độ cao sẽ ngày càng gay gắt. Hội nhập, toàn
cầu hoá trở thành xu thế chung, lao động nước ngoài (đặc biệt là lao động có kỹ thuật,
trình độ quản lý…) tham gia vào thị trường lao động Việt Nam nhiều hơn, đồng thời lao
động của Việt Nam cũng di chuyển ra nước ngoài nhiều hơn. Đòi hỏi chính sách thu hút
nguồn nhân lực có chất lượng càng.Chúng ta thấy rõ điều này qua Nước Mỹ. Trong số 10
trường Đại học nổi tiếng nhất trên thế giới thì Mỹ chiếm tới 8 trường, như Havard (lập
năm 1636), Yale ,Pennsylvania, Princeton, Colombia, Brown, Dartmouth, Cornell...
Những trường đại học này được dư luận Mỹ và các nước gọi là “Nhóm vạn niên thanh”,
tức luôn luôn tiếp nhận số lượng lớn sinh viên ở Mỹ và các nước tới học. Các trường đại
học Mỹ chẳng những là nơi cung cấp mà còn là “Đại lý” tìm kiếm và thu hút nhân tài cho
các doanh nghiệp Mỹ.
Các nhà kinh tế Mỹ cho rằng nhân tài là nhân tố quan trọng để các doanh nghiệp Mỹ
vươn lên hàng đầu thế giới về phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật. Nhận thức rõ điều
này, nên các đời Chính phủ nước Mỹ từ trước tới nay đã ban hành nhiều đạo luật giúp

doanh nghiệp bồi dưỡng và thu hút nhân tài trên thế giới. Năm 1963, Mỹ ban hành “Luật
giao dục ngành nghề” và năm 1990 được sửa đổi bổ sung để thu hút có hiệu quả cao nhân
tài từ các nước trên thế giới. Năm 1996, Mỹ lại thông qua “Luật giáo dục người lớn tuổi”,
trong đó yêu cầu tất cả doanh nghiệp công hữu và tư nhân hàng năm phải chi khoản kinh
phí chiếm 1% tổng thu nhập của doanh nghiệp dành cho huấn luyện đào tạo nâng cao tay
nghề cho nhân viên.


Ngoài việc phải nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, mức độ lành nghề thì các yêu
cầu khác về chất lượng nguồn nhân lực đang được đặt ra như những thách thức mới trông
quá trình hội nhập. Đó là yêu cầu về ngoại ngữ, tin học, tác phong và văn hoá ứng xử
công nghiệp, hiểu biết về luật pháp và thông lệ quốc tế… Điều này đòi hỏi lao động phải
nhanh chóng học tập những cái mới, cái ưu việt, nhưng cũng cần phải loại bỏ những yếu
tố không phù hợp và đi ngược lại với đạo đức và văn hoá Việt.
Sự dịch chuyển về cơ cấu lao động và di chuyển lao động tự do tới các vùng đô thị đang
là vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan chức năng, nhiều địa phương và
các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách. Khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007),
thực trạng này còn diễn ra mạnh hơn và kéo theo nhiều tác động với mức độ lớn hơn.
Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn tới nguy cơ tăng khoảng cách thu nhập của
người lao động. Điều này góp phần làm tăng khoảng cách về quyền lợi và địa vị xã hội
giữa các nhóm lao động.Vấn đề là làm sao để hài hòa giữa mức thu nhập của lao động
chất lượng cao và các bộ phận khác và vẫn đảm bảo “giữ chân người tài”-một thực tế
khó khăn.
Trên thực tế, tiêu chuẩn lao động của quốc tế mang tính nhân quyền cao như: qui định
các vấn đề liên quan đến lao động trẻ em; lao động cưỡng bức; chống phân biệt đối xử tại
nơi làm việc, tự do hiệp hội và thoả ước lao động tập thể… Điều này đang đặt ra cho
nguồn nhân lực các vấn đề mới cần giải quyết, như chi phí về nhân công tăng lên, các
điều kiện làm việc cần được đầu tư và cải thiện tốt hơn, thành lập các hiệp hội tự do trong
các ngành nghề…Và NNLCLC lại càng được tiêu chuẩn hóa cao hơn, khắt khe hơn nữa.
1.3.2.2 Cơ hội

Mặc dù các nền kinh tế trên thế giới đang gặp khó khăn do khủng hoảng, nhưng giai đoạn
2006-2010, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn định, hợp tác để cùng
phát triển tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang


phát triển như Việt Nam. Hơn ba năm Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) là cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, được đối
xử bình đẳng trên “sân chơi chung” của thế giới. Hội nhập đem lại nhiều cơ hội việc làm,
đặc biệt là việc làm theo hướng công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao; các rào cản
pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại,
lao động… được thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Đặc biệt quá trình du học của lượng lượng trí thức - bộ phận quan trọng của NNLCLC.
Hội nhập quốc tế tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và
thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng
ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng
rào phi thuế. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của
các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm
cho người lao động.Tạo điều kiện để NNLCLC cống hiến tất cả khả năng của mình vào
sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản thân người lao động trong đó có
lao động chất lượng cao và các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác, chuyển
giao công nghệ với các nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó là các chuẩn
mực, mô hình hệ thống tổ chức quản lý hiện đại được áp dụng cho các doanh nghiệp sản
xuất…
Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân lực cho lao
động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam chủ động hội
nhập sẽ đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có một
lượng lớn lao động nông nghiệp, thanh niên nông thôn nhàn rỗi, thiếu việc làm tham gia
vào hoạt động kinh tế trong các doanh nghiệp, các hộ gia đình, đơn vị kinh doanh cá
thể… Điều này đồng nghĩa với mang lại nhiều cơ hội thay đổi công việc và tăng thu nhập

cho một bộ phận lớn lao động nông nghiệp hiện nay. Hơn nữa, sự phát triển nhanh chóng
về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt động trao đổi chuyên gia giữa các nước với


Việt Nam sẽ làm cho trình độ chuyên môn kỹ thuật, tăng khả năng cơ giới hóa trong nông
nghiệp góp phần nâng cao năng suất lao động cũng như trình độ, nhận thức của nười
nông dân. Hợp tác quốc tế về lao động có cơ hội phát triển, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng nhân lực, để có thể làm chủ các công nghệ và thiết bị tiên tiến trên thế giới. Như
hiện nay qua tìm hiểu trên các các kênh thông tin đại chúng đã có rất nhiều phát minh
sáng kiến ra đời mà chủ nhân của nó không ai xa lạ chính là từ các bác nông dân được
biết đến xưa nay “ bán mặt cho đất bán lưng cho trời” cải tạo công cụ sản xuất của họ
như: máy tuốt gặt liên hoàn, máy bóc ngô,vvv….Họ cũng chính là một bộ phận không
thể thiếu của NNLCLC .
Tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực. Thông qua các dự án hợp tác
đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam, sẽ tạo ra các nguồn tài chính dồi
dào hơn cho việc đổi mới công nghệ và thiết bị của các ngành kinh tế.
Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động theo
định hướng thị trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Trong
khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt giảm. Tạo điều kiện
cho nhân lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng hơn vào phân công và hợp tác lao
động quốc tế. Đặt nền móng cho việc tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực một cách
ổn định và bền vững nhất.
1.3.3 Vai trò của NNLCLC đến quá trình hội nhập
Trong truyền thống Việt Nam xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ". Còn
nhà tương lai Mỹ Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông "Tiền
bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng
không những không mất đi mà còn lớn lên".
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội nói chung . NNLCLC là bộ phận quan trọng nhất của nguồn
nhân lực .Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng,

bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.


Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật,
khoa học công nghệ .v.v… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn
nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ,
chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử
dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ
phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy,
con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá
trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên
không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững
nếu hội đủ bốn điều kiện:
 Quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
 Quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
 Quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
 Quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công
của quá trình hội nhập quốc tế nói riêng hiện nay; Khi đất nước ta đang bước vào giai
đoạn chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao và khẳng định vị thế của mình , việc tiếp cận
kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công và
phát triển bền vững của đất nước. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng
nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh hợp tác giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các nước.
Vậy nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá

trình hội nhập trình là quá trình lao vào vũ trụ bao la mà người cầm lái chính là
NNLCLC.Con tàu chỉ đi đúng hướng khi người cầm lái thực sự có đủ khả năng năng
lực để điều khiển nó.”Khả năng” này gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm.


Thêm vai trò của nnlclc
Chương 2: Thực trạng NNLCLC hiện nay trong tiến trình hội nhập
2.1. Thực trạng NNLCLC
Nên tìm hiểu số liệu gần đây nhát 2011
-tổng dân số
-cơ cấu dân số theo trình độ học vấn
-lao đọng tri thức lđ công nhân
Theo số liệu mới nhất về dân số tính đến năm 2009, Việt Nam có trên 44 triệu lao động
trên tổng số 89 triệu dân và là một nước có nguồn lao động dồi dào so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới.Về quy mô dân số, Việt Nam là nước đứng thứ 2 trong
khu vực và đứng thứ 13 trên thế giới. Trong số 89 triệu dân thì chiếm tới 50% là số
người nằm trong độ tuổi lao động và nhóm tuổi từ 15 tới 34 tuổi chiếm hơn 45% tổng số
lực lượng lao động. Cũng theo số liệu này thì hàng năm có khoảng từ 1,5 đến 1,7 triệu
người nhập vào lực lượng lao động. Nhìn chung, cung lao động tại Việt Nam rất dồi dào
và lớn hơn cầu về lao động. Tuy nhiên, phần lớn lượng cung lao động này là lao động
phổ thông, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao và chất lượng lao động không đồng đều
giữa các vùng, miền.
Tuy nhiên so với những năm trước đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và sự phát triển của các doanh nghiệp mới nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân lực
có chất lượng cao của các ngành dịch vụ và công nghiệp, đặc biệt là đối với lĩnh vực
quản trị doanh nghiệp, công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng, điện, điện tử và hoá
chất ngày càng tăng lên. Cùng với chính sách mở cửa, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu, làn sóng đầu tư trong nước cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày
càng tăng lên, các doanh nghiệp trong nước được thành lập mới ngày càng nhiều đã tạo
ra một lượng cầu nhân lực có chất lượng cao ngày càng lớn. Đối với các doanh nghiệp



100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài thì các nhà đầu tư
là người nước ngoài thường ưu tiên tuyển dụng lao động có chất lượng cao ngay ở Việt
Nam vì lao động Việt Nam là người am hiểu khá nhiều lĩnh vực, tập quán, có nhiều mối
quan hệ và mức lương trả cho họ thường thấp hơn so với lao động từ nước ngoài và cũng
để cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam, các nhà đầu tư là người nước ngoài sẵn
sàng trả mức lương cho người lao động cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp Việt
Nam. Vì thế, sự cạnh tranh về nguồn nhân lực có chất lượng cao ngày càng gay gắt. Kết
quả cuộc điều tra 63.000 doanh nghiệp ở 36 tỉnh thành phố trên cả nước do Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã tiến hành năm 2008 cho thấy nguồn nhân lực chất lượng cao có thể tham
gia quản lý tại Việt Nam cũng mới chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu. Đặc biệt những
nhân sự cấp cao của Việt Nam đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng trầm trọng vì
không đủ khả năng bắt kịp sự phát triển của nền kinh tế. Cũng theo như kết quả cuộc
điều tra này, tỷ lệ giám đốc doanh nghiệp có trình độ thạc sỹ chỉ là 2,99%, đại học là
37,82% và cao đẳng là 3,56% trong khi đó tỷ lệ có trình độ trung học chuyên nghiệp là
12,33% và trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông trở xuống chiếm tới 43,30%.
Về nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao trong ngành tài chính và ngân hàng
cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Năm 2007, trước khi xẩy ra khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, hầu hết các ngân hàng của Việt Nam đều mở thêm rất nhiều chi nhánh. Các
ngân hàng thương mại cổ phần đều đồng loạt tuyển dụng một lượng lớn nhân lực có
trình độ tốt nghiệp đại học ngành tài chính ngân hàng.Đối với các công ty kinh doanh
chứng khoán cũng vậy. Hàng loạt các công ty ra đời và kèm theo đó là việc tìm kiếm
nguồn nhân lực chất lượng cao, vì thế nguồn nhân lực chất lượng cao ngành này ngày
càng khan hiếm. Trong năm 2007, nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng chỉ có khoảng
2000 sinh viên ra trường nên chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu. Sự khan hiếm
nguồn nhân lực có trình độ cao đã khiến cho các doanh nghiệp phải sử dụng tới các
chuyên gia là người nước ngoài và đương nhiên là phải trả tiền lương cho họ mức lương
rất cao (đây là một điều thực sự đáng suy nghĩ đối với bất cứ người Việt Nam nào có
lòng tự trọng dân tộc). Một số dịch vụ ngân hàng, y tế có tới 40% tổng số lao động có

thu nhập cao từ 14.000 USD/năm trở lên đều thuộc về người nước ngoài. Tại một nhà


máy gia công giầy ở Đồng Nai, tiền lương mà doanh nghiệp phải trả cho 70 chuyên gia
là người nước ngoài tương đương với tổng số tiền lương mà doanh nghiệp trả cho
20.000 lao động người Việt Nam.Tại một Nhà máy xi măng ở tỉnh Thanh Hoá, 20 vị trí
lao động chủ chốt, người Việt Nam lại giao cho người nước ngoài là người Nhật Bản
đảm nhiệm và họ đã được trả tiền lương ở mức tương đương với tổng số lương của
2000 công nhân người Việt Nam (đây quả thực là một điều rất thiệt thòi cho người dân
Việt Nam). Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới tình trạng cung nhân lực có chất
lượng cao không đáp ứng được nhu cầu. Theo điều tra mới đây của Bộ kế hoạch và Đầu
tư, gần 18% số các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả các tổ chức tín dung, ngân hàng được
hỏi đều gặp khó khăn trong việc đào tạo nguồn nhân lực lành nghề và có trình độ cao
cho chính doanh nghiệp của họ. Nguyên nhân chính của việc này là do các doanh nghiệp
thiếu thông tin và chưa tiếp cận một cách hiệu quả được với các dịch vụ đào tạo. Có
nhiều sinh viên đã không được định hướng tốt trong việc chọn trường, chọn ngành nghề
theo học. Cũng một phần do chất lượng đào tạo ở các cơ sở đào tạo không đáp ứng được
nhu cầu, điều này đã tạo ra sự lãng phí lớn đối với bản thân người được đào tạo và đối
với xã hội, đó chính là sự yếu kém trong công tác quản lý nguồn nhân lực có chất lượng
cao và suy cho cùng thì lực lượng lao động ở Việt Nam chưa phát triển.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia có trách nhiệm thì nguồn lao động chất lượng
cao trong một số lĩnh vực như cơ khí chế tạo, tự động hoá, vật lý nguyên tử, kinh doanh
thương mại quốc tế, kế toán kiểm toán, tín dụng, ngân hàng vẫn sẽ tiếp tục bị thiếu hụt
và khan hiếm. Hầu hết các tổ chức doanh nghiệp khi được hỏi đều cho rằng tuyển dụng
được cán bộ nghiệp vụ giỏi đã khó, nhưng tuyển dụng được cán bộ quản lý giỏi còn khó
hơn rất nhiều. Đồng thời, việc giữ lao động giỏi ở lại doanh nghiệp cũng là việc không
dễ dàng. Điều này một lần nữa cho thấy trong tương lai khi mà cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu qua đi, các doanh nghiệp sẽ tiến hành tái cấu trúc và nhu cầu nhân lực có
chất lượng cao ngày càng tăng lên thì chắc chắn sự mất cân đối giữa cung và cầu về lao
động sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn nếu như Việt Nam không có những biện pháp

hiệu quả để giải quyết vấn đề này ngay từ bây giờ.


2.2 Lợi thế NNLCLC của Việt Nam
Người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như thông minh, cần
cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các
công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân
lực nước ta trong quá trình toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức. Một trong
những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam thường được nói đến là nhân công giá rẻ. Tuy
nhiên chúng ta nên "giải mã" để xem đây là lợi hay là nhược điểm của Việt Nam. Lý do
là giá nhân công rẻ đồng nghĩa với lao động tay nghề thấp. Như vậy, lợi thế này cũng
chính là nhược điểm của lao động Việt Nam. Trên thực tế, rất nhiều nhà đầu tư nước
ngoài than phiền rằng khó tuyển dụng nhân sự cho ngành công nghệ thông tin, ngân
hàng, viễn thông... Do đó Việt Nam khó có thể thu hút đầu tư vào những khu vực dịch vụ
cao cấp mà Việt Nam đang rất cần để chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy, việc đào tạo
nhân lực chất lượng cao, tạo ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao hàm lượng nội địa... là
việc mà Nhà nước phải nhanh chóng thực hiện để "tạo chất" cho "lợi thế nhân công" mà
Việt Nam đang có hiện nay.
2.3.Khó khăn, thách thức
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực ở nước
ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có thể đáp ứng
được 35 đến 40% nhu cầu nhân sự bậc cao của các doanh nghiệp. Thị trường nhân sự cấp
cao của Việt Nam đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng trầm trọng vì không đủ khả
năng bắt kịp sự phát triển của nền kinh tế.
Theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động
TPHCM, chỉ có khoảng 40% sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp tìm được việc làm đúng
ngành, đúng trình độ; 60% còn lại phải làm trái ngành hoặc thấp hơn trình độ đào tạo.
Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm thì nguyên nhân tình trạng trên là do
sinh viên chạy đua theo phong trào, học ngành “hot” dẫn đến cảnh ngành cần người làm



lại ít người học, ngành nhiều người học lại ít chỗ làm. Khi ra trường, sự mất cân đối này
dẫn đến việc những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật này phải làm những công
việc trái ngành. Thậm chí một số doanh nghiệp phải cử đi đào tạo lại ở nước ngoaì hoặc
thuê nước gây sự lãng phí nguồn lực quá lớn.
Theo xu hướng chung hiện nay,lực lượng lao động tri thức học sinh sinh viên đều thích đi
du học và làm việc ở nước ngoài. Đến khi về già mới trở về nước để đóng góp một phần
sức lực cuối cùng cho đất nước quê hương.Và còn phần đa bộ phận công nhân tài năng
còn lại trong nước thì thích làm việc trong các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt là các
doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài.
Có thể nói, từ những thực trạng trên, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực cao đã được đặt
ra một cách cấp bách trong thời kì hội nhập. Trước hết, phải đi tìm nguyên nhân của “sự
khủng hoảng này.
Chúng ta sử dụng vốn nhiều chứ không chú trọng đến NNLCLC thế thì mô hinh kinh tế
này nó đúng trong một giai đoạn nào đấy nhưng nếu để dài quá thì nó sẽ gây ra thảm họa
về hiệu quả.Trong nhân lõi các mô hình đó chúng ta thấy bóng dáng của công nghệ và
chất lượng cao rất ít. Đó là ý kiến của ông Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế
Việt Nam
Các trường đại học của chúng ta bây giờ chưa đào tạo theo yêu cầu của thị trường, chưa
bắt đầu từ những đơn đặt hàng của các doanh nghiệp mà đào tạo theo khả năng thao nhu
cầu của trường. Đây là sự bất cập đang rất cần sự thay đổi.
Vậy giải pháp nào cho tình trạng trên đây?

Chương 3: Giải pháp phát triển NNLCLC đáp ứng tiến trình hội nhập
Đầu tiên là phải nâng cao nhận thức cho mọi cá nhân tổ chức để hiểu rõ tầm quan trọng
của việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển
kinh tế tri thức và hội nhập vào nền kinh tế thế giới của nước ta hiện nay. Phải xác định


cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới

và phát triển đất nước. Một đất nước với nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng bị
cạn kiệt như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế chính.
Đối với nhà nước
Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng và triển khai
chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.
Tuy nhiên, trước mắt cần có kế hoạch đột phá vào phát triển nhóm nhân lực chất lượng
cao, đó là:
- đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có năng lực quản lý giỏi và có phẩm
chất đạo đức tốt cần được xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý bởi đây là lực lượng có
ý nghĩa đầu tàu quan trọng lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- đối với đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ thì phải nâng cao chất lượng và hiệu quả sử
dụng thông qua việc trang bị đầy đủ những yếu tố thiết bị kĩ thuật hiện đại và đảm bảo
một môi trường làm việc hợp lí . Đây là một trong những nhiệm vụ vừa mang tính cấp
bách, vừa có tầm chiến lược nhằm tạo ra lực lượng đầu đàn trong đội ngũ những người
lao động, góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao của nước ta.
- đối với công nhân kỹ thuật thì cần phải có kế hoạch đào tạo và nâng cao tay nghề cụ thể
rõ ràng vì đây là lực lượng quan trọng tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho
mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của nước ta và trên
thế giới. Mở những đợt tuyên truyền rộng rãi, thấm sâu vào lòng người về nguồn nhân
lực, chất lượng sinh, sống, thông tin về học tập, giáo dục ngành nghề trong các tầng lớp
nhân dân, nhất là trong thanh niên, học sinh.
Chìa khóa vạn năng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là phải nâng cao
giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy
và học; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam.


Thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hiện đại, góp phần
đào tạo và xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế tri thức như: Tăng đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục và đào tạo; Thực
hiện xã hội hóa giáo dục; Mở rộng quy mô và tăng nhanh tốc độ đào tạo; Thực hiện đào
tạo theo nhu cầu của xã hội; Tiếp tục cải cách nội dung và phương pháp đào tạo; Tăng
cường sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức, trong thời gian tới giáo dục
đại học Việt Nam cần có sự đổi mới, trước mắt nên chú trọng vào các vấn đề:
- Xây dựng một hệ thống các trường đại học có uy tín, có khả năng đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính – ngân hàng, công nghệ thông tin,
kiểm toán và ngoại ngữ.
- Về cơ chế quản lý, thay đổi theo hướng tăng thêm tính chủ động cho các trường đại học
nhất là tự chủ về tài chính. Khuyến khích các trường dân lập hoạt động thực sự hiệu quả
đảm bảo nguồn cung đáp ứng nhu cầu.
- Về nội dung, chương trình: tăng cường thực hành nhằm phát triển tư duy sáng tạo của
sinh viên, gắn lý thuyết trong sách vở với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh.Hiện
nay vấn đề này còn rất lỏng lẻo.Học sinh sinh viên mặc dù rất giỏi lí thuyết nhưng khi bắt
tay vào công việc hay tình huống cụ thể thì cách giải quyết gặp rất nhiều khó khăn.Nên
có nhiều những bài học thực tế, tổ chức những dịp giao lưu cọ xát bên ngoài để đánh giá
chung vào quá trình nhận thức của học sinh sinh viên.Tất nhiên để làm được điều này thì
không phải trách nhiệm của riêng ai mà là của tất cả mọi thành phần trong xã hội.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, cho phép các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước tham gia vào quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế phù hợp với luật pháp
Việt Nam cũng là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.Điều này rất phổ biến hiện nay đơn
cử như có rất nhiều trung tâm ngoại ngữ được thành lập nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi
người giao lưu học hỏi hay có cơ hội kiếm việc tốt hơn.


Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí
thức; có kế hoạch khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các nguồn nhân lực nhân tài cho
đúng. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và

những người chân chính trong các cơ quan công quyền. Không giải quyết được vấn đề
này một cách rõ ràng, thì nhân tài của đất nước sẽ lại "rơi lả tả như lá mùa thu", "vàng
thau lẫn lộn", làm cho những người thật sự có tài năng không phát triển được, trong khi
đó, những người cơ hội, “ăn theo nói leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các cơ quan
công quyền.
Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam,
đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó
mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực ở Việt
Nam, như chính sách hướng nghiệp, chính sách dạy nghề, học nghề; chính sách thu hút
các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn nhân lực cho đất nước;
chính sách đối với các tổ chức NGO có liên quan đến vấn đề nhân tài, nhân lực; chính
sách đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các thành phần kinh tế tham
gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài;
Đối với doanh nghiệp và người lao động
Ở nước ta, mốc quan trọng đánh dấu những thay đổi của doanh nghiệp nhà nước trong
những năm vừa qua là cổ phần hóa. Cổ phần hóa được coi là giải pháp tối ưu tăng tính tự
chủ và hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù chưa có nghiên cứu đánh giá về
việc làm của người lao động tại các doanh nghiệp hậu cổ phần hóa, nhưng vấn đề nổi
cộm tại các doanh nghiệp này là sắp xếp lại, đào tạo lại, tinh giản biên chế,... với số đông
người lao động do không đáp ứng được yêu cầu mới.
Tại sao lại có vấn đề đó? Nhìn trực diện, có thể thấy ngay lý do vì rất nhiều người lao
động có năng lực yếu và không đáp ứng được yêu cầu công việc trong bối cảnh mới.
Nhưng nhìn kỹ lại, lý do quan trọng nhất là do môi trường văn hóa doanh nghiệp trước đó chưa


×