Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Lịch và nông lịch của người thái đen ở sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.38 MB, 151 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNGĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM NGỌC HÀ

LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở
SƠN LA

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Sỹ Giáo

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Lịch và nông lịch của người Thái Đen ở Sơn La” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi, từ kết quả điền dã dân tộc học của bản thân và có
tham khảo các tài liệu khác đã được trích dẫn đầy đủ.
Hà Nội, tháng 09 năm 2015
Tác giả
Phạm Ngọc Hà


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin cảm ơn các thầy, cô trong Khoa Nhân học, Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, đặc biệt là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê
Sỹ Giáo, người đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt cho tôi những kiến thức cơ bản để
tôi hoàn thiện luận văn này.
Trong quá trình điền dã ở Sơn La, ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình tôi đã


nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các ông Cà Văn Chung (Sở Khoa học và
Công nghệ tỉnh Sơn La), nhà thơ Vương Trung (nay đã mất), ông Lò Văn Lả Nguyên là cán bộ Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Sơn La, ông Khà Văn Tiến Nguyên Trưởng phòng văn hóa huyện Mai Châu, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
chân thành tới các ông, các bác. Tôi cũng xin cảm ơn bà con người Thái Đen bản
Cọ, bản Bó phường Chiềng An, thành phố Sơn La, bà con người Thái Trắng xã Mai
Hạ, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình đã cho tôi những tư liệu cổ và hiểu biết thực tế
để hoàn thành bản luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình ông, bà Cà Văn
Chung – Hà Thị Bông đã tạo điều kiện cho tôi cả về vật chất và tinh thần vô cùng
quan trọng trong thời gian tôi tiến hành nghiên cứu thực địa tại địa phương.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình và bạn bè của tôi – những người đã
tạo điều kiện và động viên tôi rất nhiều để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Hà Nội, tháng 9 / 2015
Học viên thực hiện
Phạm Ngọc Hà


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................4
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................6
4. Nguồn tài liệu của luận văn .......................................................................................6
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................7
CHƢƠNG I. ĐẠI CƢƠNG VỀ LỊCH...................................................................18
1.1. Khái niệm lịch và nguồn gốc của lịch ................................................................18
1.2. Những cơ sở của việc làm lịch ...........................................................................21
1.2.1. Cơ sở thiên văn của việc làm lịch và các đơn vị lịch ......................................21

1.2.2. Cơ sở thực tế của việc làm lịch .......................................................................28
1.2.3. Cơ sở tính toán Âm - Dương lịch Việt Nam ...................................................32
1.3. Phân loại lịch ......................................................................................................36
CHƢƠNG 2. LỊCH VÀ KẾT CẤU LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN ...............39
2.1. Sơ lược giới thiệu về tộc người Thái ở Việt Nam..............................................39
2.2. Cơ sở của việc làm lịch Thái ..............................................................................45
2.2.1. Yếu tố nhân sinh quan, tôn giáo, tín ngưỡng và ngũ hành trong việc hình
thành nên lịch Thái ....................................................................................................47
2.2.2. Cách tính lịch cổ xưa của người Thái .............................................................52
2.2.3. Lịch theo Mặt trăng .........................................................................................54
2.2.4. Lịch theo hệ đếm Can, Chi..............................................................................59
2.3. Kết cấu của lịch Thái..........................................................................................64
2.3.1. Giờ (Chơ) ........................................................................................................64
2.3.2. Ngày ................................................................................................................66
2.3.3. Tháng...............................................................................................................68

1


2.3.4. Năm .................................................................................................................70
CHƢƠNG 3. CÁCH TÍCH LỊCH VÀ SỬ DỤNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI
ĐEN ..........................................................................................................................72
3.1. Một số nguyên tắc để ứng dụng lịch ..................................................................72
3.2. Cách tính lịch và sử dụng lịch của người Thái Đen ...........................................74
3.2.1. Xem lịch để làm nhà mới ................................................................................74
3.2.2. Xem tuổi để lấy vợ, gả chồng .........................................................................79
3.2.3. Cách tính lịch theo ngày vào một số công việc khác ......................................80
3.2.4. Một số cách tính ngày cho những công việc khác ..........................................85
3.2.5. Cách xem số phận con người ..........................................................................88
3.2.5.1. Tính theo giờ, ngày, tháng, năm sinh ...........................................................88

3.2.5.2. Xem năm, tháng, ngày, giờ theo giả thiết định sẵn ......................................88
3.2.5.3. Phỏng đoán số phận con người qua trọng lượng theo ngày, tháng, năm
sinh ............................................................................................................................89
3.2.5.4. Xem cẩu cong hõng phữm ...........................................................................90
CHƢƠNG 4. LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở SƠN LA
HIỆN NAY ...............................................................................................................92
4.1. Lịch và nông lịch truyền thống ..........................................................................92
4.1.1. Sử dụng lịch truyền thống ...............................................................................92
4.1.2. Lịch và cách sử dụng lịch của người Thái hiện nay........................................94
4.2. Sức sống của nông lịch Thái ..............................................................................95
4.2.1. Nông lịch truyền thống của người Thái ở Sơn La ..........................................96
4.2.2. Nông lịch của người Thái hiện nay ...............................................................107
CHƢƠNG 5. LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN TRONG SỰ
SO SÁNH VỚI LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI TRẮNG Ở MAI
CHÂU, HÒA BÌNH ...............................................................................................110
5.1. Người Thái ở Mai Châu, Hòa Bình ..................................................................110
5.2. Lịch và cách tính lịch của người Thái Mai Châu .............................................112
5.2.1. Lịch theo hệ đếm Can – Chi..........................................................................112

2


5.2.2. Lịch theo sao Đoi và Mặt Trăng ...................................................................114
5.3. Các đơn vị trong lịch của người Thái Trắng Mai Châu ...................................114
5.3.1. Giờ (Chờ) ......................................................................................................114
5.3.2. Ngày (Mự) .....................................................................................................115
5.3.3.Tháng (Bơn) ...................................................................................................116
5.3.4. Năm (Pi) ........................................................................................................117
5.4. Cách sử dụng lịch trong đời sống hàng ngày ...................................................118
5.4.1. Phương pháp tính ngày tốt xấu theo lịch Cẩu Coong – Háp Hạng – Tsảng

Moong .....................................................................................................................118
5.4.2. Lịch Háp hạng (Ấn định các ngày dở dang ở các tháng trong năm) .................119
5.4.3. Cách tính tuổi lấy vợ, lấy chồng (Lịch tsảng moong) ...................................120
5.4.4. Xem lịch làm nhà mới ...................................................................................120
5.4.5. Xem lịch bằng bảng “Ta – u” ........................................................................121
5.5. Nông lịch của người Thái Mai Châu ................................................................122
5.6. So sánh lịch của người Thái Đen và Thái Trắng .............................................122
KẾT LUẬN ............................................................................................................126
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa, con người sống trên trái đất đã nhận thức được thời gian qua sự
vận động của các thiên thể, đó là bộ máy đồng hồ thiên nhiên. Cơ thể con người
ngay từ khi sinh ra đã thích ứng với hệ thống thời gian thiên nhiên ấy một cách kì
diệu. Với tiếng khóc chào đời, con người bắt đầu một chu trình sống như một đồng hồ
không cần lên giây lại nữa. Cho nên người ta đã nói tới hệ thống thời gian của con
người. Các sinh vật trên Trái đất đều có một hệ thống thời gian thích ứng như vậy. Cây
cỏ, súc vật đều phát triển đúng vào một mùa riêng của mỗi loài giống như một chiếc
đồng hồ báo thức, đúng đến ngày đó nó mới xuất hiện.
Các mùa là nhịp điệu thiên nhiên và của cuộc sống. Sau khi nhận thức được
ngày, tháng thì con người nhận thức được năm qua các mùa. Lịch của con người
phải chỉ được các mùa, trong cuộc sống phải biết ngày này là mùa nào, bao giờ thì
hết mùa nóng, còn bao nhiêu ngày nữa thì đến mùa lạnh, bao giờ đến mùa gieo cấy,
bao giờ đến mùa gặt. Có như vậy mới dự kiến được kế hoạch sản xuất và đời sống.
Ngày xưa, người ta chỉ quan tâm đến lịch vào những ngày đặc biệt như cưới

hỏi, cúng giỗ, làm nhà…Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại khi khoa học, kĩ thuật
đã phát triển thì các phương tiện tính thời gian đã trở nên phổ biến, người ta không
chỉ xem thời gian trên đồng hồ, các loại lịch khác nhau như lịch quyển, lịch block,
lịch treo tường mà một loại phương tiện khác rất hiện đại là điện thoại di động còn
cho chúng ta biết được cả giờ, ngày, tháng và năm. Vì vậy, trong cuộc sống ngày
nay, đồng hồ, cuốn lịch, điện thoại là cần thiết cho mọi hoạt động xã hội.
Ở Việt Nam, nhiều loại lịch khác nhau đều đang được dùng như Dương lịch
(lịch Công giáo, lịch Dương, Tây lịch), Âm – Dương lịch, lịch khí tiết. Việt Nam
cũng là một quốc gia dân tộc với 54 tộc người nên bên cạnh việc dùng một loại lịch
chung Dương lịch thì nhiều tộc người lại sử dụng thêm cả lịch riêng của mình.
Người Thái không chỉ là một tộc người chiếm số đông ở Tây Bắc Việt Nam
mà còn sinh sống rất đông ở Đông Nam Á và Vân Nam, Trung Quốc. Chúng ta đã
biết đến người Thái qua các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể khác nhau như
ngôi nhà sàn, trang phục nữ, các món ăn trong đời sống hàng ngày, múa xòe và các
4


lễ hội truyền thống. Những giá trị đó đã trở nên quen thuộc mà mỗi khi nhắc tới
chúng ta đều nghĩ ngay tới văn hóa Thái. Nhưng có những giá trị văn hóa của người
Thái mà chúng ta chưa biết, cũng chưa được nghiên cứu chuyên sâu hoặc chưa được
biết đến ở mức độ phổ thông nhất. Một trong những thành tựu văn hóa ấy là lịch của
người Thái. Lịch pháp là một sản phẩm sáng tạo loài người. Lịch của người Thái
cũng vậy, nó là một trong những thành tựu văn hóa độc đáo mà cùng với những giá
trị văn hóa khác làm nên bản sắc của một tộc người.
Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thì người Thái có lịch và
cách tính lịch khác với người Kinh (Việt). Lịch của người Thái đã ra đời từ rất lâu
và tồn tại cho đến nay, đã trải qua nhiều năm nhưng nó vẫn có sức sống mãnh liệt
trong đời sống của đồng bào. Ngày nay, lịch Thái không những được phục hồi mà
còn được đồng bào đón nhận và sử dụng cùng với Dương lịch, Âm – Dương lịch
như một loại lịch chính trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt thường ngày.

Khảo sát và nghiên cứu về lịch của người Thái – một giá trị văn hóa, nghệ
thuật đặc sắc không chỉ để thấy được nguồn gốc, cơ sở và kết cấu của lịch Thái mà
còn thấy được sức sáng tạo hết sức thông minh và tài tình của cộng đồng người
Thái ở Tây Bắc Việt Nam.
Đó là lý do để cho tôi lựa chọn đề tài “Lịch và nông lịch của ngƣời Thái
Đen ở Sơn La” cho luận văn này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn của tôi tập trung giải quyết các vấn đề sau:
a. Khảo cứu các nguồn tài liệu để nêu lên những cơ sở của việc làm lịch nói
chung và của Việt Nam nói riêng, từ đó áp dụng và so sánh với lịch Thái để thấy
được cơ sở của việc làm lịch này, thấy được mối liên hệ giữa lịch Âm - dương Việt
Nam với lịch Thái và phần nào hé mở được nguồn gốc lịch của người Thái.
b. Mô tả để thấy được kết cấu của lịch Thái, các hệ thống đo thời gian và đơn
vị đo thời gian trong lịch Thái so sánh với lịch Dương, Âm - Dương Việt Nam.
Cách tính lịch và áp dụng lịch trong các công việc thường ngày.

5


c. Tìm hiểu cách dùng lịch và sử dụng nông lịch trong sản xuất nông nghiệp
trước kia và hiện nay như thế nào để thấy vai trò của lịch Thái trong đời sống cộng
đồng người Thái ở Tây Bắc Việt Nam.
d. Nghiên cứu làm sáng tỏ được sức sống của lịch Thái trong sự tác động của
môi trường kinh tế - xã hội, của sự giao thoa và tiếp biến văn hóa. Tìm hiểu lịch của
người Thái Trắng ở Mai Châu, Hòa Bình để so sánh lịch của người Thái Đen và
Thái Trắng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các vấn đề liên quan đến lịch của gười Thái Đen (cụ
thể là người Thái Đen tại tỉnh Sơn La).
- Phạm vi nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến lịch và nông lịch của người

Thái Đen ở Sơn La. Một phần của phạm vi nghiên cứu đã được nói ở phần mục tiêu
nghiên cứu của luận văn.
- Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu này nhằm mang đến cho bạn đọc những
nét cơ bản nhất về lịch của người Thái Đen vùng Tây Bắc Việt Nam. Vì vậy, địa
bàn nghiên cứu thực địa sẽ được tiến hành tại nơi được coi là quê hương của lịch
Thái – tỉnh Sơn La. Cụ thể là: bản Bó và bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố
Sơn La. Đây là vùng có nhiều người Thái Đen sinh sống và là nơi còn lưu giữ được
nhiều tài liệu cổ bằng chữ Thái về lịch.
Tôi cũng tiến hành nghiên cứu thêm tại một số huyện như Thuận Châu,
Mường La, đó là những huyện mà lịch Thái vẫn còn lưu giữ khá đậm nét trong cộng
đồng tộc người.
Để so sánh sự giống và khác nhau giữa lịch của hai nhóm Thái Đen và Thái
Trắng, tôi nghiên cứu lịch của người Thái tỉnh Hòa Bình, cụ thể là tại bản Lác, thị trấn
Mai Châu và xã Mai Hạ, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
4. Nguồn tài liệu của luận văn
Gồm tài liệu thư tịch và tài liệu điền dã dân tộc học. Nguồn tài liệu thư tịch
là các tác phẩm đã được xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng Thái dịch ra tiếng Việt
của một số cá nhân am hiểu lịch Thái.

6


Nguồn tài liệu thứ hai và quan trọng nhất trong nghiên cứu này là những tư
liệu và tài liệu điền dã dân tộc học được tác giả thu thập trong quá trình nghiên cứu
tại tỉnh Sơn La, tại huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5.1. Những nghiên cứu chung về lịch Việt Nam
Mỗi sự kiện, biến cố xẩy ra trong tự nhiên xã hội đều diễn ra trong không
gian, thời gian nhất định và việc ghi chép thời gian đã là nhu cầu của con người từ
rất xa xưa. Ngay từ thời khoa học kĩ thuật, thiên văn học và toán học chưa phát triển

thì các cách tính lịch thô sơ nhất đã ra đời. Đến khi khoa học về lịch phát triển,
ngành thiên văn trở nên thịnh hành trong giới khoa học thế giới thì các loại lịch ra
đời và phát triển mạnh mẽ. Vì lịch là một trong những yếu tố có ảnh hưởng vô cùng
quan trọng đến hoạt động kinh tế, văn hóa và cuộc sống của con người nên có rất
nhiều công trình khác nhau nghiên cứu về nó. Việc nghiên cứu về lịch ở nước ta tuy
có muộn hơn so với các nước khác nhưng nó cũng đã được nhiều người, nhiều
ngành quan tâm dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi khác nhau. Đó là nguồn tư liệu
quý cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quan về lịch nói chung cũng như những
đặc điểm của lịch, cở sở của việc làm lịch và sự phát triển của lịch nói chung.
Việc nghiên cứu về lịch Việt Nam vào thời cổ đại và phong kiến rất khó
khăn vì tài liệu rất hiếm, thậm chí còn không có sách nào ghi đến lịch pháp. Ngoài
một vài tên lịch dùng trong các triều đại phong kiến Trung Quốc thì các sử gia xưa
không hề hé lộ về lịch pháp, kể cả các nhà đại nho tinh thông toán học như Lê Quý
Đôn, Phan Huy Chú...Điều này cũng dễ hiểu bởi vì trong thời phong kiến lịch pháp
là một bí mật gia truyền, chức lịch quan thường là thế tập, ví như nước ta dưới triều
Nguyễn, ông Hoàng Thiện là người nhậm chức làm lịch cuối cùng thì đã có tổ tiên
mấy đời giữ chức ấy từ thời chúa Nguyễn. Nước ta thời xưa thì Nho học độc tôn mà
Nho học thì lại không học toán, muốn học toán, học lịch thì cũng không có thầy,
không trường và không sách. Lịch thư là một thứ cấm lưu truyền, thế cho nên các
sứ thần nước ta thời xưa có mua được sách ấy ở Trung Quốc thì cũng phải giấu
mang về. Hơn nữa, sử sách nước ta thời xưa rất ít ghi chép về lịch pháp. Các triều

7


đại phong kiến nước ta về cơ bản đều dùng lịch của Trung Quốc. Coi lịch như thứ
trời ban để cho dân làm nông vụ, cày cấy cho đúng lúc, cử hành tế lễ kị kì, nên chỉ
có vua mới có quyền ban lịch. Hàng năm, vua làm lễ ban Sóc, tức là ban lịch cho
thần dân.
Cho đến nay, nghiên cứu về lịch pháp Việt Nam sớm nhất và công phu nhất

có lẽ là các công trình nghiên cứu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Trên báo Khoa học
năm 1942 – 1944, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã đăng ba bài nghiên cứu: “Đổi năm
âm lịch và dương lịch”, “Đổi ngày Tây lịch và Can chi”, “Lịch và lịch đời Lê”. Sau
khi sang định cư tại Paris, Pháp ông có tìm tài liệu và nghiên cứu thêm về lịch Việt
Nam, đến năm 1982 ông đã tổng kết những bài nghiên cứu trên cùng những bài
khác in trong “Lịch và lịch Việt Nam” trong Tập san Khoa học xã hội (Số đặc biệt)
của Hội người Việt Nam tại Pháp. Đây là một trong những tác phẩm rất có ý nghĩa
đối với việc nghiên cứu lịch ở Việt Nam bởi vì lần đầu tiên trong cuốn sách này
giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dựa vào các âm tố “ngày, tháng, trăng” để đưa ra ý
kiến rằng ngày xưa nước ta đã dùng âm lịch, đó là loại lịch mà tháng có 29 – 30
ngày. Bằng việc đối chiếu, so sánh và đưa ra các bảng đổi ngày giữa âm lịch và âm
dương lịch ông đã đưa ra các điểm khác nhau giữa lịch ta và lịch Trung Quốc và
khuyến khích mọi người dùng âm dương lịch cải tiến. Các công trình nghiên cứu
của giáo sư Hoàng Xuân Hãn có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho việc nghiên cứu và
soạn lịch pháp ở Việc Nam sau này, điển hình như Giáo sư Nguyễn Xiển, ông Lê
Thành Lân là những người trực tiếp kế thừa những thành quả đó để nghiên cứu và
soạn lịch cho nước ta.
Lịch là một trong những phát minh vĩ đại của loài người nên việc ra đời của
lịch dựa trên rất nhiều cơ sở khác nhau. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về
lịch ở Việt Nam nói chung đều đề cập đến một trong những lĩnh vực quan trọng
nhất đó là cơ sở ra đời của lịch mà cụ thể ở đây là cơ sở thiên văn. Trước hết, phải
kể đến những công trình của các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về lịch như “Lịch
Việt Nam thế kỉ XX – XXI (1901 – 2100)” của tác giả Trần Tiến Bình và PGS.TS Lê
Thành Lân với “Lịch hai thế kỉ (1802 – 2010) và các lịch vĩnh cửu”. Hai tác giả

8


cùng là những người nghiên cứu về lịch của Việt Nam đều cho rằng thiên văn là cơ
sở quan trọng của việc làm lịch và đã chỉ ra những cở sở thiên văn cơ bản nhất để

làm nên lịch ngày nay. Cả hai tác giả cùng nói tới sự chuyển động biểu kiến của mặt
trời, chuyển động của mặt trời và mặt trăng cùng với trái đất là những cơ sở quan
trọng nhất để chỉ ra được các đơn vị thời gian lịch – đó là một phần quan trọng của
lịch. Đơn vị cơ bản của lịch là: ngày – tháng – năm và các đơn vị của thời gian và lịch
pháp được tính như thế nào cũng được các hai tác giả phân tích cặn kẽ. Đặc biệt,
trong phần “Cơ sở tính toán lịch Việt Nam” tác giả Trần Tiến Bình đã cho chúng ta
biết được trong từng thời kì lịch sử khác nhau, người Việt Nam đã dùng loại lịch nào,
tác giả cũng nói đến một loại lịch của người Việt cổ mà cụ thể là lịch tre của người
Mường còn tồn tại đến ngày nay, rất tiếc rằng tác giả đã không nghiên cứu chuyên
sâu vào vấn đề này. Phần quan trọng nhất, tác giả đã nêu ra được quy tắc để tính toán
lịch Âm - Dương Việt Nam là sự kết hợp giữa Âm lịch và Dương lịch.
Dù ít hay nhiều nhưng hai cuốn sách trên cũng đã cung cấp cho độc giả
những kiến thức cơ bản nhất về cơ sở thiên văn của lịch pháp, đã chỉ ra được những
điểm khác nhau giữa lịch Công giáo (lịch Dương) và Âm - Dương lịch Việt Nam.
Đó là những kiến thức nền tảng để người nghiên cứu hiểu rõ hơn cơ sở làm lịch của
người Thái ở Tây Bắc Việt Nam.
Mỗi con người Việt Nam ít nhiều đều biết đến Âm - Dương lịch mà chúng ta
vẫn quen gọi là Âm lịch. Dù Âm - Dương lịch có được du nhập từ Trung Quốc
nhưng lịch nước ta vẫn có điểm khác, vì hai nước ở hai múi giờ khác nhau và vì lịch
nước ta phù hợp với môi trường, khí hậu Việt Nam. Vì vậy, các công trình nghiên
cứu về Âm - Dương lịch Việt Nam và sự khác nhau giữa lịch Việt Nam và lịch
Trung Quốc không phải là ít. “Lịch Âm Dương Việt Nam 1900 – 2010” của tác giả
Nguyễn Văn Chung là một công trình khá đồ sộ, điều đặc biệt là công trình được
hoàn thành khi tác giả đang bị bệnh nặng, những nỗ lực của tác giả đã mang đến
cho độc giả một cái nhìn khá toàn diện về lịch sử dụng ở Việt Nam. “Âm Dương
lịch Việt Nam” trọng tâm nghiên cứu về Cấu trúc và ứng dụng Lịch Âm Dương Việt
Nam từ năm 1900 đến năm 2010 nhưng tác giả cũng đã giới thiệu sơ lược về lịch

9



Dương, lịch Âm, lịch Âm - Dương để độc giả thấy được sự khác nhau giữa ba loại
lịch này, đồng thời với việc nêu đặc điểm của các loại lịch tác giả cũng nêu lên ưu,
nhược điểm của chúng. Riêng phần giới thiệu về lịch Âm - Dương, ông Nguyễn
Văn Chung còn nêu lên các quy tắc để tính những năm có tháng nhuận trong lịch
của nước ta, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những người nghiên cứu về Âm Dương lịch mà còn phù hợp để tính được các ngày lễ cổ truyền của dân tộc. Nếu
như hai tác giả Trần Tiến Bình và Lê Thành Lân đã nói đến cấu trúc đơn giản nhất
của lịch Âm – Dương Việt Nam thì tác giả Nguyễn Văn Chung, ngoài việc đưa ra
một cấu trúc đầy đủ nhất của lịch Âm - Dương như ngày âm, ngày dương, năm,
tháng âm, tháng dương còn đưa ra hệ đếm Can Chi, nhị thập bát tú, 12 trực – đó là
yếu tố không thể thiếu được trong cấu trúc của Âm - Dương lịch…để gọi tên các
thời gian trong lịch. Điều đáng nói là trong phần này, tác giả không chỉ nêu lên một
cách đơn thuần cấu trúc của lịch mà từ những đơn vị thời gian lịch ông đã tìm tòi và
phát hiện được một số quy luật cổ Phương Đông gắn liền với các yếu tố thời gian
đó, ông đã nêu lên được mối liên hệ giữa Cửu tinh năm, Hà Đồ và Lạc Thư….
Khi bàn về lịch, ngoài những vấn đề như cơ sở để làm lịch, cấu trúc, cách
tính lịch trong sản xuất và sinh hoạt thì nó còn nảy sinh nhiều vấn đề khác như dùng
loại lịch nào thì tốt, lịch nào cho phù hợp với từng loại công việc riêng. Nước ta nên
dùng loại lịch nào và dùng như thế nào là đề tài tranh luận sôi nổi của các nhà khoa
học mà đầu tiên là từ chính các nhà soạn lịch. Giáo sư Nguyễn Xiển với “Vì sao nên
dùng Dương lịch”, “Tìm hiểu Âm lịch nước ta” của Nguyễn Mậu Tùng, rồi “Lịch và
thời gian” của Nha khí tượng Việt Nam…Các tác giả đã phân tích âm lịch, dương
lịch và âm dương lịch ở Việt Nam để thấy được ưu, nhược điểm của từng loại lịch.
Có người thì khuyến khích dùng Dương lịch để phù hợp với bang giao quốc tế, có
người thì khuyên dùng âm lịch vì nó mang tính cổ truyền, mang bản sắc văn hóa
dân tộc và nhất là nó phù hợp với các ngày lễ lớn của dân tộc như Tết nguyên đán,
Giỗ tổ Hùng Vương…cũng có nhà khoa học cho rằng nếu so sánh âm lịch và âm
dương lịch thì âm dương lịch tốt hơn nhiều nhưng trong nông nghiệp thì không nên
dùng âm dương lịch vì rất bất tiện cho sản xuất. Dù các nhà khoa học còn đưa ra


10


những ý kiến đánh giá ý nghĩa của từng loại lịch trên nhiều phương diện khác nhau,
dù nó tốt hay xấu thì những ý kiến và quan điểm đó là nền tảng để cho việc soạn
một thứ lịch chung dùng cho nước ta được dễ dàng hơn.
Người Việt có câu: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Tâm lý chung của
xã hội loài người là tìm điều lành, tránh điều dữ, đó chính là nguồn gốc của các loại
hình tôn giáo, các loại hình bói toán và thuật chọn ngày lành dữ. Cũng chính từ
những nhu cầu đó mà thuật chiêm tinh cổ xưa nhất con người đã hình thành nên một
loại lịch phục vụ cho nhu cầu trên đó chính là lịch Vạn niên. Ở nước ta, thì tục chọn
giờ, xem ngày tốt xấu ngày càng trở nên thịnh hành, đặc biệt là những người giàu có
thì càng xem trọng. Vì thế, lịch Vạn niên và những người hành nghề bói toán, xem
ngày càng nhiều hơn. Những công trình nghiên cứu về lịch vạn niên ở nước ta phần
lớn đều có xuất xứ từ Trung Quốc, như Bàn về lịch Vạn niên của Tân Việt, Thiều
Phong…Những tác phẩm đó không những phục vụ cho nhu cầu của đại chúng mà
còn phục vụ cho những người nghiên cứu về lịch Việt Nam nói chung và lịch Thái
nói riêng.
Có một điều không thể phủ nhận được là, những nghiên cứu về lịch trong
những năm gần đây thường mang mục đích phục vụ xã hội như lịch vạn niên, lịch
vạn sự, Âm - dương đối lịch…Đó cũng là ý nghĩa quan trọng nhất của lịch trong
cuộc sống hiện đại. Về lĩnh vực này thì có nhiều tác phẩm, nhiều công trình của
nhiều tác giả và các nhà xuất bản khác nhau. Tiêu biểu như tác giả Lê Quý Ngưu
với “Lịch Vạn niên” gồm ba tập, do nhà xuất bản Văn hóa thông tin xuất bản năm
2004, “Bàn về lịch vạn niên” của hai tác giả Tân Việt và Thiều Phong, xuất bản
qua các năm 1999, 2000 của nhà xuất bản Văn hóa dân tộc…Những ấn phẩm đó
được in ấn rất nhiều đáp ứng nhu cầu hàng ngày của mọi tầng lớp trong xã hội.
Người muốn xem lịch để chọn ngày tốt xấu, quy đổi ngày âm lịch, dương lịch một
cách dễ dàng mà ít khi phải nhờ đến thầy bói.
Qua việc khảo cứu các nguồn tài liệu về lịch pháp nói chung ta thấy với

những công trình nghiên cứu ở thế kỉ XX trở về trước thì chủ yếu là bàn về nguồn
gốc các loại lịch, cơ sở để làm lịch và một phần liên quan đến cách tra ngày, đổi

11


ngày như công trình của Giáo sưu Hoàng Xuân Hãn, Lê Thành Lân, Trần Tiến
Bình… Cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, phần lớn các công trình nghiên cứu về lịch
là lịch vạn niên, Âm – Dương đối lịch như của ông Lê Quý Ngưu, Nguyễn Văn
Chung…
Hơn nữa, khi nghiên cứu về lịch nhiều tác giả lưu ý đến các ưu, nhược điểm
của từng loại lịch khác nhau để mỗi người biết nên chọn loại lịch nào dùng cho
thích hợp như Nguyễn Xiển, Nguyễn Mậu Tùng…
Các nghiên cứu đều tập trung nói về lịch pháp chung trên thế giới và lịch
Việt Nam mà dường như không quan tâm lắm đến các loại lịch cổ truyền của các
tộc người thiểu số ở Việt Nam. Chỉ có một số bài viết ngắn, nhỏ nói về lịch của các
dân tộc thiểu số như lịch của người mường Bi ở Hòa Bình của tác giả Kiều Bá Mộc,
lịch Thái ở Sơn La của tác giả Lò Văn Lả. Tôi sẽ phân tích kĩ hơn ở phần ngay sau
đây.
5.2. Những nghiên cứu về ngƣời Thái và lịch của ngƣời Thái
Cho đến nay nguồn tư liệu về người Thái ở Việt Nam nói chung và người
Thái ở Tây Bắc nói riêng rất phong phú. Nó không chỉ được đăng tải trên sách, báo,
các tạp chí chuyên khảo mà còn đăng tải trên các báo mạng. Tuy nhiên, cho đến nay
những nghiên cứu về lịch của người Thái rất ít, nếu không nói là rất ít người biết
đến. Các nhà nghiên cứu về văn hóa Thái ở Việt Nam cũng chỉ đề cập đến một chút
trong các công trình nghiên cứu của mình.
Cuốn “Tư liệu về Lịch sử và xã hội dân tộc Thái” do Đặng Nghiêm Vạn
(Chủ biên) cùng các tác giả Cầm Trọng, Khà Văn Tiến, Tòng Kim Ân sưu tầm, xuất
bản năm 1977 là tác phẩm dịch và công bố những tư liệu cổ về người Thái còn lưu giữ
đến ngày nay, có các tác phẩm nổi tiếng như Truyện kể bản Mường (Quăm Tô Mương),

Lai lịch dòng họ Hà Công, Luật Mường, Lệ Mường…Có một điều đáng chú ý là trong
phần “Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu (Sơn La)” các tác giả nói đến một cách
tính lịch của người Thái Đen. Cũng giống như các nghiên cứu trước đều đưa ra kết luận
rằng người Thái có cách tính lịch mà chênh với Âm lịch 6 tháng. Tuy nhiên tác giả
Đặng Nghiêm Vạn không chỉ đưa ra cách tính năm, tháng của lịch Thái mà còn so sánh

12


nó với lịch Âm, xem nó giống và khác nhau ở chỗ nào. Theo tác giả thì cách tính tháng
của người Thái còn giống với lịch ở Miến Điện từ thế kỉ XI – XIII. Dù những nghiên
cứu về lịch của tác giả còn ít nhưng đó là những tư liệu quý lại cho thế hệ sau [41, tr.
44] .
Năm 1978, nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn: “Người Thái ở Tây
Bắc Việt Nam” của tác giả Cầm Trọng. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện
về người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, từ quá trình hình thành tộc người Thái đến các
hoạt động kinh tế, văn hóa, thiết chế xã hội, bản mường, đã cung cấp cho bạn đọc
một cái nhìn toản cảnh về cộng đồng người Thái ở Tây Bắc. Mặc dù không được
nhắc tới nhiều và tác giả cũng không giải thích thêm nhưng trong phần Các hoạt
động kinh tế ông cũng nhắc tới một thứ gọi là lịch Thái: “…Mùa nóng, mùa mưa ở
Tây Bắc bắt đầu từ tháng 5, 6 đến tháng 10 dương lịch. Theo lịch cổ truyền còn lưu
lại ở vùng người Thái Đen thì bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 – chúng tôi gọi tắt là
lịch Thái. Đặc điểm nổi bật của mùa này là thời tiết oi bức, mưa to, kéo dài và độ
ẩm cao…Đỉnh cao của mùa mưa thường vào các tháng 6, 7, 8 (10, 11, 12 của lịch
Thái), mưa như vậy hẳn phải gây ngập lụt…” [35, tr. 84 – 85]. Tuy tác giả chỉ giới
thiệu sơ qua về lịch trong phần khí hậu của miền Tây Bắc mà không nói rõ hơn về
nguồn gốc, cách tính lịch của người Thái nhưng đó cũng là gợi mở cho những thế
hệ sau tiếp tục nghiên cứu.
Đến năm 1992, vấn đề lịch Thái dường như được hé mở với các nhà nghiên
cứu và độc giả khi cuốn “Kỉ yếu Hội Thảo Thái học lần thứ nhất (25 – 26/ 11/

1991)” được in và xuất bản. Trong Kỉ yếu này, ông Lò Văn Lả - cán Đài Phát
thanh và Truyền hình tỉnh Sơn La đã có một bài giới thiệu về lịch của người Thái
Đen ở Sơn La. Bằng những tài liệu cổ của người Thái Đen ở thành phố Sơn La và
huyện Thuận Châu, ông Lò Văn Lả đã giới thiệu đến bạn đọc về lịch, tên gọi và
cách sử dụng trong đời sống hàng ngày như làm nhà mới, cưới vợ, cưới
chồng…Tiếp tục với những nghiên cứu về lịch Thái, đến năm 1998 ông Lò Văn
Lả giới thiệu với bạn đọc lịch Thái (phần II) trong cuốn: “Văn hóa và lịch sử
người Thái ở Việt Nam”, xuất bản năm 1998. Tuy nhiên, tác giả chỉ giới thiệu lịch

13


Thái ở phương diện áp dụng lịch trong các công việc thường ngày mà lại chưa đề
cập đến nguồn gốc, cơ sở và kết cấu của lịch Thái.
Cuốn “Văn hóa Thái Việt Nam” của hai tác giả Cầm Trọng và Phan Hữu Dật
xuất bản năm 1995 không chỉ nghiên cứu về văn hóa Thái Việt Nam ở rất nhiều các
góc độ khác nhau như kinh tế, văn học, tín ngưỡng mà còn nghiên cứu văn hóa Thái
đặt mối quan hệ với văn hóa các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme ở Tây Bắc
và một số dân tộc ở miền Bắc Việt Nam để thấy được sự giao lưu và tiếp biến văn
hóa giữa những tộc người này. Đặc biệt ở Chương VI: phần Văn hóa hệ thống tư
tưởng và tri thức hai tác giả có giới thiệu một số văn tự của người Thái còn lưu giữ
đến ngày nay. Cuốn Pặp mự (Quyển ngày) – Đây là cuốn sách lịch và cách thức
xem giờ, ngày tháng, năm lành dữ tốt xấu của người Thái gồm ba nội dung lớn: “a.
Hệ thống tính giờ, ngày, tháng, năm và năm theo can, chi; b. Xem số mệnh cho mỗi
người và cuối cùng là c. Xem ngày, giờ tốt xấu và thời tiết của từng năm” [37, tr.
392]. Mặc dù chỉ mang tính chất giới thiệu một quyển sách xem ngày của người
Thái nhưng cũng cung cấp cho người đọc những nét cơ bản nhất của lịch Thái như
tên gọi giờ, tháng, năm trong lịch Thái, cách xem ngày tốt xấu, đó cũng là một phần
trong kết cấu của lịch Thái.
Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Đặng Nghiêm Vạn khi nghiên cứu về người Thái

ở Việt Nam đã cố gắng đưa ra một bức tranh toàn diện nhất với đầy đủ các gam
màu về người Thái và văn hóa Thái ở Tây Bắc. Trong các nghiên cứu của họ đều đã
nhắc đến một thứ lịch riêng của người Thái nhưng lại chưa đưa ra một cách đầy đủ,
vì vậy vấn đề này vẫn còn là một ẩn số cho những người nghiên cứu về người Thái
ở Việt Nam.
Ngoài những nghiên cứu về lịch Thái dưới góc độ dân tộc học, sử học còn
có những nghiên cứu về lịch của người Thái đen với những tác phẩm văn học như:
“Tìm hiểu văn học dân tộc Thái ở Việt Nam” của tác giả Cầm Cường, xuất bản
năm 1977. Hoàng Trần Nghịch (sưu tầm và biên dịch) với “Lời có vần ông cha
truyền lại” – công trình kỉ niệm 110 năm thành lập tỉnh Sơn La, xuất bản năm
2005. “Tục ngữ Thái” do Hà Văn Năm, Cầm Thương, Lò Văn Sĩ, Tòng Kim Ân

14


(biên soạn và dịch) năm 1978; truyện ngắn “Lũ muộn” của nhà văn Nguyễn Anh
Tuấn…Tuy rằng những tác phẩm ấy không phải là những tác phẩm nghiên cứu
chính thống về lịch Thái nhưng nó tập hợp những câu ca dao, tục ngữ, lời răn dạy
của người Thái về thời tiết, khí hậu, về nông vụ và những kinh nghiệm tích lịch cổ
điển của người Thái.
Năm 2010, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trí Dõi cùng với tác giả Nguyễn Văn Hòa
cũng đã đề cập đến một loại lịch của người Thái trong cuốn “Tiếng Thái cơ sở Tiếng Thái Đen vùng Tây Bắc”. Tuy nhiên, trong công trình này, tác giả chỉ nhắc
đến hai đơn vị cơ bản của lịch Thái đó là tháng và năm mà chưa đề cập đến phần
nguồn gốc, cơ sở tính và những kiêng kị của lịch Thái.
Từ năm 2011 trở đi nhờ Dự án “Công bố và phổ biến tài sản văn hóa - văn
nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam” mà một số cuốn sách nghiên cứu về lịch Thái
đã ra đời. Tiêu biểu như cuốn “Lịch và những kiêng kị của người Thái Mường So”
của tác giả Nông Văn Nảo. Tác giả của cuốn sách đã sưu tầm và giới thiệu đến
người đọc bản lịch âm của người Thái xã Mường So, huyện Phong Thổ, Lai Châu,
phương pháp tính ngày tốt - xấu, cách chọn ngày thích hợp cho việc chài lưới, bẫy

thú và những kiêng kị trong đời sống hàng ngày của đồng bào Thái Mường So.
Năm 2012, cuốn “Người Thái đen cách tính lịch và xem ngày giờ lành” của tác giả
Nguyễn Văn Hòa ra đời. Ở cuốn sách này tác giả không giới hạn vùng nghiên cứu ở
một địa bàn nhỏ như ông Nông Văn Nảo mà đã mở rộng địa bàn ra cả vùng Tây
Bắc từ đó tác giả đã đưa ra cách tính lịch, cách xem số tử vi của đồng bào Thái
vùng Tây Bắc rất chi tiết về cách tính ngày làm nhà, cưới hỏi, đi săn, xem tử vi con
người...Trong cả hai cuốn sách trên các tác giả đều có nhắc tới sự khác biệt giữa
lịch Thái và bản âm lịch của người Việt nhưng chưa tác giả nào nghiên cứu sâu về
nguồn gốc, cơ sở của việc làm lịch Thái.
Các nghiên cứu ở trên chỉ trọng tâm nghiên cứu về lịch của người Thái Đen
và Thái Trắng vùng Tây Bắc Việt Nam, còn người Thái ở Thanh Hóa, Nghệ An thì
sao. Họ có dùng lịch riêng như người Thái ở Tây Bắc hay không. Điều này đã được
tác giả Nguyễn Doãn Nga trả lời ở phần Phép tính lịch của người Thái Nghệ An in

15


trong cuốn Văn hóa dân tộc thiểu số Nghệ An do Phan Đăng Nhật chủ biên. Vũ
Trường Giang với “Lịch của người Thái ở miền núi Thanh Hóa” trên Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật năm 2007.
Như vậy ta thấy, trong khi các công trình nghiên cứu về lịch pháp nói chung,
lịch Âm - dương, lịch vạn niên nói riêng thì chiếm một số lượng lớn và có lịch sử
nghiên cứu lâu đời thì các nghiên cứu về lịch của đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là
lịch của người Thái Đen lại thiếu vắng. Vấn đề này hiện nay đang được một số nhà
khoa học nghiên cứu nhưng mới chỉ là ở vấn đề sưu tầm và giới thiệu đến bạn đọc chứ
chưa có một nghiên cứu mang tính chuyên sâu.
Trên cơ sở khảo cứu, kế thừa tiếp thu những thành quả nghiên cứu của thế hệ
trước giúp ích cho nghiên cứu của mình như các tài liệu về lịch pháp, cơ sở để làm lịch,
các nguồn tài liệu về người Thái ở Việt Nam), cũng như xuất phát từ thực tiễn là sự hồi
sinh và phát triển của lịch Thái trong cộng đồng người Thái ở Tây Bắc hiện nay. Đặc

biệt là xu hướng bảo tồn các tri thức và văn hóa bản địa của các tộc người đã nảy sinh
trong tôi ý tưởng nghiên cứu về lịch Thái – một di sản văn hóa đặc sắc, ý thức của
người Thái về việc bảo tồn một giá trị văn hóa của riêng mình. Vì vậy, nghiên cứu của
tôi đặt sự phát triển và tồn tại của lịch Thái trong đời sống cộng đồng, trong sự chuyển
hóa chung về kinh tế, văn hóa và sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với luận văn này, tôi sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành để thu thập
tài liệu. Thêm vào đó, tôi cũng sử dụng các phương pháp chính sau đây:
Phương pháp khảo sát, điền dã dân tộc học: quan sát để miêu tả, chụp
ảnh, nghiên cứu thực trạng và thu nhập tài liệu cấp một (bằng cách phỏng vấn
sâu, sử dụng bảng hỏi…). Điền dã là một phương pháp quan trọng nhất trong
nghiên cứu nhân học. Khác với các khoa học xã hội khác, nhân học đặc biệt
nhấn mạnh vào nghiên cứu thực địa như là nguồn kiến thức mới quan trọng
nhất từ xã hội và văn hóa.
Khảo cứu các nguồn tài liệu liên quan đến lịch pháp để tìm hiểu về nguồn
gốc và cơ sở của việc làm lịch. Từ những kiến thức cơ bản về lịch pháp như vậy tôi

16


tiếp tục sử dụng phương pháp điền dã dân tộc học để thu thập thông tin từ các
nguồn tư liệu cổ của người Thái còn lưu giữ đến ngày nay. Cũng giống như các
thông tin cơ bản về lịch pháp chung, đối với lịch của người Thái Đen ở Sơn La tôi
cũng phải thu thập thông tin như những cơ sở để làm lịch, kết cấu và cách sử dụng
lịch Thái trong truyền thống. tác giả Cầm Trọng và Giáo sư Phan Hữu Dật đã nói:
“…Chủ chuyên xem những quyển xem ngày của người Thái phải là những người
biết nhìn nhận và phán đoán giỏi nên được xã hội tôn là ông Mo Ngày (Po mự)
hoặc nếu là đàn bà thì được gọi là Bà ngày (Mẹ vên)” [37, tr. 398]. Nghĩa là, việc
xem ngày và tính lịch của người Thái chỉ có những người đặc biệt mới biết, mỗi bản
chỉ có một người và nó mang tính chất “gia truyền” nên để thu nhận được thông tin tôi

bắt buộc phải tìm đến các tư liệu cổ của người Thái còn giữ được đến ngày nay. Để có
được thông tin về cách thức sử dụng lịch Thái trong đời sống hàng ngày và sản xuất
nông nghiệp ngày nay tôi tiến hành điều tra theo hộ gia đình với cả hai kĩ năng định
tính và định lượng. Các thông tin thu được sẽ giúp chúng ta thấy được vai trò và tác
động của lịch Thái đến đời sống cộng đồng người Thái Đen ở Sơn La. Với cách tiếp
cận định lượng chúng tôi sẽ lấy hộ gia đình làm đối tượng nghiên cứu trọng tâm, từ đó
sẽ thu thập các số liệu thống kê về số hộ dùng lịch Thái, số hộ dùng Âm - dương lịch
và số hộ dùng cả hai loại lịch trên.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Danh mục tài liệu tham khảo và phần Phụ lục,
luận văn này gồm năm chương chính:
Chương 1: Đại cương về lịch.
Chương 2: Lịch và kết cấu lịch của người Thái Đen ở Sơn La.
Chương 3: Cách tính lịch và sử dụng lịch của người Thái Đen.
Chương 4: Lịch và nông lịch của người Thái ở Sơn La hiện nay.
Chương 5: Lịch và nông lịch của người Thái Đen ở Sơn La trong sự so sánh với lịch
của người Thái Trắng ở Mai Châu, Hòa Bình.

17


CHƢƠNG I. ĐẠI CƢƠNG VỀ LỊCH
1.1.

Khái niệm lịch và nguồn gốc của lịch
Mỗi sự kiện, biến cố xảy ra trong tự nhiên hay xã hội đều diễn ra trong một

không gian và thời gian nhất định và ghi chép thời gian như một nhu cầu từ rất xa
xưa của con người. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì lịch là:
“Lịch là một hệ thống tổ chức, ghi chép thời gian theo cách thuận tiện cho

việc điều tiết các công việc dân sự, các nghi lễ tôn giáo cũng như cho các mục đích
lịch sử và khoa học”.
Ngày nay, từ lịch trong tiếng anh là “Calendar”, từ này bắt nguồn từ chữ
Caledae hay Kaledae trong tiếng La tinh có nghĩa là ngày đầu tiên của tháng La mã,
ngày người ta công bố thời biểu tổ chức các phiên chợ, lễ hội hay các sự kiện khác
[1, tr. 22].
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì có một định nghĩa hết sức ngắn gọn: “Lịch là
phép quy định những khoảng thời gian có những tên quen thuộc: năm – tháng –
ngày” [10, tr. 5].
PGS.TS Lê Thành Lân định nghĩa: “Lịch là một hệ thống ghi các khoảng
thời gian dài như ngày, tuần lễ, tháng, mùa, quý, năm, thập niên, thế kỉ, thiên niên
kỉ…các khoảng thời gian ngắn hơn như giờ, phút, giây…thì được đo bằng đồng hồ
[18, tr. 21].
Có thể nói: Lịch là hệ thống đơn vị dùng để đo đếm thời gian theo một
phương pháp nhất định, lấy các hiện tương thiên văn làm chuẩn mực cơ bản để
tính toán, nhằm phản ánh các quy luật, nhịp điệu của tự nhiên, phục vụ đời sống
và xã hội.
Như vậy, lịch không phải là bản thân thời gian mà là thước đo thời gian.
Nó chỉ ra vị trí vận động trên quỹ đạo của Trái đất giữa các thiên thể và mối quan
hệ phức tạp giữa chúng, thông qua sự biểu hiện sáng tối, sự thay đổi pha Mặt trăng,
khí hậu và chu kỳ nhật nguyệt thực… Không giống các đơn vị đo lường khác, để
tính lịch đòi hỏi người ta phải có một cách thức nhất định gọi là lịch pháp. Lịch pháp

18


là phương pháp làm lịch, tính lịch được hình thành trên nhiều cơ sở khác nhau mà quan
trọng nhất là toán học, thiên văn và thực tế.
Lịch xuất hiện từ khi nào?
Hiện chúng ta biết rất ít về việc đo đạc, ghi chép thời gian trong thời tiền sử,

nhưng từ các di vật khảo cổ ở mọi nền văn hoá đều phát hiện thấy dấu vết của việc
này. Sau đây là một số tư liệu về sự hình thành lịch ở một số vùng trên thế giới.
Châu Âu : thời kỳ băng hà cách đây hơn 20 nghìn năm các thợ săn ở châu Âu
đã khắc các vạch lên thân gỗ và xương, có thể bằng cách này họ dùng để đếm các
ngày trong tuần trăng. Các cột đá tại nước Anh (Stonehenge) được xây dựng cách
đây hơn 4000 năm có lẽ đã được sắp xếp nhằm xác định một số thời điểm đặc biệt
liên quan đến mùa và hiện tượng thiên văn như ngày chí, nguyệt thực… Tại Hy Lạp
các bản di vật bằng đất sét thế kỷ 13 trước CN hay những ghi chép của Homer và
Hesiod cho thấy người cổ Hy Lạp sử dụng lịch Mặt trăng (lịch âm), các tháng bao
gồm 29 và 30 ngày xen kẽ nhau. Đến thế kỷ thứ 6 trước CN các nhà thiên văn học
Hy Lạp đã đề nghị một lịch chính xác hơn bằng cách chèn thêm 3 tháng vào mỗi
chu kỳ 8 năm. lịch chu kỳ 8 năm này vẫn tiếp tục được sử dụng ở Hy Lạp mặc dù
sau đó đã có thêm hai phát hiện đáng chú ý: Khoảng năm 433 trước CN nhà thiên
văn học Meton ở Aten tìm thấy 19 năm mặt trời (chu kỳ meton) vừa bằng 235 tuần
trăng và vào năm 130 trước CN Hipparchus quan sát thấy năm mặt trời không phản
ánh chính xác bằng 365,25 ngày. Ở La Mã vào khoảng thế kỷ thứ 7 hoặc thứ 8
trước CN nhà cai trị thành Rome đầu tiên là Romulus đưa vào sử dụng loại lịch gồm
10 tháng, 6 tháng 30 ngày và 4 tháng 31 ngày, tổng cộng 304 ngày, năm khởi đầu
vào tháng 3.
Sau này lịch La Mã tiếp tục được cải tiến dưới các thời Numa Pompilus
(715-613 trước CN) và Etruscan Tarquinius Priscus (năm 616-579 trước CN, nó có
tên là lịch cộng hoà La Mã. Tuy ở lịch này năm (365,25 ngày) dài hơn năm mặt trời
một ngày nhưng nhiều yếu tố của lịch cộng hoà La Mã đã được đưa vào lịch
Gregorius thông dụng hiện nay.

19


Trung Cận Đông: tại Ai Cập cách đây hơn 10 nghìn năm, vào thời kỳ đầu
nền văn minh của mình, người Ai Cập cổ đã sử dụng lịch bao gồm 12 tháng mỗi

tháng 30 ngày (một năm dài 360 ngày). Nhưng sau đó họ nhận ra rằng sao Thiên
Lang (Sirius) ở chòm sao Đại Khuyển (Canis Major) cứ sau 365 ngày thì mọc cạnh
mặt trời, lúc sông Nin bắt đầu chu kỳ ngập lụt hàng năm. Dựa trên điều này Ai Cập
làm ra lịch 365 ngày, lịch này có lễ bắt đầu vào năm 4236 trước CN năm được ghi
nhận sớm nhất trong lịch sử. Còn ở vùng Lưỡng Hà, thung lũng sông TigrisEuphrate (Irắc), cách đây 5000 năm người Xume dùng lịch chia năm thành các
tháng 30 ngày, chia ngày thành 12 khoảng (tương đương với 2 giờ) và mỗi khoảng
này chia ra 30 phần (bằng 4 phút). Cũng ở Irắc, vào khoảng 2000 năm trước CN
người Babylon sử dụng lịch mặt trăng gồm 12 tháng xen kẽ 29 và 30 ngày . Sau đó,
khoảng năm 380 trước CN, lịch này trở nên tinh xảo hơn khi trong lịch đã có sự kết
hợp giữa tuần trăng với thời tiết. Điều này được thực hiện bằng cách chèn thêm 7
tháng nhuận vào chu kỳ 19 năm chu kỳ 19 năm trùng với chu kỳ Meton của nhà
thiên văn học người Hy Lạp. Không rõ người Babylon cùng tìm ra chu kỳ Meton
hay tiếp thu nó từ người Hy Lạp, tuy nhiên lịch này được chấp nhận ở Hy Lạp và
các thuộc địa của La Mã cho đến năm 75 sau CN. Lịch sớm nhất của người Do Thái
có lẽ là lịch Gezer ở thời kỳ vua Solomon, khoảng cuối thế kỷ thứ 10 trước CN, sau
đó người Do Thái cổ sử dụng lịch của người Babylon (587 trước CN).
Nam Á và Viễn Đông: ở Việt Nam hiện còn lưu giữ một thứ lịch của người
Mường gọi là lịch tre, lịch này gồm 12 thanh tre ghi lại 12 tháng và trên mỗi thanh
tre khắc các vạch ký hiệu ngày, tháng và các hiện tượng khác. Phải chăng đây là
một thứ lịch cổ dùng ở nước ta trước khi lịch âm dương được du nhập từ Trung Hoa
sang? Ở Ấn Độ theo ghi chép thì lịch cổ nhất có vào năm 1000 trước CN, một năm
lịch có 360 ngày chia thành 12 tháng âm bao gồm 27 hoặc 28 ngày, số ngày thiếu
được bù bằng cách chèn tháng nhuận sau mỗi 60 tháng. Còn tại Trung Quốc, lịch
Âm - Dương có từ Thế kỷ 14 trước CN (đời Thương), theo truyền thuyết thì sớm
hơn nữa vào thời Tam Hoàng Ngũ Đế (năm 2637 trước CN) đã có lịch do hoàng đế

20


sáng tạo ra. Đáng chú ý là đời nhà Thương người Trung Hoa đã biết đến độ dài năm

là 365.25 ngày và tuần trăng dài 29.5 ngày.
Trung Mỹ: người Maya ở Trung Mỹ không chỉ dưạ trên mặt trăng, mặt trời
mà cả sao Kim để tạo ra lịch 260 và 365 ngày. Nền văn hoá Maya hưng thịnh từ
khoảng 2000 năm trước CN đến năm 1500 sau CN, các chu kỳ thiên văn ghi lại cho
thấy họ tin là thế giới được sáng ra vào năm 3114 TCN . Các lịch của họ sau này trở
thành một phần của lịch đá Aztec [1, tr. 22 – 23].
1.2. Những cơ sở của việc làm lịch
Lịch thường có tính chu kì, lặp đi lặp lại chạy mãi không ngừng theo thời
gian để đo mốc thời gian, chúng được soạn theo một quy tắc nhất định, thường là
dựa vào các hiện tượng tự nhiên có tính chất chu kì. Đặc biệt là các hiện tượng thiên
văn. Cũng như các ngành khoa học kĩ thuật khác, lịch ra đời do chính nhu cầu của
đời sống và trước hết là do sản xuất nông nghiệp. Chính chăn nuôi và trồng trọt là
đã đặt ra những đòi hỏi đầu tiên về việc phải làm ra lịch. Người ta cần phải biết và
dự đoán trước được những thay đổi của các mùa mưa gió, nóng, lạnh, khô hạn, thủy
triều, sáng trăng hay tối trời…Các yếu tố này của thời tiết, khí hậu, phụ thuộc vào
chính mặt trời và một phần chịu ảnh hưởng của mặt trăng. Lịch được hình thành từ
nhiều cơ sở nhưng quan trọng nhất là cơ sở thiên văn.
1.2.1. Cơ sở thiên văn của việc làm lịch và các đơn vị lịch
Thiên văn là một khoa học được hình thành và phát triển rất sớm, song cũng
đầy kịch tính. Là một khoa học gắn liền với vũ trụ quan, trong thời kì Trung cổ nó
bị triết học và thần học chi phối mạnh mẽ và nhiều khi bị đình trệ, kìm hãm hàng
thế kỉ. Người phương Đông xưa có thuyết Trời tròn, Đất vuông; Người Việt xưa có
sự tích “Bánh chưng, bánh dầy”, bánh chưng vuông tượng trưng cho đất, bánh dầy
tròn tượng trưng cho trời. Ở phương Tây xưa có thuyết địa tâm, coi trái đất là đứng
yên, là trung tâm của vũ trụ. Rồi sau đó có thuyết nhật tâm, coi mặt trời là trung tâm
của hệ mặt trời, trái đất quanh xung quanh mặt trời. Song, các quan niệm khác nhau
đó không cản trở nhiều đến việc làm lịch, bởi người làm lịch dựa vào thiên văn học
quan sát. Họ đứng trên trái đất mà nhìn bầu trời, chính là dùng một hệ tọa độ gắn

21



vào trái đất; một cách tương đối là coi trái đất đứng yên, các thiên thể khác chuyển
động tương đối với nó. Bằng thiên văn học quan sát, người ta đã hiểu bầu trời sao
một cách tinh tế, phát hiện ra tính chu kì của các chuyển động tương đối của mặt
trời, mặt trăng và bầu trời sao. Các chu kì thiên văn chính là ngày dựa trên sự quay
của trái đất xung quanh trục của nó, tháng dựa trên vòng quay của mặt trăng quanh
trái đất và năm dựa trên sự chuyển động của trái đất xung quanh mặt trời. Ngày,
tháng, năm cũng là các đơn vị cơ bản nhất của lịch vì vậy chuyển động biểu kiến
của mặt trăng, mặt trời có ý nghĩa rất quan trọng khi người ta thấy được mối liên
quan giữa chúng với thời tiết, khí hậu, cảnh quan trên trái đất. Nhờ vậy mà làm ra
nhiều loại lịch khoa học và ngày càng chính xác.
Đơn vị cơ bản của lịch là ngày, tháng, năm được thiết lập dựa trên sự chuyển
động của ba thiên thể lớn là mặt trời, mặt trăng và trái đất.
Trong bầu trời có hàng tỉ ngôi sao, song bằng mắt thường chúng ta chỉ nhận
biết được chừng 6000 ngôi sao. Vào ban đêm, quan sát thật lâu ta thấy hàng nghìn
ngôi sao sáng lấp lánh, dường như gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một vòm trời
(Thiên cầu), cùng quanh xung quanh sao Bắc cực (Thiên cực Bắc). Sao ở gần thì
quay thành một vòng tròn, sao ở xa thì mọc ở phương Đông rồi lặn ở phương Tây.
Đó là do trái đất tự quay quanh mình nó, một ngày một đêm được một vòng, con
người sống trên Trái đất, cứ nghĩ rằng trái đất đứng yên còn thiên cầu quay tròn. Ảo
giác đó cho ta nhận biết chuyển động tương đối của Thiên cầu đối với Trái đất – đó
chính là nhật động (chuyển động trong ngày). Trục quay của Thiên cầu đi qua thiên
cực bắc gọi là trục vũ trụ.
Các ngôi sao – theo danh từ thiên văn là các thiên thể khổng lồ, thường có
nhiệt độ rất cao và tự phát sáng. Hàng triệu triệu các ngôi sao làm thành thiên hà,
hàng triệu triệu thiên hà làm thành Vũ trụ. Mặt trời mà hàng ngày chúng ta thấy chỉ
là một ngôi sao trong muôn vàn ngôi sao trong dải ngân hà. Từ Trái đất quan sát, ta
thấy các ngôi sao có một vị trí nhất định trên Thiên cầu, dường như chúng không
chuyển động trên Thiên cầu, người phương Đông gọi là các định tinh.


22


×