Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người nùng dín ở thôn tùng lâu, xã tung chung phố, huyện mường khương, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.08 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VÀNG THỊ NGA

TRI THỨC ĐỊA PHƢƠNG VỀ GIÁO DỤC TRẺ EM
CỦA NGƢỜI NÙNG DÍN Ở THÔN TÙNG LÂU, XÃ
TUNG CHUNG PHỐ, HUYỆN MƢỜNG KHƢƠNG,
TỈNH LÀO CAI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Dân tộc học
Mã số: 60 22 70
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Trƣờng Giang

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Trƣờng Giang, giảng viên khoa Nhân học,
trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các thông tin, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Vàng Thị Nga


Lời cảm ơn


Trƣớc hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong bộ môn Dân
tộc học - khoa Nhân học - Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc
biệt là Tiến sĩ Nguyễn Trƣờng Giang đã tận tình hƣớng dẫn tôi hoàn thành
luận văn này. Trong quá trình điều tra điền dã tại huyện Mƣờng Khƣơng (Lào
Cai), tôi đã đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình của ông Vàng Thung Chúng (Trƣởng
phòng Xây dựng Nếp sống văn hóa & Gia đình, Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch Lào Cai), ông Vàng Thung Sáng (Trƣởng thôn Tùng Lâu II, thị trấn
Mƣờng Khƣơng, huyện Mƣờng Khƣơng) và gia đình ông Vàng Thung Phong
trong việc thu thập thông tin, tƣ liệu tại địa phƣơng. Tôi cũng xin gửi lời cảm
ơn đến đồng bào Nùng Dín tại hai thôn Tùng Lâu I, Tùng Lâu II, thị trấn
Mƣờng Khƣơng đã nhiệt tình cung cấp thông tin cần thiết và đặc biệt là gia
đình ông Vàng Thung Phong (Ngƣời dân thôn Tùng Lâu II, thị trấn Mƣờng
Khƣơng, huyện Mƣờng Khƣơng) đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình nghiên cứu. Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã
giúp đỡ và đông viên tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Vàng Thị Nga


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu ............................................... 2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.................................................................... 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 4
6. Bố cục luận văn............................................................................................ 5

CHƢƠNG 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN
NGHIÊN CỨU VỀ NGƢỜI NÙNG DÍN Ở LÀO CAI ................................ 6
1. 1.Những tiền đề lý thuyết và tổng quan về tình hình nghiên cứu........... 6
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................... 6
1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ...................................................... 11
1.1.3. Cơ sở lý thuyết ...................................................................................... 17
1.2. Tổng quan về ngƣời Nùng Dín ở Lào Cai ............................................ 21
1.2.1. Dân tộc và địa bàn cƣ trú của ngƣời Nùng Dín tại Lào Cai ................. 21
1.2.2. Đặc điểm kinh tế và xã hội.................................................................... 23
1.2.2.1. Đặc điểm kinh tế của người Nùng Dín .............................................. 23
1.2.2.2. Đặc điểm xã hội của người Nùng Dín tại Lào Cai ........................... 27
Tiểu kết chƣơng 1:......................................................................................... 29
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC GIÁO DỤC TRẺ EM
CỦA NGƢỜI NÙNG DÍN LÀO CAI .......................................................... 30
2.1. Quan niệm về trẻ em nói chung và ở ngƣời Nùng Dín nói riêng ....... 30
2.1.1. Khái niệm về trẻ em .............................................................................. 30
2.1.2. Quan niệm về trẻ em và vai trò của trẻ em trong gia đình của ngƣời
Nùng Dín ......................................................................................................... 33
2.1.3. Quan niệm về giáo dục trẻ em của ngƣời Nùng Dín ............................ 35


2.2. Hệ thống tri thức địa phƣơng về giáo dục trẻ em của ngƣời Nùng Dín.....36
2.2.1. Nội dung giáo dục ................................................................................. 36
2.2.1.1. Giáo dục ngôn ngữ và chữ viết .......................................................... 36
2.2.1.2. Giáo dục đạo đức, lối sống và ứng xử ............................................... 37
2.2.1.3. Giáo dục kỹ năng lao động sản xuất .................................................. 46
2.2.1.4. Giáo dục các giá trị văn hóa tinh thần .............................................. 52
2.2.2. Phƣơng thức giáo dục........................................................................... 58
2.2.2.1. Giáo dục theo độ tuổi ......................................................................... 58
2.2.2.2. Giáo dục theo giới tính ...................................................................... 62

2.2.2.3. Cách thức giáo dục “quen tay hay làm”, truyền dạy qua quan sát ...... 67
2.3. Các thực hành văn hóa của gia đình và cộng đồng hƣớng tới đời sống
tinh thần, hoạt động vui chơi giải trí cho trẻ em ........................................ 68
Tiểu kết chƣơng 2:......................................................................................... 73
CHƢƠNG 3. BIẾN ĐỔI TRI THỨC ĐỊA PHƢƠNG TRONG GIÁO
DỤC TRẺ EM CỦA NGƢỜI NÙNG DÍN LÀO CAI HIỆN NAY .......... 75
3.1. Trƣờng học.............................................................................................. 75
3.2. Sự phát triển đời sống kinh tế - xã hội theo hƣớng hiện đại hóa dẫn
đến những biến đổi trong gia đình, cộng đồng ngƣời Nùng Dín .............. 80
3.3. Tác động từ các chính sách của Nhà nƣớc........................................... 84
Tiểu kết chƣơng 3:......................................................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92


BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
GS.TS

Giáo sƣ, Tiến sĩ

PGS

Phó giáo sƣ

PGS.TS

Phó giáo sƣ, Tiến sĩ

Tr


Trang

Nxb

Nhà xuất bản

WTO

World Trade Organization
(Tổ chức thƣơng mại quốc tế)

WIPO

The World Intellectual Property Organization
(Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới)

UNESCO

The United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization
(Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc)


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Ngày nay, Việt Nam đang trên bƣớc đƣờng phát triển kinh tế - xã hội theo
hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt đƣợc những thành tựu đáng kể, tuy
nhiên quá trình này cũng tạo ra nhiều biến đổi mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời
sống trong đó có lĩnh vực văn hóa. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số trên đất nƣớc ta đang dần bị mai một, biến mất. Việc giữ gìn, bảo tồn và

phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc không chỉ trở thành một
nhiệm vụ đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đề ra trong các đƣờng lối, chính sách của đất
nƣớc mà còn là một vấn đề bức thiết cần đƣợc bản thân các tộc ngƣời quan tâm
cùng coi trọng.
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền núi phía
Bắc của Việt Nam, giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Phía Bắc Lào
Cai giáp Trung Quốc, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang,
phía Nam giáp tỉnh Yên Bái. Thành phố Lào Cai có cửa khẩu quốc tế Lào Cai – Hà
Khẩu khiến cho việc giao lƣu hợp tác về kinh tế - văn hóa giữa hai nƣớc ngày càng
đƣợc tăng cƣờng. Với lợi thế về vị trí địa lý cũng nhƣ điều kiện tự nhiên, kinh tế
Lào Cai phát triển mạnh mẽ ở các các ngành thƣơng nghiệp, du lịch và khai khoáng.
Những biến đổi này đã tác động mạnh mẽ đến các tộc ngƣời thiểu số ở đây. Vì vậy,
giữ gìn bản sắc văn hóa của tộc ngƣời đã và đang trở thành một vấn đề cấp thiết. Do
đó, việc giáo dục những thế hệ trẻ – những ngƣời “giữ lửa” của tộc ngƣời trở thành
một vấn đề đang đƣợc sự quan tâm của toàn xã hội trong đó có ngƣời Nùng Dín. Ở
Lào Cai, ngƣời Nùng Dín đã có mặt từ lâu đời, là một trong số 25 ngành nhóm tộc
ngƣời của tỉnh có số lƣợng dân số tính đến hết năm 2010 là trên 27000 ngƣời, xếp
thứ 7 trong số các dân tộc trong tỉnh. [20, tr. 40]. Đến nay, ngƣời Nùng Dín vẫn còn
lƣu giữ đƣợc khá đầy đủ những giá trị văn hóa truyền thống của mình. Bởi ngƣời
Nùng Dín luôn đề cao vấn đề giáo dục nhất là giáo dục trẻ em từ khi còn nhỏ, thông
qua quá trình giáo dục này để trẻ em từng bƣớc thích nghi và phát triển hoàn thiện

1


trong môi trƣờng văn hoá của tộc ngƣời nói riêng và xã hội nói chung. Hiện nay,
tuy những biến đổi kinh tế - xã hội mới có ảnh hƣởng đến đời sống văn hóa của
ngƣời Nùng Dín ở đây nhƣng họ vẫn giữ gìn và phát huy những kinh nghiệm, tri
thức giáo dục trẻ em truyền thống bởi vai trò tích cực của chúng trong việc bảo tồn
bản sắc văn hóa Nùng Dín. Chính vì thế, tôi đã lựa chọn nghiên cứu về tri thức giáo

dục trẻ em và những biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay của ngƣời Nùng Dín ở
Lào Cai với đề tài “Tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người Nùng Dín ở
thôn Tùng Lâu, xã Tung Chung Phố, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai”
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tập trung vào các nội dung sau:
- Hệ thống tri thức địa phƣơng của ngƣời Nùng Dín trong việc giáo dục trẻ
em, truyền thống và biến đổi.
- Những yếu tố tích cực của gia đình và cộng đồng trong việc giáo dục trẻ em
của ngƣời Nùng Dín
- Bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay và sự tác động của nó đối với hệ thống tri
thức địa phƣơng về giáo dục trẻ em của ngƣời Nùng Dín.
Tất cả những thông tin thu thập đƣợc chỉ tập trung để làm rõ những nội dung
nêu trên, đồng thời hệ thống hóa những tri thức địa phƣơng của ngƣời Nùng Dín ở
Lào Cai trong việc giáo dục trẻ em, truyền thống và những biến đổi trong hoàn cảnh
hiện nay.
3. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu: Thôn Tùng Lâu II, xã Tung Chung Phố, huyện Mƣờng
Khƣơng, tỉnh Lào Cai (nay là thị trấn Mƣờng Khƣơng, huyện Mƣờng Khƣơng, tỉnh
Lào Cai).
Thôn Tùng Lâu hay làng Tùng Lâu là một làng cổ truyền có lịch sử lâu đời,
theo nhiều tƣ liệu thu thập đƣợc từ Phòng Di sản văn hóa (Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch Lào Cai) thì làng đã hình thành đƣợc ít nhất là 6 đời (120 năm) hoặc lâu
hơn thế. Làng có vị trí gần khu chợ trung tâm của huyện khoảng 200m và cách khu
trung tâm huyện khoảng 1km. Vì thế hiện nay làng cũng có sự thay đổi về cả kinh tế

2


lẫn văn hoá do ảnh hƣởng của các chính sách phát triển kinh tế và văn hoá của Nhà
nƣớc.

Thôn Tùng Lâu trƣớc đây thuộc xã Tung Chung Phố. Đến năm 2007, do số hộ
gia đình tăng nhanh, gây khó khăn cho việc quản lý nhân khẩu nên đƣợc tách ra
thành thôn Tùng Lâu I và Tùng Lâu II. Năm 2010, một phần lãnh thổ của xã Tung
Chung Phố (gồm 775 ha diện tích tự nhiên và 2.139 ngƣời) đƣợc sáp nhập vào xã
Mƣờng Khƣơng đồng thời thành lập thị trấn Mƣờng Khƣơng trên cơ sở xã Mƣờng
Khƣơng trong đó bao gồm 2 thôn Tùng Lâu I và Tùng Lâu II.
Luận văn chọn thôn Tùng Lâu II làm địa bàn điền dã và nghiên cứu chính vì
thôn Tùng Lâu II là nơi trung tâm của thôn Tùng Lâu cũ, còn thôn Tùng Lâu I chủ
yếu là các hộ gia đình mới với địa bàn đƣợc mở rộng ra về phía trung tâm thị trấn.
Hiện nay, thôn Tùng Lâu II có 107 hộ gia đình với 479 nhân khẩu, trong đó có 98 %
ngƣời dân ở đây là ngƣời Nùng Dín. 1
Đối tƣợng nghiên cứu : Tri thức của ngƣời Nùng Dín về giáo dục trẻ em
truyền thống và hiện nay, những biến đổi và nguyên nhân của những biến đổi đó.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những tri thức của
ngƣời Nùng Dín ở thôn Tùng Lâu về giáo dục trẻ em cùng những biến đổi của nó
trong giai đoạn hiện nay.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: đóng góp vào ngành dân tộc học/nhân học những tri thức
cụ thể, làm rõ hơn văn hóa của một ngành, một nhóm tộc ngƣời – ngƣời Nùng. Làm
cơ sở tài liệu cho các nhà khoa học sau đó tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu vấn đề
này.
Ý nghĩa thực tiễn: Làm cơ sở khoa học để các nhà hoạch định chính sách và
cán bộ công tác văn hóa đề ra những chủ trƣơng, chính sách và biện pháp bảo tồn
bản sắc văn hóa ngƣời Nùng Dín nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung
cho phù hợp với tình hình của từng địa phƣơng.

1

Theo lời ông Vàng Thung Sáng, trƣởng thôn Tùng Lâu II, 2013.


3


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để viết luận văn này tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản
trong ngành nhân học là:
- Phƣơng pháp nghiên cứu quan sát tham gia: Tác giả đã thực hiện nghiên
cứu điền dã tại thôn Tùng Lâu II trong thời gian 1 tuần (23 – 30/12/2013). Trong
quá trình điền dã, tác giả đã ở tại nhà ông Vàng Tờ Phủ - thầy mo thôn Tùng Lâu II,
đây là gia đình có 4 thế hệ (ông – bố mẹ - con cháu chắt) và vẫn giữ đƣợc nhiều nếp
sống truyền thống của ngƣời Nùng Dín ở đây. Bằng cách tham gia vào sinh hoạt
cũng nhƣ các thực hành văn hóa của gia đình để tìm hiểu môi trƣờng văn hóa, môi
trƣờng gia đình cũng nhƣ phân tích ảnh hƣởng của nó đối với việc giáo dục trẻ em.
Ngoài thời gian 1 tuần điền dã, trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến 2015, tác
giả đã có nhiều dịp nghiên cứu điền dã trong thời gian ngắn (1- 2 ngày) tại thôn
Tùng Lâu I, II, và các thôn ngƣời Nùng Dín ở huyện Mƣờng Khƣơng nhƣ thôn Na
Bủ, Mã Tuyển, Sảng Chải.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Thực hiện một số cuộc phỏng vấn nhóm về
vấn đề giáo dục trẻ em trong gia đình cũng nhƣ hệ thống trƣờng học, Ngoài ra, thực
hiện nhiều cuộc phỏng vấn sâu với các đối tƣợng khác nhau (về giới, về lứa tuổi, về
nghề nghiệp) để tìm hiểu những thông tin đa chiều và toàn diện.
- Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng thông qua, bảng hỏi: Lập những bảng
hỏi cho những nhóm ngƣời khác nhau về lứa tuổi để thu thập những thông tin khác
nhau, đa chiều về quan niệm, cách thức giáo dục trẻ em. Dựa trên việc tổng hợp
những thông tin từ bảng hỏi, phân tích để đƣa ra những đánh giá, nhận xét sát thực,
chính xác.
Các phƣơng pháp trên cho phép thu thập đƣợc nguồn thông tin chính xác và
chân thực để trên cơ sở đó, tôi có điều kiện hệ thống hoá những thông tin thu thập
đƣợc và đƣa ra đƣợc những kết luận đúng đắn cho nghiên cứu của mình.


4


6. Bố cục luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận có bố cục thành 3 chƣơng với nội
dung cơ bản nhƣ sau:
Chương 1. Những tiền đề lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về người Nùng Dín
ở Lào Cai.
Chương 2. Nội dung và phương thức giáo dục trẻ em của người Nùng Dín Lào
Cai.
Chương 3. Biến đổi tri thức địa phương trong giáo dục trẻ em của người Nùng
Dín Lào Cai hiện nay
Ngoài ra, luận văn còn phần mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục.

5


CHƢƠNG 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN
NGHIÊN CỨU VỀ NGƢỜI NÙNG DÍN Ở LÀO CAI
1. 1.Những tiền đề lý thuyết và tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm “tri thức địa phương”
Mặc dù đã đƣợc nghiên cứu từ lâu, nhƣng cho tới nay khái niệm tri thức bản
địa hay tri thức truyền thống vẫn chƣa đƣợc thống nhất. Nói cách khác, tri thức bản
địa - tri thức truyền thống đƣợc định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào
các lĩnh vực chuyên môn và theo các mục đích sử dụng thuật ngữ khác nhau.
Năm 1978, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã tiến hành nghiên cứu
và lần đầu tiên đƣa ra khái niệm “tri thức truyền thống”. Ban đầu, khái niệm này chỉ
giới hạn ở một loại tri thức (đƣợc coi là truyền thống) là “các hình thức thể hiện
văn hóa dân gian” (Expressions of Folklore). Vào năm 1982, “các quy định mẫu

dành cho luật quốc gia về bảo hộ các hình thức thể hiện văn hóa dân gian chống lại
việc khai thác trái phép và những hành vi xâm phạm khác” đã đƣợc WIPO phối
hợp với UNESCO soạn thảo và công bố, trong đó có định nghĩa về “các hình thức
thể hiện văn hóa dân gian”.
Đến nay thuật ngữ “tri thức truyền thống” không chỉ giới hạn ở “các hình thức
thể hiện văn hóa dân gian” mà còn bao gồm các đối tƣợng khác nhƣ tri thức bản địa,
kiến thức cổ truyền, kinh nghiệm dân gian… Để thống nhất về cách dùng thuật
ngữ, trong Báo cáo về các cuộc khảo sát về sở hữu trí tuệ và tri thức truyến thống
(1998-1999), dƣới góc độ sở hữu trí tuệ, WIPO đã định nghĩa “tri thức truyền
thống” là các sản phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học dựa trên truyền thống;
sự biểu diễn; các sáng chế; các phát minh khoa học; các kiểu dáng; các nhãn hiệu,
tên và biểu tƣợng; các thông tin bí mật, và tất cả các sáng kiến hoặc sản phẩm sáng
tạo khác là thành quả của hoạt động trí tuệ dựa trên truyền thống trong các lĩnh vực
công nghiệp, khoa học, văn học hoặc nghệ thuật. Cụm từ “dựa trên truyền thống”
đƣợc hiểu là các hệ thống tri thức, các sản phẩm sáng tạo, sáng kiến và các hình

6


thức thể hiện văn hóa đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thƣờng thuộc
về hoặc gắn liền với một nhóm ngƣời cụ thể hoặc vùng lãnh thổ cụ thể nơi nhóm
ngƣời đó sinh sống, đƣợc phát triển thƣờng xuyên để thích nghi với môi trƣờng biến
đổi.
Trong “Cẩm nang về tri thức bản địa” (tài liệu dịch), đƣợc NXB Nông nghiệp
ấn hành năm 2000, một định nghĩa cũng đã đƣợc đƣa ra: Tri thức bản địa (còn có
thể gọi bằng những tên khác như "kiến thức địa phương", "kiến thức kỹ thuật bản
địa" hay "kiến thức truyền thống") là kiến thức mà người dân ở một cộng đồng đã
tạo nên và đang phát triển dần theo thời gian. Ngoài các khái niệm kể trên, một số
nƣớc cũng có các quy định riêng về thuật ngữ tri thức bản địa - tri thức truyền
thống.

Ở Việt Nam, vấn đề này cũng đƣợc nhiều nhà khoa học thuộc cả hai lĩnh vực
- khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - nhƣ Lê Trọng Cúc, Đào Trọng Hùng,
Phạm Quang Hoan, Ngô Đức Thịnh… quan tâm. Tuỳ theo cách hiểu của mình, họ
cũng đƣa ra nhiều kháí niệm với những nội hàm khác nhau.
PGS.TS Lê Trọng Cúc đồng nhất tri thức địa phƣơng với văn hoá truyền
thống. Theo ông, “tri thức địa phương được tích luỹ qua kinh nghiệm to lớn nhờ
tiếp xúc chặt chẽ với thiên nhiên, dưới áp lực chọn lọc, trong quá trình tiến hoá của
sinh quyển và dần dần trở thành văn hoá truyền thống” [24, tr. 231].
GS.TS Ngô Đức Thịnh lại gọi tri thức địa phƣơng là “tri thức dân gian”
(Folklore Knowledge) và cho rằng, “đó là kinh nghiệm của con người tích luỹ được
qua quá trình hoạt động lâu dài nhằm thích ứng và biến đổi môi trường tự nhiên và
xã hội, phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần cho bản thân” [90, tr. 35].
PGS.TS Phạm Quang Hoan cho rằng:
Tri thức địa phƣơng đƣợc hiểu ở các cấp độ khác nhau. Một là, “tri thức địa
phƣơng” (hay tri thức bản địa), “tri thức dân gian”, “tri thức tộc ngƣời” là toàn bộ
những hiểu biết, những kinh nghiệm của một tộc ngƣời nhất định đƣợc tích lũy,
chọn lọc và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vốn tri thức đó phản ánh
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng đồng để mỗi tộc ngƣời sinh tồn,

7


phát triển và thích nghi trƣớc những biến đổi đã và đang diễn ra. Nói cách khác, tri
thức địa phƣơng là phƣơng thức ứng xử, là đặc tính thích nghi với những điều kiện
sinh thái nhân văn của mỗi tộc ngƣời. Cũng có thể coi là bản sắc văn hóa tộc ngƣời.
Hai là, “tri thức địa phƣơng” là tri thức của các cộng đồng tộc ngƣời cùng cộng cƣ
trên một vùng sinh thái hay một vùng văn hóa nhất định. Trong trƣờng hợp này, tri
thức địa phƣơng cũng phản ánh xu hƣớng giao lƣu và biến đổi văn hóa hay thích
nghi văn hóa giữa các tộc ngƣời [42, tr. 87].
Tuy nhiên, trên thực tế, các khái niệm “kiến thức bản địa” (Indigenouse

Knowledge), “tri thức địa phƣơng” (Local Knowledge), “tri thức truyền thống”
(Traditional Knowledge) và “tri thức dân gian” (Folklore Knowledge) đƣợc quan
niệm gần nhƣ đồng nghĩa và thƣờng đƣợc sử dụng hoán đổi cho nhau mà không gây
nên sự hiểu lầm. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ sử dụng tri thức địa phƣơng để
chỉ những nội dung trên.
Một cách khái quát có thể hiểu: Tri thức bản địa, tri thức truyền thống hay tri
thức địa phƣơng là hệ thống tri thức mà ngƣời dân ở một cộng đồng tích lũy và phát
triển dựa trên kinh nghiệm, đã đƣợc kiểm nghiệm qua thực tiễn và thƣờng xuyên
thay đổi để thích nghi với môi trƣờng văn hóa, xã hội.
- Khái niệm gia đình
Có rất nhiều khái niệm về gia đình tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu, xem xét,
hƣớng tiếp cận, …mà có các khái niệm khác nhau:
Tập thể các nhà khoa học do GS.TS. Trần văn Bính chủ biên có khái niệm về
gia đình nhƣ sau: “Gia đình là một hình thức cộng đồng ngƣời, chủ yếu xây dựng
trên quan hệ hôn nhân và huyết thống”.
Liên hợp quốc định nghĩa: “Gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội và là môi
trƣờng tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên”.
Từ điển bách khoa Việt Nam đƣa ra khái niệm: “Gia đình là thiết chế xã hội
dựa trên cơ sở kết hợp những thành viên khác giới, thông qua hôn nhân, để thực
hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn hoá, xã hội, tín ngƣỡng,… là đơn vị kinh
tế và là tế bào của xã hội”.

8


Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lại khẳng định: “Gia đình là một
hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, đƣợc hình thành, duy trì và củng cố trên cơ sở
hôn nhân và huyết thống”.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2009 khẳng định: “Gia đình là tập hợp những
ngƣời gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi

dƣỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình”; “là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dƣỡng con ngƣời,
là môi trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”.
Chỉ thị 49/CT-TW ngày 21/02/2005 của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng (khoá
IX) cũng đƣa ra: “Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi
trƣờng quan trọng hình thành , nuôi dƣỡng và giáo dục nhân cách con ngƣời, là nơi
bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc”.
Trong nghiên cứu xã hội hội học, các nhà nghiên cứu cho rằng: “Gia đình là
một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc đƣợc nuôi dƣỡng tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành viên trong gia đình
gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm…). Giữa
họ có những ràng buộc có tính pháp lý đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ đồng
thời có những quy định rõ ràng về quyền đƣợc phép và những cấm đoán trong quan
hệ tình dục giữa các thành viên gia đình”.
Dƣới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũng có
thể phân chia gia đình thành hai loại:
Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thƣờng đƣợc coi là
gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một nhóm
ngƣời ruột thịt của một vài thế hệ sống chung với nhau dƣới một mái nhà, thƣờng từ
ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó còn có cả những ngƣời ruột thịt từ
tuyến phụ. Dạng cổ điển của gia đình lớn là gia đình trƣởng lớn, có đặc tính tổ chức
chặt chẽ. Nó liên kết ít nhất là vài gia đình nhỏ và những ngƣời lẻ loi. Các thành

9


viên trong gia đình đƣợc xếp đặt trật tự theo ý muốn của ngƣời lãnh đạo gia đình mà
thƣờng là ngƣời đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình. Ngày nay, gia đình lớn

thƣờng gồm cặp vợ chồng, con cái của họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia đình này,
quyền hành không ở trong tay của ngƣời lớn tuổi nhất.
Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm ngƣời thể
hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của một
ngƣời vợ hoặc một ngƣời chồng với các con. Do vậy, cũng có thể có gia đình nhỏ
đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ. Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia đình chứa
trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con); ngƣợc lại, gia đình nhỏ
không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó, nghĩa là
trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ ngƣời vợ với ngƣời chồng hoặc chỉ của ngƣời
cha hoặc ngƣời mẹ với các con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt quan trọng
trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của tƣơng lai và ngày càng phổ biến
trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
Mặc dù khái niệm về gia đình diễn đạt có khác nhau tuỳ thuộc ở góc độ nhìn
nhận, song xem xét một cách chung nhất, nội hàm khái niệm về gia đình bao gồm
các yếu tố sau: là một đơn vị xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dƣỡng để thực hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn hoá,
tín ngƣỡng.…Các thành viên quan hệ với nhau trên cơ sở những định ƣớc, quy định
rõ ràng về đạo lý, bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiêm, đối với các việc cần làm, đƣợc
phép, cấm đoán; có mối liên hệ gắn bó với nhau về tình cảm, quyền lợi, trách nhiệm
và có những giàng buộc có tính pháp lý đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận, bảo vệ (khi xã
hội có nhà nƣớc).
- Khái niệm giáo dục
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” đƣợc biết đến với từ “education”, đây là một
từ gốc Latin đƣợc ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”. Có nghĩa là
dẫn (“Ducere”) con ngƣời vƣợt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để vƣơn tới những gì
hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.

10



Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày “Giáo dục
là hiện tƣợng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài ngƣời”. Định nghĩa này nhấn mạnh về sự
truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhƣng không
đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó.
Theo ông John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và nhà cải
cách giáo dục ngƣời Mỹ, ông cho rằng cá nhân con ngƣời không bao giờ vƣợt qua
đƣợc quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh nghiệm mà
cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại đòi hỏi phải
những kiến thức, kinh nghiệm của con ngƣời phải vƣợt qua đƣợc sự khống chế của
sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài
ngƣời để đảm bảo tồn tại xã hội. Ngoài ra, ông John Dewey cũng cho rằng, xã hội
không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, nhƣng còn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy
ấy. Nhƣ vậy, theo quan điểm của ông John Dewey, ông cũng đề cập đến việc truyền
đạt, nhƣng ông nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, là dạy dỗ.
Nhƣ vậy, có thể kết luận rằng, “giáo dục” là sự hoàn thiện của mỗi cá nhân,
đây cũng là mục tiêu sâu xa của giáo dục; ngƣời giáo dục, hay có thể gọi là thế hệ
trƣớc, có nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hƣớng, phải truyền tải lại cho thế hệ sau tất cả
những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn thiện hơn.Với ý
nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội loài ngƣời mới hình thành, do nhu cầu của
xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển loài ngƣời, phát triển xã hội.
Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con ngƣời nhằm vào mục đích phát triển
con ngƣời và phát triển xã hội.
1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Những nghiên cứu về tri thức địa phương ở Việt Nam
Đề tài nghiên cứu về tri thức địa phƣơng không phải là một đề tài nghiên cứu
mới ở trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy chƣa đƣa ra khái niệm tri
thức địa phƣơng nhƣng nhiều nghiên cứu dân tộc học, nhân học, văn hoá học, … về
phong tục tập quán, văn hoá dân gian, ứng xử với môi trƣờng tự nhiên của các cộng


11


đồng hoặc tộc ngƣời cũng chính là nghiên cứu về tri thức bản địa hay tri thức địa
phƣơng.
Trong những năm gần đây, các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam, đã
cung cấp ngày càng nhiều thông tin về vai trò của kiến thức bản địa trong nhiều lĩnh
vực nhƣ: Lê Trọng Cúc trong cuốn Vai trò của tri thức địa phương trong phát triển
bền vững vùng cao-1999 đã đƣa ra vai trò của kiến thức bản địa và những ứng dụng
của nó trong các dự án về hợp tác và phát triển trong bối cảnh hiện nay; Tiến sĩ
khoa học Trần Công Khánh với bài viết Cây thuốc dân tộc và vấn đề bảo tồn tri
thức bản địa về cách sử dụng cây thuốc in trên tạp chí Y học và Đời sống online4/2005 đã cho biết những thông tin đầy hiệu quả của những tri thức bản địa về y học
hay là y học cổ truyền,…
Đối với các nhà dân tộc học thì trƣớc đây đã có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về tri thức bản địa dƣới dạng là một bộ phần hợp thành của nền văn hoá
của mỗi tộc ngƣời. Những nghiên cứu này đã đề cập khá chung chung tới những tri
thức bản địa chƣa thành hệ thống kiến thức riêng biệt và kỹ lƣỡng trong văn hoá tộc
ngƣời, nhƣ là tác phẩm: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam của Cầm Trọng, Người
Dao ở Việt Nam của Bế Viết Đằng, …
Hiện nay, nhiều tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu tri thức địa phƣơng của một
tộc ngƣời nhƣ tác giả Mai Văn Tùng (2011) với luận văn tiến sĩ Tri thức địa
phương, về sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của người Mường ở
huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa; hai tác giả Nguyễn Ngọc Thanh và Trần Hồng
Thu (2003) với cuốn sách Tri thức địa phương của người Mường trong sử dụng và
quản lý tài nguyên thiên nhiên của NXB Khoa học xã hội; …
Có thể thấy rằng, nghiên cứu về tri thức địa phƣơng đã trở thành một đề tài
đƣợc nhiều nhà dân tộc học, nhân học quan tâm và nghiên cứu sâu sắc, đa dạng,
phong phú.
Nghiên cứu về vấn đề giáo dục trẻ em ở Việt Nam
Vấn đề giáo dục trẻ em cũng là vấn đề đƣợc nhiều nhà chính sách, nhà pháp

luật và nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Nhiều chính sách phát triển kinh tế -

12


văn hóa – xã hội cũng đề cập đến việc phát triển giáo dục trẻ em nhất là trẻ em dân
tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo
dục trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hiện nay nhƣ Thấu suốt đường lối của Đảng đưa sự nghiệp giáo dục tiến lên
mạnh mẽ vững chắc của Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu xuất
bản năm 1972; Đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp Bộ Nghiên cứu các giải pháp
quản lý giáo dục trong môi trường hội nhập WTO do PGS.TS.Nguyễn Công Giáp
làm chủ nhiệm (2006-2008); Đề tài độc lập cấp nhà nƣớc “Phát triển Giáo dục Việt
Nam trong nền Kinh tế Thị trường và trước Yêu cầu Hội nhập Quốc tế” do PGS.TS.
Trần Quốc Toản làm chủ nhiệm (2007-2009); Tác giả Nguyễn Kim Dung với đề tài
nhánh cấp nhà nƣớc “Đánh giá thực trạng phát triể n giáo dục Viê ̣t Nam trong nề n
kinh tế thi ̣ trường và trước yêu cầ u hội nhập quố c tế ”

… Ngoài ra, hàng loạt các

luật, nghị quyết, văn bản hƣớng dẫn pháp luật đƣợc Nhà nƣớc và các cơ quan có
thẩm quyền ban hành nhƣ Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Luật lao
động,…Các nhà giáo dục học lại nghiên cứu quá trình phát triển tâm, sinh lý của trẻ
em cũng nhƣ những phƣơng pháp giáo dục trẻ em trong gia đình, trong nhà trƣờng
mang tính khoa học. Nghiên cứu về giáo dục trẻ em dân tộc thiểu số vùng sâu vùng
xa, trong cuốn Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp
cận Nhân học, quyển II, TS Trƣơng Huyền Chi có viết “Họ nói đồng bào không
biết quý sự học” nghiên cứu về những mâu thuẫn trong giáo dục ở vùng đa dân tộc
Tây Nguyên Việt Nam năm 2010. Đến năm 2011,Nguyễn Thu Hƣơng và Nguyễn
Trƣờng Giang có nghiên cứu với đề tài “Học không được hay học để làm gì. Trải

nghiệm học tập của thanh thiếu niên dân tộc thiểu số” (Nghiên cứu trƣờng hợp tại
Yên Bái, Hà Giang, Điện Biên). Tác giả Nguyễn Ngọc Thanh với cuốn Một số vấn
đề về chính sách giáo dục ở vùng cao miền núi phía Bắc Việt Nam… Trong đó,
chƣa có nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu vấn đề giáo dục của ngƣời Nùng nói
chung và ngƣời Nùng Dín Lào Cai nói riêng.
Những nghiên cứu về người Nùng và giáo dục trẻ em của người Nùng ở Việt
Nam

13


Nghiên cứu về văn hóa ngƣời Nùng ở Việt Nam cũng đã đƣợc rất nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm và đề cập. Nghiên cứu đầu tiên về ngƣời Nùng phải kể đến tác
phẩm “Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” của hai
tác giả Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn do NXB Khoa học xã hội in năm 1968.
Sau đó là tác giả Nông Minh Châu sƣu tầm các bài dân ca trong đám cƣới của hai
dân tộc Tày – Nùng tập hợp trong cuốn sách “Dân ca đám cưới Tày – Nùng” do
NXB Việt Bắc in năm 1973. Sau đó, ngƣời Nùng cũng đƣợc giới thiệu khái quát
trong cuốn sách “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” của Viện Dân tộc học do NXB
Khoa học xã hội in năm 1978. Đến năm 1979, tác giả Vi Hồng trong cuốn sách“Sli,
lượn dân ca trữ tình Tày, Nùng” của NXB Văn hóa ngoài việc nghiên cứu thể loại
Sli, lƣợn của hai dân tộc Tày, Nùng còn đƣa ra nhận xét về nguồn gốc và ngữ nghĩa
của từ “Lƣợn ”. Tác giả đƣa ra nhiều ý kiến giải thích khác nhau, nhƣng đáng chú ý
là ý kiến của cụ Nông Văn Mô ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Theo cụ Mô thì
“lƣợn” hay “vén” cùng có một nghĩa - xƣa kia ngƣời Tày vẫn nói “lƣợn lục” hay
“vén lục” đều có nghĩa là “ru con”.
Năm 1984, NXB Văn hoá ra cuốn sách Văn hoá Tày – Nùng của Lò Văn Lô
và Hà Văn Thƣ, đến năm 1992 ra cuốn sách Dân tộc Nùng ở Việt Nam của Hoàng
Nam. Hai tác phẩm này đã đƣa ra những nghiên cứu khá toàn diện về mọi khía cạnh
đời sống và văn hoá của ngƣời Nùng ở Việt Nam từ ăn mặc, đi lại, nhà ở đến những

phong tục tập quán nhƣ cƣới xin, tang ma, lễ hội cũng nhƣ những hoạt động kinh tế
nông nghiệp của họ. Đó là hai cuốn sách mang tính tổng quát chung và chi tiết hơn
những cuốn sách trƣớc đó về tộc ngƣời Nùng ở Việt Nam. Hai cuốn sách này không
có một mục riêng dành cho vấn đề giáo dục trẻ em của ngƣời Nùng ở Việt Nam nói
chung.
Ngoài ra, nghiên cứu về văn hóa Tày – Nùng còn có cuốn sách “Văn hóa
truyền thống Tày – Nùng” của nhiều tác giả Hoàng Quyết, Ma Khách Bằng, Hoàng
Huy Phách, Cung Văn Lƣợc, Vƣơng Toàn in tại NXB Văn hóa dân tộc năm 1993.
Xuất phát từ mối quan hệ mật thiết của hai tộc ngƣời, giai đoạn đầu các tác giả chủ
yếu nghiên cứu hai dân tộc Tày, Nùng bởi sự tƣơng đồng trong văn hóa. Ngoài ra,

14


phƣơng hƣớng nghiên cứu chủ yếu là phƣơng pháp dân tộc học, trình bày một cách
khái quát và chung chung toàn bộ văn hóa của hai tộc ngƣời. Ở đây, vấn đề giáo dục
cũng chƣa đƣợc đƣa ra nhƣ một vấn đề riêng biệt, quan trọng mà chỉ đƣợc nhắc tới
trong đôi câu, vài lời.
Những nghiên cứu sau đó về ngƣời Nùng thƣờng đi sâu vào một khía cạnh
nào đó trong nền văn hoá một cách chi tiết và kỹ lƣỡng. Đỗ Thuý Bình với cuốn
Hôn nhân và gia đình các tộc người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam của NXB Khoa
học xã hội năm 1994 đã tập trung nghiên cứu và đi sâu về những phong tục trong
cƣới xin và những mối quan hệ trong gia đình của ngƣời Nùng ở Việt Nam trong cả
sự so sánh với tộc ngƣời Tày và ngƣời Thái. Lê Văn Bé với bài viết Trang phục
người Nùng ở Việt Nam in trên tạp chí Dân tộc học số 4 năm 1997 chỉ tập trung
miêu tả bộ trang phục của ngƣời Nùng ở Việt Nam với biểu tƣơng văn hoá của nó.
Đến năm 2004, hai đề tài cấp bộ “Văn hoá dân tộc Nùng ở Cao Bằng” của tác
giả Đàm Thị Uyên và “Tang ma của dân tộc Nùng ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thị Ngân đã đi sâu vào nghiên cứu một tộc ngƣời Nùng tại một vùng cụ thể là
huyện Cao Bằng và một trong những phong tục của tộc ngƣời là phong tục ma chay

của ngƣời Nùng ở Việt Nam.
Cuốn sách Ngƣời Nùng của tác giả Chu Thái Sơn (chủ biên) và Hoàng Hoa
Toàn của Nhà xuất bản Trẻ in năm 2006 là tập mới thuộc bộ sách “Việt Nam - Các
dân tộc anh em”. Bộ sách gồm 48 tập giới thiệu một cách giản lƣợc từng dân tộc
trên các miền đất nƣớc, từ lịch sử tộc ngƣời, các hoạt động kinh tế, phong tục, tập
quán của từng dân tộc đến những tập tục trong hôn nhân, sinh đẻ... Bộ sách cũng đi
sâu vào nghiên cứu và khai thác những nét đặc sắc riêng của từng dân tộc. Cuốn
sách này sẽ giới thiệu những nét chính yếu về bản sắc văn hóa riêng của dân tộc
Nùng, bao gồm nhiều nội dung về lịch sử tộc ngƣời; hoạt động dân tộc nhƣ săn bắt,
hái lƣợm, trồng trọt, chăn nuôi…; văn hóa vật chất nhƣ ăn uống, nhà cửa, trang
phục, phƣơng tiện giao thông; ứng xử cộng đồng nhƣ gia đình, dòng họ, làng bản,
phong tục…; đời sống tinh thần nhƣ tôn giáo, tín ngƣỡng, lễ hội…

15


Luận văn Thạc Sỹ của Hoàng Thị Lê Thảo với đề tài Những biến đổi trong
việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em của người Nùng : nghiên cứu ở xã Đại An,
huyện Văn Quan, tỉnh lạng Sơn năm 2009 đã nghiên cứu quan niệm, ứng xử truyền
thống của ngƣời Nùng trong việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, cụ thể là quan
niệm về ốm đau, các nguyên nhân gây ốm đau và cách ứng xử khi bị ốm đau. Trình
bày thực trạng những biến đổi trong hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em
tại địa bàn, từ nhận thức đến ứng xử cũng nhƣ những yếu tố tác động gây nên sự
biến đổi này. Miêu tả thực trạng về các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em
của Đại An, đƣa ra nhận xét và những vấn đề đặt ra đối với sự biến đổi trong hoạt
động này, đó là lối sống, phong tục tập quán và việc sử dụng các sản phẩm công
nghiệp; yếu tố kinh tế và khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; kết hợp
đông y và tây y trong chăm sóc sức khỏe; nhận thức của ngƣời dân về các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe cùng một số biện pháp phòng ngừa khác.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, ngƣời Nùng ở Việt Nam có

dân số 968.800 ngƣời, là dân tộc có dân số đứng thứ 7 tại Việt Nam, có mặt trên tất
cả 63 tỉnh, thành phố. Ngƣời Nùng lại đƣợc phân gồm nhiều ngành khác nhau là:
Nùng Inh, Nùng Phàn Slình, Nùng Cháo, Nùng An, Nùng Dín, Nùng Lòi, Nùng
Tùng Slìn, ... Nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu vào nghiên cứu các nhóm ngành
ngƣời Nùng này. Triệu Thị Mai trong cuốn Văn hoá truyền thống của người Nùng
Khèn Lài ở Cao Bằng in ở NXB ĐHQGHN năm 2011 đã nghiên cứu khá tổng quát
và bƣớc đầu về nền văn hoá của ngành Nùng Khèn Lài ở vùng Cao Bằng, cuốn sách
đã trình bày một cách kỹ lƣỡng về những bài hát dân ca về nhiều chủ đề theo tiếng
Nùng và dịch sang tiếng Việt ở phần cuối sách.
Nguyễn Thị Ngân trong luận án tiến sĩ với đề tài: Tang ma của người Nùng
Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên (2011) đã khảo cứu có hệ thống về các nghi lễ tang
ma, quan niệm sinh tử, các yếu tố ảnh hƣởng đến tang ma, các quy tắc ứng xử gia
đình, cộng đồng liên quan đến đạo hiếu, đạo nghĩa, của ngƣời Nùng Phàn Slình ở
tỉnh Thái Nguyên. Luận án đã cung cấp thêm nguồn tƣ liệu điền dã mới, qua đó góp
phần nhận diện đầy đủ hơn về tang ma truyền thống và những biến đổi trong tang

16


ma của ngƣời Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên. Từ đó góp phần khẳng định các
giá trị văn hoá trong tang ma tộc ngƣời, làm cơ sở khoa học cho việc định hƣớng
các chính sách văn hoá, xã hội phù hợp với đời sống mới trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
Tác giả Vàng Thung Chúng (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai) trong
cuốn Phong tục tập quán của người Nùng Dín ở Tùng Lâu in năm 2003 lại tập trung
nghiên cứu những phong tục tập quán, đời sống vật chất cũng nhƣ đời sống tinh
thần của ngƣời Nùng Dín ở tỉnh Lào Cai và đƣa ra những đánh giá bƣớc đầu về các
giá trị văn hoá cũng nhƣ đƣa ra biện pháp bảo tồn cho nền văn hoá của tộc ngƣời
này. Ngoài ra, tác giả cũng có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí nhƣ: Hội cúng
rừng của người Nùng in trên Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật số 11 năm 1998; Lễ tết

cổ truyền mùng 1 tháng 7 của người Nùng ở Mường Khương đăng trên tạp chí Dân
tộc học số 11 năm 1998; Tục ăn tết nguyên đán cổ truyền của người Nùng Lào cai
đăng trên Tạp chí Văn hóa - TT Lào cai, Lào cai số 1 năm 2000; Tri thức dân gian
về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của người Nùng Dín Lào Cai đăng trên Tạp
chí Phansipăng, Số 139/ tháng 9 – 2012…. Những bài viết này chỉ trình bày một
cách ngắn gọn và khái quát một nét văn hóa của ngƣời Nùng Dín ở Lào Cai.
Tuy có rất nhiều nghiên cứu về ngƣời Nùng ở Việt Nam nhƣng có thể thấy
rằng vấn đề giáo dục trẻ em còn là một vấn đề chƣa đƣợc các nhà dân tộc học đề
cập hay quan tâm.
1.1.3. Cơ sở lý thuyết
Luận văn sử dụng lý thuyết chức năng làm cơ sở lý thuyết chính trong việc
tiếp cận và phân tích vấn đề, từ đó đƣa ra những kết luận chính xác và có giá trị
khoa học.
Các nhà nhân học theo thuyết chức năng – cấu trúc cho rằng: Xã hội nhƣ là
một cơ thế sống trong đó mọi cơ quan có liên quan chặt chẽ với nhau.
Thuyết chức năng – cấu trúc đƣợc khởi xƣớng từ G. Spencer và E. Durkheim
trong bối cảnh của xã hội châu Âu đầu thế kỷ XX đầy những loạn ly và khủng

17


hoảng, những ngƣời theo quan điểm chức năng mong muốn nhanh chóng lập lại trật
tự để có một xã hội ổn định và phát triển.
Không tán thành với thuyết khuếch tán văn hóa, nhất là thuyết tiến hóa về văn
hóa ở cuối thế kỷ XIX - một học thuyết nhấn mạnh đến sự thống nhất của loài
ngƣời và sự đồng nhất trong phát triển văn hóa, quan điểm chức năng coi trọng sự
khác biệt về văn hóa, và cho rằng nhờ có sự khác biệt này mà từng bộ phận của xã
hội cũng nhƣ các xã hội có thể nƣơng tựa lẫn nhau và bổ sung cho nhau để vận hành
trong thế cân bằng và ổn định.
Ngƣời ta cho rằng, giống nhƣ các bộ phận khác nhau trong cơ thể con ngƣời,

mỗi thiết chế xã hội nhƣ nhà nƣớc, tôn giáo, gia đình, trƣờng học… đều giữ những
chức năng khác nhau, song lại luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau theo cơ chế
phân công - hợp tác và chính điều này tạo cho xã hội sự cân bằng trong vận động.
Với những tiền đề xuất phát đó, thuyết chức năng không chỉ định hƣớng vào việc
giải thích, mà còn xác định cần nghiên cứu văn hóa - xã hội của mỗi dân tộc nhƣ là
một chỉnh thể thống nhất.
Nghiên cứu văn hóa nhƣ một chỉnh thể thống nhất cần chia tách chỉnh thể
(văn hóa) thành ra các bộ phận, các yếu tố và vạch ra những mối quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau giữa chúng. Ở đây, mỗi tế bào hay yếu tố (một khuôn mẫu, một vai trò,
một thể chế…) của văn hóa đều có một chức năng xã hội nhất định, mỗi yếu tố
riêng lẻ vừa là chính nó, vừa nhƣ một khâu, một mắt xích, mà nếu thiếu chúng thì
văn hóa không thể tồn tại nhƣ một chỉnh thể.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều nhân nhân học tiêu biểu
chịu ảnh hƣởng từ những quan điểm của thuyết chức năng – cấu trúc trên nhƣ
Bronislaw Malinowski, A. Radcliffe – Brown, Talcott Parsons
Bronislaw Malinowski (1884 - 1942) sinh ra ở Ba Lan, lúc đầu Malinowski
học vật lý và toán, về sau trở thành giáo sƣ nhân học tại Trƣờng Đại học Tổng hợp
Luân Đôn.
Chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ quan điểm của Spencer coi xã hội nhƣ một tổ chức
sinh học đặc biệt, Malinowski phản đối cả thuyết khuếch tán lẫn thuyết tiến hóa và

18


triển khai các phân tích văn hóa của mình trên cơ sở những nhu cầu cơ bản của con
ngƣời (nhƣ ăn, mặc, sinh đẻ, nghỉ ngơi) hay các nhu cầu về an sinh xã hội (nhƣ trao
đổi kinh tế, giáo dục, kiểm soát xã hội, v.v…). Theo ông, sự khác nhau giữa các nền
văn hóa chính là ở cách thức làm thỏa mãn các nhu cầu đó. Khái niệm chức năng,
với Malinowski, giống nhƣ một công cụ để khám phá và giải thích các hiện tƣợng
văn hóa cụ thể. Ông cho rằng, văn hóa là tổng thể những đáp ứng đối với các nhu

cầu sống cơ bản và nhu cầu sản xuất của con ngƣời, trong đó bao gồm từ những
dụng cụ nhà bếp và những sản vật tiêu dùng đến những pháp điền tổ chức việc
nhóm họp xã hội, từ những tƣ tƣởng và nghệ thuật đến những tín ngƣỡng phong tục,
đạo đức, v.v… Đó là một hệ thống cân bằng, trong đó mỗi yếu tố hoặc bộ phận đều
thực hiện chức năng của nó. Trong cái chỉnh thể đó, nếu triệt tiêu đi bất cứ một yếu
tố nào (nhƣ cấm đoán một nghi lễ hay một chuẩn mực đạo đức) thì toàn bộ hệ thống
xã hội sẽ không vận hành đƣợc, nó sẽ bị suy thoái và hủy diệt. Nói cách khác, mỗi
yếu tố hay thể chế xã hội đều tạo ra sự thống nhất chức năng với các yếu tố hay thể
chế khác, và nhƣ vậy chúng đều có những đóng góp nhất định vào sự tồn tại của
nền văn hóa mà chúng xuất hiện. Chính vì lý do đó, ông chủ trƣơng xã hội nào cũng
cần phải đƣợc bảo tồn và mở rộng các yếu tố của hệ thống với các chức năng cụ thể
của chúng, bởi mỗi chức năng nhƣ thế đều nhằm thỏa mãn một nhu cầu cụ thể của
con ngƣời. Công việc của các nhà nhân học, theo ông là "hòa nhập" vào nền văn
hóa đó, bao gồm cả việc học bản ngữ, để khám phá các chức năng đó. Đó là lý do
mà cách tiếp cận của ông đƣợc đặt tên là trƣờng phái Chức năng.
A. Radcliffe - Brown (1881 - 1955) học Nhân học ở Đại học Tổng hợp
Cambridge, từ 1931 đến 1937 là giáo sƣ đại học Chicago, năm 1939 làm Chủ nhiệm
Bộ môn Nhân học xã hội thuộc Đại học Tổng hợp Oxford.
Về học thuật, Radcliffe - Brown chịu ảnh hƣởng và kiên trì quan điểm của E.
Durkheim, coi văn hóa và xã hội nhƣ một cơ thể sống, trong đó mọi bộ phận đều có
quan hệ hữu cơ với nhau để tạo ra một cơ chế cân bằng và thống nhất. Quan điểm
này nhấn mạnh rằng nếu văn hóa và xã hội tồn tại nhƣ tổng thể các chức năng, thì
nhà nghiên cứu cần làm rõ mối quan hệ giữa các thành tố mang chức năng cụ thể

19


×