Tải bản đầy đủ (.pdf) (223 trang)

Vị từ trạng thái trong tiếng việt (so sánh với tiếng anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 223 trang )

HỌC QUỐC GIA HÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------

Trần Thò Minh Phượng

VỊ TỪ TRẠNG THÁI
TRONG TIẾNG VIỆT
(So sánh với tiếng Anh)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINTRƯỜNG ĐẠI HỌC


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------

Trần Thò Minh Phượng

VỊ TỪ TRẠNG THÁI
TRONG TIẾNG VIỆT
(So sánh với tiếng Anh)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh
Mã số: 5.04.27

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM HÙNG VIỆT

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2009


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả khảo sát miêu tả và thực nghiệm nêu trong luận án này là trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Thò Minh Phượng


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ƒ [ , tr. ]

: tài liệu trích dẫn số … trang … trong danh mục Tài
liệu tham khảo hay Nguồn tư liệu trích dẫn

ƒ (!)

: phát ngôn hay từ không dùng trong thực tế

ƒ HS

: học sinh


ƒ THCS

: Trung học cơ sở

ƒ THPT

: Trung học phổ thông

ƒ VT

: vò từ

ƒ VTTT

: vò từ trạng thái

ƒ v.v

: vân vân

ƒ (x. phụ lục 1)

: xem phụ lục 1


MỤC LỤC
Phần mở đầu ........................................................................................................1
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN TỚI VỊ TỪ TRẠNG THÁI

1.1.Vò từ trạng thái ..........................................................................................13
1.1.1. Khái niệm vò từ trạng thái ..................................................................... 13
1.1.2. Phân loại ............................................................................................... 14
1.2 . Nghóa của từ. Phương pháp phân tích thành tố nghóa ............................18
1.2.1. Nghóa của từ .......................................................................................... 18
1.2.2. Các quy luật phát triển nghóa................................................................ 26
1.2.3. Phương pháp phân tích thành tố ........................................................... 30
1.3. Cơ sở tri nhận vò từ trạng thái ..................................................................41
1.3.1. Một số nét cơ bản về ngôn ngữ học tri nhận ......................................... 41
1.3.2. Tri nhận về vò từ trạng thái ................................................................... 46
1.4. Tiểu kết .....................................................................................................48
Chương 2
VỊ TỪ TRẠNG THÁI CHỈ TÍNH CHẤT
2.1. Vò từ trạng thái chỉ thể trạng ...................................................................49
2.1.1. Nghóa và các kết hợp của các từ béo, gầy .............................................49
2.1.2. Hiện tượng chuyển nghóa của các từ béo, gầy .......................................60
2.1.3. Những điểm tương đồng và dò biệt của các từ béo, gầy so với
các từ tương đương trong tiếng Anh ..................................................................... 67
2.1.4. Tri nhận về trạng thái béo / gầy ........................................................... 78
2.2. Vò từ trạng thái chỉ tính trạng ................................................................82
2. 2.1.Nghóa và các kết hợp của các từ hiền, dữ ............................................ 82
2.2.2. Hiện tượng chuyển nghóa của các từ hiền, dữ.......................................88
2.2.3. Những điểm tương đồng và dò biệt của các từ hiền, dữ so với
các từ tương đương trong tiếng Anh ............................................................... 92
2.2.4.Tri nhận về trạng thái hiền/ dữ ........................................................... 102


2.3. Tiểu kết ..................................................................................................... 105
Chương 3
VỊ TỪ TRẠNG THÁI CHỈ TÌNH TRẠNG

3.1. Vò từ trạng thái chỉ hình trạng................................................................108
3.1.1. Nghóa và các kết hợp của các từ tròn, méo ......................................109
3.1.2. Hiện tượng chuyển nghóa của các từ tròn, méo ...............................117
3.1.3. Những điểm tương đồng và dò biệt của các từ tròn, méo so
với
các từ tương đương trong tiếng Anh............................................................ 122
3.1.4. Tri nhận về trạng thái tròn / méo ..................................................... 129
3.2. Vò từ trạng thái chỉ tâm trạng ...............................................................133
3.2.1. Nghóa và các kết hợp của các từ yêu, ghét. ......................................... 134
3.2.2. Hiện tượng chuyển nghóa của các từ yêu, ghét.................................... 141
3.2.3. Những điểm tương đồng và dò biệt của các từ yêu, ghét so với
các từ tương đương trong tiếng Anh ..................................................... 145
3.2.4. Tri nhận về trạng thái yêu / ghét ......................................................... 154
3.3.Tiểu kết ...................................................................................................... 156
Chương 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC SỬ DỤNG VỊ TỪ TRẠNG THÁI
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
4.1. Những vấn đề liên quan đến hiện tượng đồng nghóa, trái nghóa
khi sử dụng vò từ trạng thái ..........................................................................159
4.1.1- Từ đồng nghóa ....................................................................................160
4.1.2- Từ trái nghóa ......................................................................................166
4.1.3- Các dạng bài tìm từ đồng nghóa, trái nghóa tiêu biểu ......................... 168
4.2. Những vấn đề liên quan đến hiện tượng đa nghóa khi chuyển
dòch vò từ trạng thái ......................................................................................174
4.2.1-Nhóm từ chỉ tính chất........................................................................... 177
4.2.2- Nhóm từ chỉ tình trạng .......................................................................180


4.3. Thực nghiệm về cách sử dụng VTTT tiếng Việt và tiếng Anh
ở học sinh. .......................................................................................................182

4.3.1- Các bài tập kiểm tra về cách chọn từ đồng nghóa, trái nghóa,
từ đa nghóa có liên quan đến VTTT trong tiếng Việt và tiếng
Anh......................................................................................................184
4.3.2- Các câu dòch có VTTT từ tiếng Việt sang tiếng Anh và từ
tiếng Anh sang tiếng Việt .....................................................................189
4.3.3- Kết quả và giải pháp ........................................................................ 193
4.4. Tiểu kết ..................................................................................................196
Phần kết luận ..................................................................................................199
Danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề
tài của luận án
Danh mục tài liệu tham khảo và Nguồn tư liệu trích dẫn
Phụ lục 1: Bản thống kê các từ thường dùng trong tiếng Anh
Phụ lục 2: Bài khảo sát tiếng Việt
Phụ lục 3: Bài khảo sát tiếng Anh


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vò từ là thành phần không thể thiếu của phần lớn các phát ngôn trong bất cứ
ngôn ngữ nào. Theo Nguyễn Thò Quy, có khoảng 72% câu trong các văn bản
nghệ thuật tiếng Việt có vò từ làm trung tâm cho phần thuyết [57, tr.36]. Mặt
khác, trong thực tế học tập, nghiên cứu và giảng dạy Việt ngữ và Anh ngữ,
chúng tôi nhận thấy người học nắm được nghóa và cách sử dụng của vò từ của
một ngôn ngữ càng vững bao nhiêu thì khả năng sử dụng thứ ngôn ngữ ấy của họ
càng nhiều bấy nhiêu. Vò trí quan trọng của vò từ trong phát ngôn là lý do chính
khiến chúng tôi hết sức quan tâm đến đối tượng này. Sự quan tâm ấy được bắt
đầu từ luận văn thạc só của chúng tôi.
Trong khi vò từ chỉ hành động đã có nhiều công trình nghiên cứu quan tâm

đến, thì vò từ chỉ trạng thái lại chưa được may mắn như thế. Số lượng vò từ chỉ
trạng thái tuy không nhiều, nhưng tần suất sử dụng lại rất cao. Theo thống kê
của Gregor D. Smart (được công bố tại hội thảo khoa học SEAMEO TP.HCM
tháng 3/2007), số lượng vò từ trạng thái chiếm vò trí đáng kể trong số 4,7 triệu
lượt từ thường dùng trong tiếng Anh. Ví dụ như biết: 65.808 lượt, thích: 48.098
lượt, v.v. (x. Phụ lục 1). Tuy được sử dụng nhiều, nhưng việc sử dụng vò từ trạng
thái sao cho đúng nghóa và phù hợp với ngôn cảnh lại là điều không dễ dàng.
Bởi lẽ trong nhiều trường hợp của hoạt động tu từ, các biến thể của chúng có giá
trò tu từ khác nhau, chẳng hạn, không đẹp rất khác với xấu, không ghét chưa hẳn
đã là thích, còn thích chưa chắc đã là yêu, cũng như yêu mến, yêu quý, kính yêu,
v.v., lại có những sắc thái ngữ nghóa khác hẳn nhau.Vì vậy, trong quá trình dạy
tiếng Anh cho người Việt, hoặc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, ta không
thể dòch các cặp từ đồng nghóa hoặc trái nghóa một cách tùy tiện, mà cần có sự


2

quan tâm đúng mức đến mặt ngữ nghóa và ngữ dụng của chúng. Muốn vậy, ta
không thể chỉ xem xét nghóa của từ trên cơ sở đặc điểm ngữ pháp, khả năng kết
hợp, vò trí, chức năng ngữ pháp của từ ấy trong câu, mà còn phải đặt chúng vào
những phát ngôn và nghiên cứu nghóa của những phát ngôn đó trong ngôn cảnh,
tức cần xem xét nghóa của từ trong toàn bộ các phát ngôn nói chung. Đó là lý do
tiếp theo khiến chúng tôi thấy cần quan tâm hơn đến ngữ nghóa và cơ sở tri nhận
của vò từ chỉ trạng thái.
Từ năm 1980, tiếng Anh là một trong bốn ngoại ngữ (bên cạnh tiếng Nga,
tiếng Pháp và tiếng Trung) được dạy bắt buộc trong nhà trường trên cả nước.
Những năm gần đây, việc dạy và học tiếng Anh lại chiếm ưu thế rõ rệt so với
các thứ tiếng khác. Trong xu thế hội nhập kinh tế với thế giới hiện nay, nhu cầu
học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng lại càng được chú trọng. Tuy
vậy, việc giảng dạy và học tập tiếng Anh vẫn chưa được thực hiện bằng những

phương pháp khoa học tương thích, khiến cho hiệu quả thu được chưa cao, chưa
đáp ứng đươc nhu cầu mong muốn về việc sử dụng tiếng Anh của người Việt
Nam nói chung và lực lượng lao động trẻ của cả nước nói riêng. Tình trạng này
là do đa số giáo viên và học sinh vẫn dạy và học tiếng Anh theo phương pháp
ngữ pháp – phiên dòch. Để tránh việc dạy và học thụ động ấy, cả thầy lẫn trò
cần chú ý đến tổ chức các hoạt động tích cực, thông qua việc chú ý đến ngữ
nghóa và ngữ dụng của các phát ngôn hơn. Đây là lý do khiến chúng tôi chọn
tiếng Anh làm đối tượng để so sánh chủ yếu khi tìm hiểu về vò từ trạng thái của
tiếng Việt. Trong trường hợp cần thiết, chúng tôi có so sánh với tiếng Pháp,
tiếng Nga để thấy rõ vấn đề hơn.
Khi tiến hành khảo sát các dữ liệu ngôn ngữ đã thu thập được về các vò từ
chỉ trạng thái, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm tương đồng và dò biệt giữa


3

tiếng Việt và tiếng Anh rất thú vò. Chẳng hạn từ tròn trong tiếng Việt có nghóa
là có hình dáng giống như hình tròn, đường tròn, hình cầu, hoặc có nghóa âm
thanh dễ nghe hoặc việc làm nào đó trôi chảy. Vì vậy, từ tròn trong tiếng Việt
thường được kết hợp với các danh từ chỉ sự vật, như bàn tròn, trăng tròn, v.v.
hay chỉ các bộ phận trong cơ thể con người hoặc động vật, như khuôn mặt tròn,
mắt tròn (như hạt nhãn), v.v., nghóa là tròn được dùng như một từ chỉ trạng thái
tónh. Các trường hợp tròn được dùng như một vò từ chẳng hạn như tròn môi, tròn
mắt … được dùng khá hạn chế. Trong khi đó, round trong tiếng Anh, ngoài các
nghóa giống như tiếng Việt, còn có nghóa di chuyển theo hình tròn, như We round
our lips when we say “oo”(Ta đọc tròn môi khi phát âm “oo”), wheels go round
(bánh lái xoay tròn), hoặc có nghóa nói hay viết vòng vo, không đi vào trọng tâm,
như The report is going round (Bài báo cáo không đi vào nội dung chính). Như
vậy, round trong tiếng Anh vừa có chức năng của một vò từ chỉ trạng thái tónh
vừa có chức năng của một vò từ biểu thò trạng thái động rất phổ biến.

Xin dẫn thêm một dẫn chứng nữa. Để mô tả tình trạng béo, tiếng Việt
cũng như tiếng Anh có rất nhiều từ khác nhau như to, lớn (big), bụ bẫm (plump),
đẫy đà (buxom), to, mập, lực lưỡng (beefy), béo, mập (fat), mũm móm (chubby),
v.v.. Mỗi một từ như vậy, thường kèm theo sắc thái đánh giá và thường chỉ dùng
để miêu tả một hoặc một số đối tượng nhất đònh trong phạm vi hẹp. Cho nên,
nếu vượt ra ngoài phạm vi sử dụng đó, chẳng hạn dùng fat khi nói về người được
ta kính trọng, yêu mến, thì sẽ trở nên khiếm nhã; hoặc dùng plump hay chubby
để mô tả một phụ nữ trung niên hay một thanh niên thì sẽ làm cho hình ảnh đối
tượng miêu tả không chính xác và nội dung thông báo trở nên hài hước.
Trong câu, nội dung của sự thể quyết đònh cách tổ chức các tham tố và
quan hệ giữa các tham tố, theo đó cũng quyết đònh cả tổ chức cấu trúc ngữ nghóa


4

của phát ngôn. Nói cách khác, nghóa của vò từ giữ vai trò quyết đònh đối với cách
tổ chức của câu về ngữ pháp. Tiếc thay, vì số lượng các vò từ trạng thái (vốn có
hai nét đặc trưng là không động [– động] (tức là tónh), và không chủ ý [– chủ ý]
(tức là chỉ tính chất của sự vật)) lại quá lớn so với quỹ thời gian và khả năng
thực hiện của bản thân, nên trong luận án này chúng tôi chỉ tập trung xem xét
mặt ngữ nghóa và cơ sở tri nhận của các cặp từ: tròn – méo, béo – gầy, yêu –
ghét, hiền – dữ, vốn đại diện cho bốn nhóm nhỏ thuộc vò từ trạng thái (được phân
chia ở mục phân loại vò từ, chương I), và so sánh chúng với tiếng Anh mà thôi.
2. Lòch sử vấn đề
Vấn đề vò từ trạng thái đã được không ít các nhà ngôn ngữ học đề cập tới,
chẳng hạn như Anna Wierzbicka (1999), Cliff Goddard (1998), Anna
Gladkova(2004), v.v. Đặc biệt, Anna Wierzbicka (1999) đã phân tích ngữ nghóa
và cơ sở tri nhận của các từ freedom (tự do) và so sánh với các nghóa biểu hiện
của các từ libetas trong tiếng Latin, svoboda trong tiếng Nga, wolnos’c’ trong
tiếng Ba Lan. Công trình của bà đã đi đến những điểm tương đồng và dò biệt về

văn hoá trong việc tri nhận các từ này. Tác giả Cliff Goddard cũng thông qua
việc so sánh giữa tiếng Malay và tiếng Anh để khảo sát nghóa biểu hiện của các
từ sabar, ikhlas, setia trong tiếng Malay và patient, sincere, loyal (kiên nhẫn,
chân thực, trung thành) trong tiếng Anh. Tiếp thu thành quả của các công trình đi
trước, Anna Gladkova đã phân tích các thang độ biểu thò tính trạng của con người
qua việc so sánh các từ suffer, endure, tolerant (chòu đựng, cam chòu, vò tha) với
terpet’ trong tiếng Nga, từ đó đưa ra những kết luận về cơ sở tri nhận các nét
nghóa khác biệt của từ terpet’ do những khác biệt về văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
những nghiên cứu vừa nêu đều chủ yếu đi sâu vào phân tích việc giao thoa về
văn hóa giữa các thứ tiếng. Hơn nữa, đối tượng khảo sát trong những công trình


5

vừa nêu trên thực tế cũng chưa đụng chạm đến nhóm từ mà luận án này khảo sát
như tròn, méo, béo, gầy, yêu, ghét, hiền, dữ, v.v.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, cũng đã có rất nhiều tác giả trên thế
giới quan tâm đến các vấn đề về ngữ nghóa và cơ sở tri nhận. Bởi vì các nhà
nhận thức luận đã coi ngôn ngữ như là một mặt hữu cơ của nhận thức và việc
hiểu cấu trúc ngữ pháp phải gắn với ngữ nghóa. Trong thực tế, ngôn ngữ học tri
nhận đã chòu nhiều ảnh hưởng của tâm lý học, nhất là tâm lý học nhận thức.
Noam Chomsky (1988) đã từng xem ngôn ngữ học là một bộ phận của tâm lý
học. Theo hướng này, có thể kể tên một số nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp
trong ngữ nghóa học và ngôn ngữ học tri nhận là Ronald W. Langacker (1991,
2002), Gilles Fauconnier & Marturner (1995), Leonard Talmy (2000), Charles
Fillmore (2002), John Lyons (2006), Anna Wierzbicka (1992), Anna Zalizniak
(2006).
Trong nước, tác giả Chu Bích Thu [71] cũng đã cho nhóm từ chỉ tính chất
là quan trọng và đã đi sâu nghiên cứu “Những đặc trưng ngữ nghóa của tính từ
tiếng Việt hiện đại”. Tuy nhiên, trong luận án này, tác giả chỉ tập trung nghiên

cứu ba nhóm tính từ: nhóm tính từ biểu thò kích thước của sự vật trong không
gian : cao – thấp, dài – ngắn, rộng – hẹp, v.v.; nhóm tính từ biểu thò phẩm chất:
đẹp – xấu, hay – dở, v.v.; nhóm tính từ biểu thò phẩm chất chung : tốt – xấu, v.v.
[71, tr. 5]; chứ chưa quan tâm nhiều đến nhóm từ chỉ trạng thái tròn, méo, béo,
gầy, yêu, ghét, hiền, dữ, v.v..
Tác giả Lý Toàn Thắng (2005), một trong những người tiên phong trong
việc tiếp cận ngôn ngữ học tri nhận, lại quan tâm đến ngôn ngữ học tri nhận từ
góc độ ngôn ngữ học tộc người, tập trung vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư
duy, đặc biệt quan tâm đến các dạng thức tri nhận về không gian.


6

Kế thừa thành quả của những nhà ngôn ngữ học tri nhận đi trước, tác giả
Nguyễn Thò Dự [18] cũng đã nghiên cứu khá chi tiết và thú vò các tính từ chỉ
kích thước trong không gian như cao, thấp, ngắn, dài, rộng, hẹp, nông, sâu, dày,
mỏng, v.v. của tiếng Việt trong sự so sánh với tiếng Anh.
Một số sách vở viết về ngữ pháp tiếng Việt của các tác giả như Nguyễn
Tài Cẩn, Đinh Văn Đức, v.v., cũng ít bàn tới nhóm từ chỉ trạng thái như tròn,
méo, béo, gầy, yêu, ghét, hiền, dữ, v.v. Đặc biệt là chưa có công trình nào phân
tích ngữ nghóa các cặp từ biểu thò trạng thái một cách cụ thể và so sánh chúng
với tiếng Anh.
Tuy những công trình vừa nêu không trực tiếp liên quan đến các vò từ
được khảo sát trong luận án này, nhưng những cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu kế thừa từ những công trình ấy đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng
tôi rất nhiều trong việc triển khai đề tài.
3. Nhiệm vụ của luận án
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu từ vựng – ngữ nghóa của từ thường
được triển khai theo hai hướng chính.
Hướng thứ nhất, mà đại diện là những công trình nghiên cứu của những

năm 30 và 40 của thế kỉ trước, thường tập trung vào việc phân loại và đặt tên
cho các tiểu loại lớn nhỏ trong nhóm, chứ ít chú trọng tới việc tiếng Việt đã
dùng những phương tiện gì để diễn đạt những ý nghóa ấy. Theo cách này, các
nhà nghiên cứu thường hệ thống hoá các dẫn liệu đã được sưu tập trong các bộ
từ điển và phát hiện các mối quan hệ có tính hệ thống giữa các từ và ngữ nghóa
của chúng nhờ phân loại lại các từ theo các nhóm đã được đònh nghóa. Cách tiếp
cận đó tuy bao quát được một khối lượng lớn các đơn vò ngôn ngữ được sắp xếp


7

trong hệ thống, nhưng lại chỉ xác đònh nghóa của các từ trong nhóm như đã được
mô tả trong các từ điển, chứ chưa đi sâu vào cơ cấu nghóa của các từ hữu quan.
Hướng thứ hai là nghiên cứu từ vựng – ngữ nghóa theo những cách dùng
cụ thể trong thực tiễn, ngay cả những cách dùng chưa được mô tả trong từ điển
hoặc đã mô tả nhưng chưa đi sâu vì những cách dùng ấy chỉ mới được trình bày ở
dạng khái quát, chứ chưa được miêu tả, được cập nhật, được trình bày một cách
đầy đủ, rõ ràng.
Nhiệm vụ mà luận án này muốn thực hiện không phải là phân loại hay
đònh nghóa từ vựng nhóm từ tròn, méo, béo, gầy, yêu, ghét, hiền, dữ, mà là tìm
hiểu cơ cấu ngữ nghóa của nhóm từ ấy trong tiếng Việt và tiếng Anh thông qua
các phát ngôn và những cách dùng của các từ trong nhóm này trong các tác
phẩm văn học hiện thời, để qua đó tìm hiểu sâu thêm về khía cạnh tri nhận của
chúng nhằm trả lời cho câu hỏi : những ý niệm được thể hiện bằng các từ tròn –
méo, béo – gầy, yêu – ghét, hiền – dữ có phải sản phẩm của quá trình tương tác
giữa những tri thức có được về thực tại khách quan với thực tại khách quan hay
không.
Nhiệm vụ cụ thể mà chúng tôi tự đặt ra khi thực hiện đề tài này là:
(a) Phân tích ngữ nghóa của các vò từ chỉ trạng thái : tròn, méo, béo, gầy,
yêu, ghét, hiền, dữ thông qua cách dùng những từ đó trong thực tiễn giao

tiếp của người Việt.
(b) So sánh những điểm tương đồng và dò biệt về ngữ nghóa và ngữ dụng của
nhóm vò từ này giữa tiếng Việt và tiếng Anh.
(c) Tìm hiểu cơ sở tri nhận của nhóm vò từ đang phân tích thông qua các cấu
trúc so sánh và cách sử dụng từ đồng nghóa, trái nghóa.


8

(d) Tiến hành thực nghiệm nhằm ứng dụng các kết quả khảo sát vào việc dạy
và học tiếng Việt cũng như tiếng Anh.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vò từ chỉ trạng thái tròn, méo,
béo,
gầy, yêu, ghét, hiền, dữ. Các từ đứng trước hoặc sau các vò từ này (như [tròn] vo,
[méo] xẹo, [béo] bệu, [gầy] nhom, [hiền] hậu, [hiền] hòa, [dữ] tợn, [dữ] dằn,
[yêu] tha thiết, [ghét] cay [ghét] đắng, v.v.) là những từ biểu hiện những sắc thái
nghóa khác nhau của từ gốc.
Để lựa chọn nhóm vò từ này, chúng tôi dựa vào mấy tiêu chí sau:
Tiêu chí thứ nhất là các cặp từ được chọn để so sánh về nghóa thuộc vốn
từ vựng cơ bản này đại diện cho nhóm từ để mô tả trạng thái nào đó. Chẳng hạn
tròn, méo là các vò từ hình trạng dùng để mô tả tình trạng của các vật vô tri hoặc
bộ phận nào đó của cơ thể người hay động vật như nguyên, vuông, thẳng, méo,
xéo, xoắn, vặn, cong, lành, rách, v.v.. Các vò từ béo, gầy để biểu thò thể trạng của
người hay động vật hoặc những thực thể được coi như người hay động vật như
cao, to, khỏe, mạnh, mập, thấp, nhỏ, yếu, xìu, vụng, lả,… Các vò từ chỉ tâm trạng
yêu, ghét biểu thò những trạng thái không thường tồn của người hay động vật như
thích, khoái, thương, say, mê, chán, ghét, dỗi, hờn, ghen, tức… Và các vò từ chỉ chỉ
tính trạng hiền, dữ biểu thò tính tình và tính khí thường tồn của người hay động
vật, hay những thực thể được coi như người hay động vật như lành, ngoan, chăm,

gan, dữ, bướng, ác, liều, dại, v.v.
Tiêu chí thứ hai để chọn lựa đối tượng nghiên cứu là dựa vào các vò từ trái
nghóa thường đi thành cặp với các từ trong nhóm đang xét. Chẳng hạn, từ trái
nghóa thường đi cặp với hiền là dữ, hiền trái nghóa với dữ, độc, ác nhưng đồng


9

nghóa với lành. Vò từ lành cũng trái nghóa với dữ, độc, ác. Vậy dữ, độc, ác trong
hai nhóm trái nghóa này liệu có nghóa như nhau trong các phát ngôn được khảo
sát không.
Tiêu chí thứ ba là nghóa của từ trạng thái được dùng ở đây để chỉ chung
cho những tính chất và tình trạng của sự vật. Tính chất là đặc trưng thường tồn
của một đối tượng. Tình trạng là một trạng thái nhất thời. Tính chất có thể chia
thành hai thứ: thể chất (như béo, gầy, yếu, khỏe, v.v) và tinh thần (như hiền, dữ,
khôn, dại, v.v.). Tình trạng vật chất có thể có được ở các vật vô sinh (như tròn,
méo, cong, thẳng, nguyên, sứt,v.v.). Còn tình trạng ở các vật hữu sinh như ở con
người và động vật còn thêm vào những trạng thái tâm lý, tình cảm (như vui,
buồn, yêu, ghét, lo, sợ, v.v.). Tuy nhiên, sự phân biệt này chỉ có tính chất tương
đối, vì tính chất cũng có thể thay đổi hoặc mất đi và ở đối tượng có thể xuất hiện
những tính chất khác. Hơn nữa, các trạng thái tinh thần của con người được phản
ánh trong từng ngôn ngữ cũng rất khác nhau.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Luận án được tiến hành trên cơ sở áp dụng các phương pháp phổ biến đối
với nghiên cứu ngôn ngữ học như: phương pháp miêu tả, phương pháp so sánh
đối chiếu, phương pháp thống kê. Phương pháp miêu tả giúp luận án nêu lên
được các nghóa khác nhau của từ không chỉ trong từ điển mà còn trong các văn
bản nghệ thuật, sách báo,… từ thực tiễn. Phương pháp miêu tả còn là cách thức
nêu ra cụ thể các nghóa gốc, nghóa phái sinh, nghóa chuyển của từ. Phương pháp
so sánh đối chiếu là cách thức giúp luận án tìm ra những điểm tương đồng và dò

biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh của nhóm từ đang xét. Phương pháp thống kê
là công cụ không thể thiếu khi tiến hành các khảo sát. Đồng thời luận án còn áp


10

dụng phương pháp phân tích thành tố nghóa, phương pháp thống kê và phương
pháp quy nạp khi tiến hành các khảo sát.
Nguồn ngữ liệu gồm hơn 2178 phiếu ngữ cảnh được thu thập từ các tác
phẩm văn học hiện thời, các loại báo, tạp chí và các loại sách ngữ pháp, sách
tham khảo, từ điển của chủ yếu hai thứ tiếng Việt và Anh.
Từ đònh hướng nghiên cứu vừa đặt ra, chúng tôi thu thập các cứ liệu, các
mẫu câu trong sách, báo, từ điển tiếng Việt để phân tích các nét nghóa tối giản,
các mối liên hệ ngữ nghóa của nhóm từ này trong các phát ngôn thông qua hiện
tượng đồng nghóa và trái nghóa, so sánh từng cặp các vò từ trạng thái, xem xét
các hiện tượng mở rộng nghóa, chuyển nghóa, các mối tương quan trong các cấu
trúc so sánh của nhóm từ được mang ra khảo sát. Sau đó tiến hành so sánh với
những dạng tương đương trong tiếng Anh, phân tích khả năng kết hợp và tìm
những điểm tương đồng dò biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh. Đồng thời kiểm tra
những kết luận qua việc tiến hành các bài khảo sát trắc nghiệm thực tế, sau khi
đã tổng hợp các kết quả và những điểm tương đồng dò biệt qua so sánh.
6. Đóng góp của luận án
Thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra, luận án sẽ có đóng góp nhất
đònh vào việc phân tích đặc điểm ngữ nghóa của nhóm từ chỉ trạng thái như mối
quan hệ giữa ngữ nghóa và ngữ pháp, ngữ nghóa và tri nhận. Về thực tiễn, việc
phân tích các cấp độ biểu hiện nghóa sẽ giúp cho người dạy và người học tiếng
có cái nhìn cụ thể hơn khi sử dụng nhóm từ này trong ngôn cảnh.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước và trên thế giới đề cập
đến ngữ nghóa cũng như việc tri nhận các vò từ trạng thái như đã đề cập ở phần
lòch sử vấn đề, nhưng luận án này giải quyết vấn đề theo hướng nghiên cứu cụ



11

thể hơn, với cách tiếp cận dữ liệu cập nhật hơn, thiết thực hơn. Các kết quả so
sánh đối chiếu sẽ giúp làm sáng tỏ hơn về những nội dung ngữ nghóa có tính đặc
thù về tri nhận, về văn hóa, về tư duy của người sử dụng hai ngôn ngữ Việt và
Anh. Việc phân tích cặn kẽ các nét nghóa của một nhóm từ cụ thể sẽ giúp người
học tiếng sử dụng ngôn ngữ tốt hơn, thể hiện ý người nói trong phạm vi đa dạng
hơn, tinh tế hơn.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục, danh mục sách tham
khảo và nguồn tư liệu trích dẫn, luận án có bốn chương sau đây:
Chương 1: “Cơ sở lý thuyết liên quan tới vò từ trạng thái”. Nội dung chương
này đề cập đến những khái niệm cơ bản được dùng làm cơ sở lý thuyết cho việc
triển khai đề tài của luận án như: vò từ trạng thái và cách phân loại của chúng,
nghĩa của vò từ trạng thái, các phương pháp phân tích thành tố nghóa, cơ sở tri
nhận về nghóa của vò từ trạng thái.
Chương 2: “Vò từ trạng thái chỉ tính chất”. Nội dung chương này đi sâu vào
việc phân tích ngữ nghóa của nhóm vò từ trạng thái chỉ thể trạng (như béo –gầy),
và vò từ trạng thái chỉ tính trạng (như hiền – dữ ), phân tích các nét đặc trưng
trong cách biểu hiện nghóa của các cặp từ này trong tiếng Việt và so sánh với
các dạng tương đương trong tiếng Anh, rút ra kết luận về cơ sở tri nhận của
chúng.
Chương 3: “Vò từ trạng thái chỉ tình trạng”. Chương này tập trung phân tích
ngữ nghóa của nhóm vò từ chỉ hình trạng (như tròn – méo ) và vò từ chỉ tâm trạng
(như yêu – ghét). Từ việc phân tích các nét đặc trưng trong cách biểu hiện nghóa
của các cặp từ này trong tiếng tiếng Việt, chúng tôi tiến hành so sánh với các



12

dạng tương đương trong tiếng Anh nhằm rút ra kết luận về cơ sở tri nhận của
chúng.
Chương 4: “Một số vấn đề về việc sử dụng vò từ trạng thái tiếng Việt và
tiếng Anh”. Ở chương này, luận án tìm hiểu cách sử dụng vò từ trạng thái thông
qua việc tiến hành một số khảo sát miêu tả và thực nghiệm về ngữ nghóa và
cách tri nhận các vò từ chỉ trạng thái ở học sinh phổ thông. Qua đó ứng dụng các
kết quả khảo sát đã thu thập được vào việc dạy và học tiếng Việt cũng như tiếng
Anh. Nội dungï khảo sát cụ thể bao gồm những vấn đề liên quan đến hiện tượng
đồng nghóa, trái nghóa khi sử dụng vò từ trạng thái, những vấn đề liên quan đến
hiện tượng đa nghóa khi chuyển dòch vò từ trạng thái và các khảo sát thực nghiệm
về cách sử dụng vò từ trạng thái tiếng Việt và tiếng Anh ở học sinh phổ thông.
Việc tiến hành đề tài tìm hiểu về ngữ nghóa và cơ sở tri nhận vò từ trạng
thái trong tiếng Việt, đồng thời so sánh chúng với các dạng tương đương trong
tiếng Anh hy vọng sẽ góp phần bổ sung, mở rộng thêm các vấn đề về phân tích
nghóa vò từ theo cơ chế tạo nghóa vò từ của mỗi ngôn ngữ trong quá trình hành
chức. Các kết quả nghiên cứu sẽ giúp ích cho việc giảng dạy và học tập tiếng
Việt cũng như tiếng Anh, đặc biệt là hỗ trợ cho việc biên soạn các giáo trình
dạy tiếng, từ điển (giải thích, đối chiếu) với các cứ liệu đa dạng và sát thực hơn.


13

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
CỦA LUẬN ÁN

1.1.Vò từ trạng thái
1.1.1- Khái niệm về vò từ trạng thái

Vò từ (predicate) là những từ có thể làm chức năng của một vò ngữ trong
câu có cấu trúc chủ – vò, hay là thành phần chính trong thuyết ngữ của câu có
cấu trúc đề –thuyết. Trạng thái, theo Từ điển tiếng Việt [77, tr.1024], “là tình
trạng của một sự vật hoặc của một con người, coi như không có gì thay đổi trong
một khoảng thời gian nào đó”.
(1)

- Các thiên thể ở trạng thái không ngừng chuyển động.

(2)

- Người bệnh ở trạng thái hôn mê.
Vò từ trạng thái là vò từ biểu thò tính chất và tình trạng của người, động vật

và những vật vô tri hoặc biểu thò quan hệ giữa các sự vật.
(3)

-

ác, hiền, dốt, siêng….

-

buồn, vui, thích, mong, nhớ …..

-

nóng, lạnh, tối, sáng, tròn, méo ….

-


bằng, hơn, kém, thua….

Thuật ngữ trạng thái được dùng để chỉ chung những tính chất và những
tình trạng của sự vật. Tính chất là đặc trưng thường tồn của một đối tượng. Tính
chất là một thuộc tính có thể bao gồm thể chất và tinh thần. Thể chất, trước hết
là ở các vật vô sinh như: rắn, mềm, đặc, loãng, v.v. , và thể chất của các vật hữu
sinh ở con người hay động vật như: béo, gầy, khỏe, yếu, v.v.. Trong khi đó, tính


14

chất tinh thần chỉ có ở con người hay động vật như: hiền, dữ, khôn, dại, lành, ác,
v.v.. Tình trạng là một trạng thái nhất thời, không nằm trong thuộc tính của đối
tượng. Các tình trạng vật chất có thể có được ở các vật vô sinh thường là do tác
động lý hóa hay của môi trường quy đònh như: tròn, méo, cao, thấp, ngắn, dài,
v.v. Tình trạng vật chất có thể có được ở các vật hữu sinh như con người hay
động vật cũng do môi trường tác động như vậy, nhưng còn có thêm những tình
trạng tâm lý như: vui, buồn, yêu, ghét, giận, sợ, mừng…
Tuy vậy, sự phân biệt này chỉ có tính chất tương đối vì tính chất của một
đối tượng có thể thay đổi, hoặc đối tượng đó có thêm những tính chất khác. Tình
trạng của một sự vật hiện tượng cũng không hẳn chỉ là nhất thời mà trở thành
tính chất của đối tượng đó, chẳng hạn vò từ tròn trong bàn tròn chỉ tình trạng,
nhưng cũng vò từ tròn ở trăng tròn lại chỉ tính chất. Do đó, cần phải phân loại các
vò từ trạng thái một cách rõ ràng để làm cơ sở cho việc phân tích ngữ nghóa và so
sánh ở các chương mục sau.
1.1.2- Phân loại
Tác giả Nguyễn Thò Quy [57, tr.49 và tr.76] đã vận dụng cách phân loại vò từ
của Dick Simon C., phân chia vò từ tiếng Việt thành 4 loại chính sau:
1. Các vò từ hành động: [+ động], [+ chủ ý]

2. Các vò từ tư thế:

[- động], [+ chủ ý]

3. Các vò từ quá trình: [+ động], [- chủ ý]
4. Các vò từ trạng thái: [- động], [- chủ ý]
Theo đó, vò từ trạng thái là loại vò từ có đặc trưng [- động] và [- chủ ý] để
chỉ tính chất hay tình trạng của một sự vật hiện tượng.
Tác giả Cao Xuân Hạo [31, tr.26-45] lại phân loại vò từ trạng thái tiếng Việt
theo tiêu chí thường tồn [+thường tồn], hay không thường tồn [-thường tồn].


15

• [+thường tồn]: Trạng thái thường tồn là trạng thái luôn gắn liền với người,
động vật và vật vô tri mang nó. Nói cách khác, trạng thái thường tồn của sự vật
là tính chất hoặc là phẩm chất của sự vật. Tính chất hoặc phẩm chất có thể thuộc
về thể chất hay tinh thần. Tính chất về tinh thần gọi là tính khí.
(4) - Má tuổi ngày càng cao, chân chùng gối mỏi như ngọn đèn treo trước
gió, chưa biết tắt lúc nào. [124, tr.547]
(5) - Một nhà người Mông trống hơ trống hoác bốn bề gió. [124, tr.553]
(6) - Anh ấy nóng tính và cương trực quá. [124, tr.640]
Các vò từ chùng, mỏi trong ví dụ (4) biểu thò thể trạng của con người – người già;
vò từ trống hơ trống hoác trong ví dụ (5) biểu thò trạng thái thường tồn của vật –
nhà trống; các vò từ nóng tính, cương trực trong (6) biểu thò trạng thái thường tồn
về tinh thần, tính khí của con người.
• [-thường tồn]: Trạng thái không thường tồn là một trạng thái có tính chất nhất
thời ở người, động vật và những vật vô tri. Loại trạng thái không thường tồn
được gọi là tình trạng. Tình trạng có thể gắn liền với thể chất (thể trạng), hoặc
có thể gắn với tinh thần (tâm trạng)

(7)

- Mọi người đã thấm lạnh. [124, tr.230]

(8) - Xe đã lún lầy. [124, tr.230]
(9) - Nghe tôi nói, anh Bảy thôi cười, mặt hơi buồn. [124, tr. 223]
Vò từ thấm lạnh trong (7) biểu thò trạng thái không thường tồn về thể chất của
người là mọi người; vò từ lún ở ví dụ (8) biểu thò trạng thái không thường tồn của
một vật là xe; vò từ buồn trong ví dụ (9) biểu thò trạng thái không thường tồn của
một người là anh Bảy.
Những trạng thái về thể chất có ở người và động vật gọi là thể trạng; cũng


16

có thể có ở các vật vô tri gọi là vật trạng hay hình trạng. Sự phân biệt về thể
trạng và hình trạng có liên quan đến các vai nghóa của các vò từ biểu thò các
trạng thái này. Căn cứ theo các tiêu chí trên, có thể xếp vò từ trạng thái tiếng
Việt thành bốn tiểu loại chính sau:
1- Thể trạng: gầy, ốm, béo, mập, cao, thấp, lùn, …
2- Hình trạng: tròn, vuông, thẳng, méo, cong, lệch, vẹo,…
3- Tính trạng: hiền, dữ, lành, ác, độc đòa, nham hiểm, …
4- Tâm trạng: yêu, ghét, nhớ, thương, giận, hờn, ghen, tức,…
Tác giả O.H. Cеливерстова (1982), lại đưa ra cách phân loại khác thông
qua bảy đặc trưng của trạng thái như sau:
1- Trạng thái được đònh vò trên trục thời gian.
2- Trạng thái diễn ra trong một thời đoạn chứ không phải thời điểm.
3- Trạng thái được kéo dài nhưng đứng im, không phát triển, không biến đổi trong
thời gian.
4- Chủ thể của trạng thái không phải là kẻ hành động, mà là kẻ thụ cảm. Chủ thể

không “bỏ sức” ra duy trì trạng thái.
5- Trạng thái luôn hướng về chủ thể.
6- Trạng thái chiếm những thời đoạn xác đònh mà không thể trừu tượng hóa khỏi
những thời đoạn này, tức là chúng không thể tạo nên một lớp những trạng thái
đồng loại.
7- Trạng thái biểu thò thuộc tính tiêu cực, “lâm thời” của đối tượng, trong lúc tính
chất là thuộc tính thường xuyên của đối tượng. (dẫn theo Nguyễn Ngọc Trâm [78,
tr. 50, 51])


17

Có thể thấy những đặc trưng của vò từ trạng thái theo quan điểm của các
tác giả vừa nêu trên chủ yếu đều đề cập đến tính chất và tình trạng của sự vật
và con người, căn cứ theo tính chất thường xuyên hay lâm thời của tính chất hay
tình trạng đó.
Tiếp thu các cách phân loại trong các công trình nghiên cứu vừa nêu,
chúng tôi thống nhất quan điểm phân loại vò từ trạng thái theo tiêu chí thường
tồn hay không thường tồn của trạng thái của một đối tượng, căn cứ theo tính chất
thường xuyên hay lâm thời của trạng thái để xếp vò từ trạng thái tiếng Việt
thành bốn tiểu loại chính theo bảng tóm lược 1.1 sau:
Bảng 1.1- Phân loại vò từ trạng thái
STT

VỊ TỪ

NỘI DUNG BIỂU THỊ

VÍ DỤ


TRẠNG THÁI
1

Tính trạng

Tính chất và khí chất của ác, bướng, dại, gan, liều,
người hoặc động vật

2

Tâm trạng

Trạng thái tâm lý của cáu,
người hoặc động vật

3

Thể trạng

ngoan, nhát, hiền, dữ, v.v.
bận,

chăm,

hỗn,

thích, yêu, ghét v.v.

Tính chất hoặc tình trạng béo, gầy, câm, đau, khỏe,
thuộc về cơ thể của mập, ngọng, rêm, si, sống,

người hay động vật

4

Hình trạng

xỉu, v.v.

Tính chất hoặc tình trạng cao, dẻo, đặc, dột, hôi,
của các vật vô tri

mẻ, ngắn, rắn, sắc, thật,
tròn, méo, v.v.


18

1.2. Nghóa của từ. Phương pháp phân tích thành tố nghóa
1.2.1. Nghóa của từ
Theo tác giả Bùi Khánh Thế [67, tr.119], “Nghóa của từ không chỉ nói lên
cách phản ánh sự vật độc đáo ở mỗi cộng đồng ngôn ngữ, quá trình hình thành
trong lòch sử, mà còn thể hiện tính đa dạng và linh hoạt của con người khi phản
ánh sự vật...”. Khi nói đến nghĩa của từ, người ta thường phân biệt các thành
phần nghĩa sau đâây:
- Nghĩa biểu vật (denotative meaning) là mối liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện
tượng, thuộc tính, hành động,…) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tượng, thuộc
tính, hành động,…đó người ta gọi là biểu vật hay cái biểu vật (denotat). Biểu vật
có thể hiện thực hoặc phi hiện thực, hữu hình hay vô hình, có bản chất vật chất
hoặc phi vật chất. Ví dụ: đất, trời, mưa, nắng, nóng, lạnh, ma, quỷ, thánh, thần,
thiên đường,địa ngục,…

- Nghĩa biểu niệm (significative meaning) là mối liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý
nghĩa, ý niệm). Cái ý đó người ta gọi là cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản
ánh các thuộc tính của biểu vật vào trong ý thức của con người).
- Nghĩa ngữ dụng (pragmatical meaning), còn được gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa
hàm chỉ (connotative meaning), là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm
xúc của người nói.
- Nghĩa cấu trúc (structural meaning) là mối quan hệ giữa từ với các từ khác
trong hệ thống từ vựng. Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục:
trục đối vị (paradigmatical axis) và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis). Quan hệ
trên trục đối vị cho ta xác định được giá trị của từ, khu biệt từ này với từ khác,


×