Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thị trường tài chính việt nam, thực trạng và thách thức trong vấn đề tái cấu trúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.76 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................1
GIỚI THIỆU....................................................................................................................................................2
PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM.........................................................................3
PHẦN II: THỰC TRẠNG TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY..............14


GIỚI THIỆU
Thị trường tài chính giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế
với chức năng chủ yếu là huy động và phân bổ các nguồn lực trong nền
kinh tế. Với bất kỳ quốc gia nào, sự ổn định và lành mạnh của thị trường
tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân hàng luôn giữ vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm
kinh tế toàn cầu kéo dài từ năm 2008 và đến nay vẫn còn để lại hậu quả
nặng nề ở nhiều nước, đặc biệt là ở Mỹ có nguyên nhân chính từ sự yếu
kém của hệ thống ngân hàng thương mại, điều đó buộc các quốc gia phải
quan tâm, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của các ngân hàng. Việc tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng đã trở nên phổ biến và cấp thiết ở mỗi quốc gia,
đảm bảo cho các ngân hàng thích nghi được với nhu cầu phát triển mới
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến động. Ở Việt Nam, khi mà
thị trường chứng khoán chưa phát triển, gánh nặng về vốn còn dồn lên
vai ngân hàng, thì việc chú trọng công cuộc tái cấu trúc thị trường tài
chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng là vô cùng quan trọng.
Bài viết xin nghiên cứu về chủ đề: “Thị trường tài chính Việt
Nam, thực trạng và thách thức trong vấn đề tái cấu trúc”. Bài viết tập
trung nghiên cứu về thị trường tài chính Việt Nam cũng như tiến trình tái
cấu trúc thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng từ năm 2011 đến nay
nhằm đánh giá những thành tựu đạt được, những hạn chế, được – mất khi
tiến hành hoạt động tái cấu trúc trên.

2




PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về thị trường tài chính Việt Nam
1.1.1.Những vấn đề chung về thị trường tài chính:
 Khái niệm:
Thị trường tài chính là thị trường trong đó vốn được chuyển từ
những người hiện có vốn dư thừa sang những người thiếu vốn. Nói cách
khác:Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động giao dịch và mua bán
quyền sử dụng những khoản vốn thông qua các phương thức giao dịch
và những công cụ tài chính nhất định.
 Chức năng của thị trường tài chính:
- Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn
Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là dẫn vốn từ những người
dư thừa vốn sang những người cần vốn. Với những người dư thừa vốn,
thu nhập lớn hơn chi tiêu, những người này có thể là Chính phủ, các tổ
chức hoặc cá nhân. Trong khi đó, do chi tiêu lớn hơn thu nhập, chính
phủ, các tổ chức và cá nhân khác lại cần vốn. Sự chuyển dịch vốn được
thực hiện qua hai con đường: tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Thông
qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong
việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó
làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
- Xác định giá cả của các tài sản tài chính
3


Thông qua quan hệ giữa người mua và người bán (quan hệ cung cầu
trên thị trường) giá cả của các tài sản tài chính được xác định, hay nói
cách khác, lợi tức yêu cầu của tài sản tài chính được xác định. Vì vậy, thị
trường tài chính là nơi hình thành nên giá cả của các tài sản tài chính ư

các "hàng hoá" trên thị trường.
- Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính
Thị trường tài chính cung cấp một một cơ chế để các nhà đầu tư có
thể trao đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ
cấp, như vậy thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản cho các tài sản
tài chính. Nếu thiếu tính thanh khoản, người đầu tư sẽ buộc phải nắm giữ
các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn cho
tới khi công ty phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản. Mức độ thanh
khoản của các thị truờng tài chính là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự
phát triển của thị trường.
- Giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trường
Nhờ tính tập trung, các thông tin phục vụ quá trình đầu tư được cung
cấp đầy đủ, chính xác và nhanh chóng trên thị trường tài chính, từ đó cho
phép giảm thiểu những chi phí đối với các bên tham gia giao dịch và góp
phần tăng hiệu quả đối với các chủ thể trên thị trường cũng như đối với
toàn bộ nền kinh tế.
- Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh
Thị trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính, vì
vậy, sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp
phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và từ đó đặt ra cho các
doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát
triển.
- Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ
Thị trường tài chính có một chức năng quan trọng là ổn định và điều
hoà lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Chức năng này được thể hiện thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín
phiếu và các giấy tờ có giá khác của Ngân hàng Trung ương trên thị
trường tài chính và thị trường tiền tệ. Thông qua đó, Chính phủ có thể
huy động được nguồn vốn lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm
4



soát lạm phát. Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương cũng có thể mua bán
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh lượng cung và cầu ngoại
tệ nhằm giúp Chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái.
 Phân loại:
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta phân loại thị trường tài
chính thành các thị trường bộ phận.
- Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần (Căn cứ vào phương thức
huy động vốn của tổ chức phát hành)
- Thị trường tiền tệ và thị trường vốn (Căn cứ vào thời hạn luân
chuyển của vốn)
- Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp (Căn cứ vào tính chất của
việc phát hành các công cụ tài chính)
1.1.2.Khái quát về thị trường tài chính Việt Nam
1.1.2.1. Sự phát triển TTTC Việt Nam những năm gần đây
Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới, thị trường tài
chính Việt Nam đã và đang từng bước phát triển. Các bộ phận cấu thành
cơ bản của thị trường tài chính đã dần được hình thành và trở nên ngày
càng quen thuộc với công chúng. Đặc biệt là trong những năm gần đây,
thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả
về bề rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển này được thể hiện ở những thay
đổi tích cực của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính,
của các thị trường trái phiếu, cổ phiếu, thị trường chứng khoán , bảo
hiểm…
 Về hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính
Hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính giữ vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế vì đây là thị trường cung cấp vốn chủ yếu
cho các doanh nghiệp. Tính đến tháng 8/2014, tại Việt Nam đang có 1
NHTM Nhà nước , 04 ngân hàng TMCP Nhà nước chiếm cổ phần chi

phối ; 34 ngân hàng TMCP; 1 Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương , 968
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 2 tổ chức tài chính vi mô; 4 ngân hàng liên
doanh; 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng 100% vốn nước
ngoài; 49 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài; 18 công ty
tài chính và 12 công ty cho thuê tài chính. Tính đến 31/12/2013, tổng tài
5


sản của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đạt khoảng 5,75 triệu tỷ đồng,
tăng 13,2% so với năm 2012; Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế đạt
khoảng 3,48 triệu tỷ đồng (khoảng 100% GDP), tăng 12,52% so với dư
nợ tại thời điểm 31/12/2012.
Đối với lãi suất, từ năm 2013 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã nhiều
lần điều chỉnh các mức lãi suất điều hành để hạ mặt bằng lãi suất cho vay
của Ngân hàng thương mại và giúp các Doanh nghiệp có thể tiếp cận
vốn. Ở thời điểm tháng 8/2014, trần lãi suất huy động vốn được quy định
ở mức 6% đối với tiền gửi dưới 6 tháng. Theo đó, các mức lãi suất cho
vay được thị trường điều chỉnh tương ứng ở mức khoảng 8,5-10% tùy
theo đối tượng khách hàng.
Đối với tỷ giá và giá vàng, NHNN đã và đang thực hiện điều hành
linh hoạt tỷ giá, đảm bảo tính ổn định và có dự báo trước đối với thị
trường ngoại hối. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng hiện ở mức 21.246
VND/USD và tỷ giá mua bán VND/ USD tại các NHTM vào khoảng
21.300 - 21.360 VND/USD. Đối với nghiệp vụ quản lý hoạt động kinh
doanh vàng, ngày 03/04/2012, Chính phủ ban hành Nghị định
24/2012/NĐ-CP, trong đó quy định Nhà nước độc quyền sản xuất vàng
miếng, xuất và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.
Theo đó, bắt đầu từ tháng 03/2013, NHNN đã tiến hành 76 phiên đấu
thầu vàng với khối lượng chào bán là 1.932.000 lượng và trúng thầu là
1.819.900 lượng, giá trị khoảng 71,3 nghìn tỷ đồng. Cùng với việc thắt

chặt tín dụng ngoại tệ, hoạt động đấu thầu và điều hành thị trường vàng
đã có kết quả tích cực trong việc giảm đáng kể tình trạng vàng hóa, đô la
hóa nền kinh tế; Tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN điều hành chính
sách tiền tệ theo mục tiêu duy trì ổn định giá trị tiền đồng và lạm phát.
 Về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành và phát triển
trong hơn mười năm qua nhưng đã xây dựng được khuôn khổ pháp lý, cơ
cấu và quy mô thị trường tương đối đầy đủ, phù hợp với các thông lệ
quốc tế:
6


- Khuôn khổ pháp lý: TTCK được điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán
năm 2006;
- Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán năm 2010; Nghị định số
58/2012/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn đối với các vấn đề của
TTCK như niêm yết, giao dịch, công ty chứng khoán, quản lý quỹ,
công bố thông tin, hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài.
-

Quy mô, cơ cấu thị trường: TTCK hiện có 2 sàn giao dịch chứng
khoán với 662 công ty niêm yết, 89 công ty chứng khoán còn hoạt
động môi giới, 41 công ty quản lý quỹ và 21 quỹ đầu tư chứng
khoán (trong đó có 11 quỹ mở, 8 quỹ thành viên, 20 văn phòng đại
diện). Cơ sở các nhà đầu tư trên thị trường đã có sự cải thiện, số
lượng tài khoản nhà đầu tư đạt gần 1,4 triệu, trong đó, so với năm
2013, số lượng nhà đầu tư nước ngoài tăng 10%. Đặc biệt, là nhà
đầu tư tổ chức nước ngoài tăng 55%.

Mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn,

song TTCK Việt Nam vẫn đạt được những kết quả khả quan. Tính đến
tháng 6/2014, chỉ số VN-Index tăng 12,43% và HNX-Index tăng 12,68%
so với cuối năm 2013. Mức vốn hóa TTCK đạt khoảng 1.144 nghìn tỷ
đồng, tương đương 31,9% GDP. Giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên
trong 6 tháng đầu năm 2014 (tính đến hết ngày 30/6) đạt 4.752 tỷ đồng,
tăng 76,71% so với bình quân cả năm 2013 và tăng 56,28% so với bình
quân 6 tháng đầu năm 2013. Trong đó, cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đạt
khoảng 2.687 tỷ đồng, tăng 79,19% so với bình quân 6 tháng đầu năm
2013 và tăng 95,52% so với bình quân mỗi phiên cả năm 2013.
Về hoạt động huy động vốn, tổng vốn huy động qua TTCK từ đầu
năm đến ngày tháng 6/2014 đạt 127 nghìn tỷ đồng, giảm 2,64% so với 6
tháng đầu năm 2013, trong đó: Vốn huy động qua phát hành cổ phiếu và
cổ phần hóa (không tính phát hành riêng lẻ) ước đạt hơn 7.432 tỷ đồng,
giảm 1,79% so với 6 tháng đầu năm 2013.
Năm 2014, tổng giá trị huy động vốn qua TTCK đạt 237 nghìn tỷ
đồng tương đương 5,9 %GDP, tăng 6% so với năm 2013. Đến cuối tháng
7


12/2014, có 673 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên thị trường
chứng khoán với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là 425.000 tỷ đồng,
tăng 19% so với năm 2013. Giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt
khoảng 31,48% GDP. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
niêm yết trong 9 tháng đầu năm 2014 có cải thiện đáng kể so với cùng kỳ
năm 2013, có 87% công ty niêm yết hoạt động có lãi, tăng 5% so với
cùng kỳ năm 2013; tổng lợi nhuận sau thuế của toàn bộ công ty niêm yết
trong 9 tháng đầu năm 2014 tăng 6,1%. Số lượng tài khoản nhà đầu tư
đạt khoảng 1,37 triệu tài khoản, tăng 6% so với cuối năm 2013. Trong 11
tháng đầu năm 2014, dòng vốn nước ngoài vào thuần đạt 9,3 triệu USD
so với dòng vốn vào thuần âm (-11,4 triệu USD) năm 2013. Giá trị giao

dịch bình quân của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ là 2.969 tỷ đồng/phiên
tăng 116% so với năm 2013. Giá trị giao dịch bình quân của trái phiếu là
2.531 tỷ đồng/phiên tăng 93% so với năm 2013.
 Về Thị trường bảo hiểm
Trong năm thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp tục duy trì mức tăng
trưởng ổn định với tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường năm
2014 ước đạt 52.680 tỷ đông, tăng khoảng 14,2% so với năm 2013.
Tại thời điểm cuối năm 2014, tổng tài sản đạt 154.222 tỷ đồng tăng
15,2% so với năm 2013; trong đó đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng
131.371 tỷ đồng tăng 15,6% so với năm 2013. Cũng trong năm 2014, các
doanh nghiệp bảo hiểm đã giải quyết bồi thường và trả tiền bảo hiểm hơn
18.552 tỷ đồng tăng 4,1% so với năm 2013; kịp thời xử lý bồi thường
cho các doanh nghiệp bị thiệt hại tại Bình Dương, Đồng Nai, Hà Tĩnh do
một số phần tử quá khích lợi dụng việc công nhân biểu tình phản đối liên
quan đến sự kiện Trung Quốc đặt dàn khoan HD981 trái phép trong vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam để phá hoại tài sản một
số doanh nghiệp, qua đó góp phần ổn định kinh tế xã hội.
1.1.2.2. Những rủi ro tiềm ẩn

8


Tuy đã có nhiều bước tiến tích cực, nhưng bản thân từng bộ phận
cấu thành nên thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn chứa đựng nhiều rủi
ro, yếu kém không thể xem nhẹ.
 Đối với hệ thống ngân hàng
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong Báo cáo Cạnh tranh
toàn cầu (GCR) 2014-2015, mức độ phát triển thị trường tài chính của
Việt Nam xếp thứ 90 trên tổng số 144 nền kinh tế được khảo sát. Lĩnh
vực tài chính, ngân hàng của Việt Nam vẫn được đánh giá là dễ tổn

thương.
Tỷ trọng sở hữu nhà nước cao trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng
thời gian qua đã làm giảm đáng kể hiệu quả hoạt động và quản trị của
ngành ngân hàng. Các NHTM Nhà nước vẫn chiếm đa số thị phần huy
động tiền gửi và thị phần tín dụng của toàn hệ thống. Số lượng các Quỹ
tín dụng nhân dân cơ sở tuy là lớn nhưng lại chiếm tỷ trọng thị phần huy
động tiền gửi rất nhỏ (dưới 1%) và hiệu quả hoạt động chưa cao. Hoạt
động tín dụng vi mô và tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn
kém.
Rủi ro tín dụng lớn đặc biệt là về vấn đề nợ xấu. Nguyên nhân các
khoản nợ xấu của các NHTM Việt Nam chủ yếu là do thiếu hoặc giám
định không chặt chẽ các khoản vay có liên quan tới cho vay chính sách,
cho vay các dự án hoặc doanh nghiệp liên quan đến thành viên hội đồng
quản trị hoặc lãnh đạo các ngân hàng thương mại, các khoản vay bất
động sản và chứng khoán. Theo Báo cáo đánh giá khu vực tài chính Việt
Nam của WB đầu tháng 9/2014, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ
đáng ghi nhận, trong đó tăng trưởng kinh tế đạt trên 7% và thu nhập đầu
người tăng gấp 3 lần. Tuy nhiên, kinh tế tăng trưởng chậm lại trong
những năm gần đây đã cho thấy những dấu hiệu khó khăn về tài chính và
doanh nghiệp. Một vài phân khúc của khu vực doanh nghiệp có kết quả
kinh doanh nghèo nàn, gặp khó khăn về tài chính đã làm ảnh hưởng đến
sức khỏe của hệ thống ngân hàng. Một số doanh nghiệp nhà nước lớn đã
mất khả năng thanh toán nợ và một số khác có biểu hiện vay nợ quá
9


mức. Trong khi hệ thống ngân hàng đã tích tụ một lượng lớn nợ xấu, ước
tính lên tới trên 12%/tổng dư nợ tại thời điểm cuối năm 2012, cao hơn
nhiều số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng và vượt ngưỡng an toàn
3%. Ngoài ra trong hệ thống ngân hàng còn tồn tại rủi ro liên quan tới sự

sai lệch lớn về cơ cấu thời hạn giữa nguồn huy động và cho vay, hay liên
quan tới tình trạng sở hữu chéo cổ phần giữa các ngân hàng thương mại
hay các tập đoàn có hoạt động liên quan tới các lĩnh vực tài chính, bất
động sản.
Tình trạng hoạt động của thị trường tín dụng phi chính thức với
quy mô lớn ở Việt Nam cùng các vụ đổ vỡ tín dụng đen đã gây ra những
thiệt hại đáng kể.
 Đối với thị trường chứng khoán
Theo tài liệu công bố tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ phát triển
TTCK 2015 do UBCKNN tổ chức, về vấn đề nâng hạng thị trường
chứng khoán Việt Nam, hiện TTCK được phân loại thành 3 nhóm
gồm Thị trường cận biên (Frontier Market), Thị trường mới
nổi (Emerging Market) vàThị trường phát triển (Developed Market).
Trong đó Việt Nam được xếp vào nhóm thấp nhất là nhóm Thị trường
cận biên và mới được khuyến nghị nằm trong danh sách nâng hạng lên
Thị trường mới nổi. Quy mô và thanh khoản của TTCK vẫn còn hạn chế.
Hiện nay, tỷ lệ vốn hóa của các công ty lớn nhất VN mới chỉ đóng góp
khiêm tốn tại một số rổ chỉ số Thị trường cận biên (2.54% trong S&P
Frontier Broad Market Index, 4.77% rổ chỉ số DJ Frontier Total Stock
Market, 2.1% rổ chỉ số MSCI Frontier).
Thị trường chứng khoán Việt Nam có xuất phát điểm thấp, thị
trường biến động mạnh do chất lượng công bố thông tin của các DN
niêm yết chưa thật sự tốt, việc niêm yết của các doanh nghiệp cổ phần
hóa được thực hiện chậm, kéo dài, không gắn kết chặt với việc cổ phần
hóa; tình trạng sở hữu chéo, hành vi đầu cơ của các nhà đầu tư lớn trong
khi năng lực giám sát của các cơ quan nhà nước vẫn còn chưa theo kịp…
Thị trường chưa có nhiều các nhà đầu tư có tổ chức, chuyên nghiệp, có
10



kỹ năng đầu tư cao. Hành vi đầu tư của các nhà đầu tư trong nước vẫn
mang tính “bầy đàn”… Nhiều tổng công ty nhà nước đầu tư vào các lĩnh
vực như thị trường cổ phiếu, thành lập các công ty chứng khoán, quỹ đầu
tư… trong khi thiếu các năng lực cần thiết cũng gây rủi ro cho toàn bộ
thị trường.
Thị trường chứng khoán kém phát triển cũng khiến các Ngân hàng
thương mại phải đảm nhận việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế điều gây ra nhiều cơ rủi ro cho toàn hệ thống tài chính.
1.2.3. Những bất ổn trên thị trường quốc tế ảnh hưởng đến thị
trường tài chính Việt Nam:
 Kinh tế thế giới không mấy khả quan
Năm 2014, nền kinh tế thế giới ( ngoại trừ Mỹ) đều đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn. Khu vực đồng euro vẫn trong tình trạng nợ công
chồng chất, thất nghiệp tràn lan. Ngay cả Đức, quốc gia mạnh nhất khối
cũng đang trì trệ không thể kéo các nước khác trong khối thoát khỏi khó
khăn. Nước Nga chính thức được tuyên bố ở trong tình trạng suy thoái
kinh tế và tài chính, có thể phải mất hai năm để khôi phục trở lại. Nhật
Bản đi từ khó khăn này đến khó khăn khác khi quyết định tăng thuế, tăng
ngân sách quốc phòng và tiếp tục rơi vào vòng suy thoái. Trung Quốc
vẫn chật vật trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ đầu tư sang tiêu
dùng, với mức tăng trưởng giảm xuống quanh mức 7%.
Những nước phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương (Hàn Quốc,
Úc, Singapore, Đài Loan, New Zealand) vẫn giữ được mức tăng trưởng
khả quan, bình quân trên 3%. Tuy nhiên khối ASEAN năm 2014 chỉ đạt
đươc mức tăng trưởng 4,7%, giảm so với mức 5,2% năm 2013, do kinh
tế Thái Lan sụt giảm trước những biến cố chính trị trong nước. Tại Ấn
Độ, sau cuộc khủng hoảng tiền tệ, nền kinh tế cũng trở nên bất ổn định
và mức tăng trưởng bị chững lại.
Khu vực gặp khó khăn nhất năm 2014 có lẽ là Nam Mỹ. Brazil
tăng trưởng bằng không, trong khi Venezuela, Argentina tăng trưởng âm.
Tại châu Phi, các nước xuất khẩu dầu bị ảnh hưởng nặng nề vì giá dầu

11


giảm, còn những nước nhập khẩu thì khó khăn lại nằm ở những cơn sốt
chính trị làm tê liệt bộ máy sản xuất.
Các nước phát triển chuyển giao gần như toàn bộ sản xuất công
nghiệp cho những quốc gia mới nổi, gây nên một lỗ hổng lớn trong cơ
cấu sản xuất giá trị và họ vẫn chưa kiếm được lĩnh vực hoạt động thay
thế. Các doanh nghiệp tháo gỡ công xưởng chuyển qua các nước mới
nổi, công nhân mất việc, nạn thất nghiệp hoành hành và từ đó chính
quyền phải vay mượn để bảo đảm ổn định xã hội, những khoản nợ công
này lại gây thêm bất ổn cho nền kinh tế.
Ngược lại, các nước mới nổi lâu nay vẫn sống nhờ nông nghiệp và
xuất khẩu nguyên vật liệu, bỗng nhiên trở thành nước sản xuất công
nghiệp. Sự chuyển biến này không dễ dàng mà cần sự tái cơ cấu của nền
kinh tế và tài chính cũng như sự chuyển dịch của xã hội từ nông thôn về
thành thị. Những năm vừa qua, các chính quyền chỉ đưa ra những giải
pháp nhất thời để giải quyết nhanh và dập tắt những biến cố đang xẩy ra,
còn vấn đề căn bản vẫn còn tồn tại.
 Sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ
Sau nhiều năm đối phó với cuộc Đại suy thoái, nền kinh tế Mỹ đã
tiến gần hơn đến trạng thái khỏe mạnh thông thường và đang quay trở lại
thành đầu tàu của nền kinh tế thế giới. Theo Oxfords Economic, tăng
trưởng kinh tế của nước này có thể đạt 3,1% trong năm 2015, mức cao
nhất trong 10 năm qua, trong khi Nhật và châu Âu chỉ khoảng 1%. Giá
dầu giảm là nguyên nhân lớn nhất của sự lạc quan này.
Giá dầu giảm khuyến khích tiêu dùng, một động lực lớn nhất với
nền kinh tế. Tuy nhiên, sự trở lại của nước Mỹ cũng có thể là tình huống
mà cựu Bộ trưởng tài chính Mỹ Larry Summers gọi là “kinh tế thế giới
chạy bằng một cỗ máy”.

Khác với các nền kinh tế lớn, sự tăng trưởng của kinh tế Mỹ không
bị ảnh hưởng quá nhiều bởi sự lên xuống của các nền kinh tế khác.
Ngược lại, các nhà xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Nhật Bản hay Đức
12


phụ thuộc khá nhiều vào kinh tế Mỹ. Như vậy, sự tăng trưởng kinh tế
toàn cầu sẽ phụ thuộc lớn vào sự phục hồi tiêu dùng của nền kinh tế Mỹ.
Nhưng ngay cả khi kinh tế Mỹ phục hồi, các nước khác vẫn có thể
khó khăn. Ví dụ như tăng trưởng nhanh có thể khiến Cục Dự trữ liên
bang Mỹ (FED) tăng lãi suất, thu hút dòng vốn từ nước ngoài. Điều này
đẩy giá đồng USD tăng và gây mất ổn định với các tiền tệ khác.
 Bất ổn chính trị đe dọa kinh tế toàn cầu
Tạp chí The Economist nhận định tình hình kinh tế thế giới cuối
năm 2014 đầu năm 2015 có rất nhiều điểm tương đồng với thời kỳ cuối
những năm 1990. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Nga; giá dầu thế giới
giảm mạnh và đồng USD tăng giá; cơn sốt mới ở thung lũng Silicon và
sự hồi sinh của kinh tế Mỹ; sự yếu kém của Đức và Nhật; đồng tiền mất
giá ở các thị trường mới nổi từ Brazil đến Indonesia…
Tuy nhiên điểm khác biệt lớn nhất chính là môi trường chính trị.
Khác với thời điểm cuối những năm 1990, nguồn cơn của sự chao đảo về
kinh tế năm 2014 là chính trị. Cuộc khủng hoảng ở Ukraine dẫn đến căng
thẳng leo thang giữa Nga và EU, gây khó khăn cho kinh tế cả hai khu
vực này. Xung đột tại vùng Trung Đông giữa phương Tây với nhóm Hồi
giáo cực đoan và giữa Saudi Arabia (phe Hồi giáo Sunni) với Iran (phái
Shiite) ảnh hưởng đáng kể đến kinh tế khu vực.
Theo phân tích của Wall Streets Journal, hai cuộc tranh chấp này là
nguồn gốc của thỏa ước giảm giá dầu giữa Mỹ và Saudi Arabia để làm
yếu Iran và các đồng minh Syria của Assad, Hezbollah Liban ở mặt trận
Trung Đông và Nga ở vùng Đông Âu. Tại châu Á, xung đột Nhật –

Trung cũng đặt hai nền kinh tế hàng đầu thế giới này vào tình trạng dễ bị
tổn thương. Ngay ở khu vực ASEAN, căng thẳng chính trị tại Thái Lan
cũng là nguyên nhân làm xói mòn một nền kinh tế mạnh của khu vực.
Bên cạnh đó, khác với những năm cuối thế kỷ trước, khi đó phần
lớn người giàu trên thế giới rất hân hoan với thành quả thu được và vì
vậy sẵn sàng ủng hộ cho sự ổn định về chính trị. Ngược lại, từ sau năm
13


2008 đến nay, tỷ lệ người giàu không hài lòng với chính quyền ngày
càng tăng cùng với việc họ sẵn sàng bỏ phiếu cho phe đối lập.
Bước sang năm 2015, chưa có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy những
căng thẳng về chính trị nêu trên sẽ nguội đi, mà ngược lại, cuộc đua giữa
các bên dường như ngày càng gay cấn.
Những bất ổn về mặt chính trị sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế thế giới nói chung. Và thị trường tài chính Việt Nam đang mở
cửa hội nhập kinh tế thế giới chắc chắn cũng sẽ chịu những ảnh hưởng
không nhỏ.

PHẦN II: THỰC TRẠNG TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những thành tựu đạt được
Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam trong 15 năm
trở lại đây đã diễn ra 3 lần: Lần đầu là giai đoạn sau khủng hoảng tài
chính châu Á từ năm 1998 đến 2003; Lần thứ 2 là giai đoạn bắt đầu gia
14


nhập Tổ chức thương mại thế giới 2005-2008 và lần thứ 3 là giai đoạn cơ
cấu lại nền kinh tế 2011-2015 (theo Nghị quyết số 10/2011/QH13 của

Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015).
Tại buổi tọa đàm “Tái cấu trúc ngân hàng và xử lý nợ xấu” do Viện
Nghiên cứu lập pháp (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) phối hợp với Ngân
hàng Nhà nước tổ chức chiều ngày 9/9/2014, các chuyên gia cho rằng,
sau hai năm triển khai, tiến trình tái cấu trúc ngân hàng và xử lý nợ xấu
đang đúng hướng và đạt một số kết quả nhất định.
Thành quả của việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng biểu hiện rõ nét
nhất trên phương diện điều hành chính sách tiền tệ như:
- Lãi suất giảm nhanh gần như đã làm chấm dứt việc dùng lãi suất
tranh vốn giữa các ngân hàng thương mại như giai đoạn cuối năm
2011, đầu 2012.
-

Tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại tệ quốc gia tăng
cao tăng đã góp phần để tổ chức xếp hạng Moody’s nâng mức tín
nhiệm đối với trái phiếu của Chính phủ Việt Nam lên 1 bậc, từ mức
B2 lên B1 và mức triển vọng được đánh giá là ổn định.

-

Thị trường vàng được kiểm soát tốt, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP
được thực hiện đã loại bỏ hoàn toàn sự lũng đoạn của vàng khỏi tổ
chức tín dụng. Giá vàng trong nước do vậy đã ổn định hơn, tình
trạng đầu cơ vàng giảm, rủi ro từ vàng đối với hệ thống gần như
được chấm dứt.

- Các chỉ số an toàn hệ thống được ổn định và được cải thiện rất rõ
nét: tỷ lệ an toàn vốn luôn cao hơn mức quy định của pháp luật; tỷ
lệ tín dụng/huy động vốn giảm; tỷ lệ khả năng chi trả của hệ thống
cao hơn trước. Đến tháng 6/2014, tỷ lệ khả năng chi trả ngay đạt

ngưỡng gần 25%. Chính nhờ nền tảng cơ cấu nguồn vốn bền vững
đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có điều kiện thực thi các công
cụ điều hành.
15


- Trong số 9 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém được xác định
từ năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã phê duyệt 8 phương án cơ
cấu lại, còn một ngân hàng đang đàm phán với đối tác nước ngoài.
Một số đơn vị khác cần tái cấu trúc được xác định trong năm 2013
đang được Ngân hàng Nhà nước giám sát chặt và chỉ đạo xây dựng
phương hướng tái cơ cấu. Chính phủ cũng tỏ thái độ rõ hơn với các
định chế tài chính phi ngân hàng, xóa sổ các đơn vị gây rủi ro cho
nền kinh tế.
- Vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cũng đã phần nào được
giải quyết. Từ năm 2012 đến hết tháng 8/2014, toàn hệ thống đã xử
lý được 214.000 tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm từ
4,08% tổng dư nợ cuối năm 2012 xuống 3,9% vào cuối tháng
9/2014.
Ngoài ra, các chuyên gia cũng khẳng định, tiến trình tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng tài chính thời gian vừa qua cũng có thêm mặt được đó
là chỉ áp dụng nguyên tắc tự nguyện. Đối với nhóm ngân hàng thương
mại cổ phần Nhà nước chi phối vốn, đã hoàn thành cổ phần hóa 4 ngân
hàng thương mại Nhà nước; trong đó 3 ngân hàng đã niêm yết cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán và đều có nhà đầu tư chiến lược tham gia.
Chỉ còn Agribank chưa cổ phần hóa nhưng đã được cơ quan quản lý phối
hợp với các bộ liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt phương án cơ cấu lại gắn với xử lý những sai phạm, yếu kém phát
hiện qua thanh tra và tái cơ cấu của các công ty con. Ngân hàng này cũng
đã chủ động cơ cấu lại bộ máy, mạng lưới, nhân lực; xử lý một phần nợ

xấu; cơ cấu lại tài sản “Nợ - Có” và thu hẹp các khoản mục đầu tư.
2.2. Những hạn chế và mất mát trong quá trình tái cấu trúc:
Tuy đã đạt những thành tựu nhất định nhưng quá trình tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng tài chính Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn và vướng
mắc, dẫn đến một số e ngại liệu khi kết thúc giai đoạn tái cơ cấu theo đề

16


án, ngành ngân hàng có thể tái cấu trúc được một cách triệt để hay
không.
Báo cáo về Kết quả giám sát “Việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế
trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân
hàng theo Nghị quyết số 10/2011/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015” do Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế
Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày trước Quốc hội sáng ngày 01/11
chỉ ra rằng, cho đến nay, vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống
TCTD vẫn thiếu minh bạch, vốn điều lệ ở một số NHTM cổ phần không
phản ánh đúng thực chất, dẫn đến nguy cơ chi phối, thao túng hoạt động
ngân hàng. Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro và ảnh hưởng đến an toàn hoạt
động của từng TCTD nói riêng cũng như toàn hệ thống TCTD nói
chung, gây cản trở đến quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Thực tế
trên tồn tại kéo dài nhiều năm, cần được xử lý từng bước.
Bên cạnh đó, xử lý nợ xấu còn chậm do vướng mắc cả về thể chế và
mô hình. Hoạt động của VAMC còn gặp một số vướng mắc. Một là, mặc
dù không sử dụng tiền ngân sách để mua nợ xấu nhưng những trái phiếu
đặc biệt của VAMC phát hành có thể được sử dụng để vay tái cấp vốn,
tái chiết khấu với Ngân hàng Nhà nước; cùng với những bất cập trong
quy định pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến khó xử lý nhanh và
hiệu quả các khoản nợ xấu này. Hai là, cơ sở pháp lý cho mua bán nợ

xấu chưa rõ ràng, thiếu cơ chế, nguồn lực cho việc xử lý nợ xấu.
Ngoài ra theo Đề án tái cơ cấu TCTD giai đoạn 2011 – 2015 có 24
giải pháp có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp xử lý sở hữu chéo song kết
quả đạt được rất thấp. Quản trị ngân hàng, quản trị rủi ro còn nhiều mặt
hạn chế, yếu kém, tính công khai của các TCTD trong việc công bố
chính xác tỷ lệ nợ xấu chưa thực hiện tốt, tình hình kinh tế khó khăn,
niềm tin thị trường giảm sút cũng ảnh hưởng đến tiến trình tái cơ cấu hệ
thống NHTM hiện nay.
Về những cái mất trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt
Nam, Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam- ông Đào Minh Tú
đã có cuộc trao đổi với phóng viên báo Vietnamnet.vn như sau:
17


"Bất cứ cuộc cải cách nào cũng phải trả giá. Chúng ta nhớ lại những năm trước đây cơ cấu lại kinh tế
HTX theo mô hình toàn xã thì bao nhiêu tài sản như nhà kho, sân phơi, hệ thống chuồng trại chăn nuôi
tập thể đã mất đi, những khoản nợ vay ngân hàng về sức kéo, thủy lợi, chi phí con giống, phân bón… đều
khoanh nợ lại và cuối cùng là xóa. Cái giá phải trả cho sự đổ vỡ mô hình HTX tín dụng trước đây cũng
không phải là nhỏ, hàng chục năm sau giải quyết chưa xong tiền gửi của dân và các khoản nợ.

Riêng cái giá phải trả cho tái cơ cấu hệ thống ngân hàng để ổn định
hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi tăng trưởng đã diến
ra ở nhiều nước trên Thế giới là rất đắt. Nước Mỹ đã phải bỏ ra bao
công sức trí tuệ, tiền của để cơ cấu ổn định lại hệ thống tài chính, trong
đó chủ yếu là hệ thống ngân hàng.
Tổng chi phí để cứu khu vực tài chính thông qua chương trình
TROULED ASSET RELIEF PROGRAM là 431 tỷ đô la Mỹ, để cứu thị
trường Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã phải bơm ra 03 gói giải cứu
thị trường thông qua công cụ tiền tệ (QE) khoảng 4,5 nghìn tỷ USD.
Cạnh chúng ta, cuộc khủng hoảng 1997, Thái Lan cũng phải chi ra tới

17,75 tỷ đô la Mỹ để cứu khu vực tài chính, sau đó thu lại được thông
qua việc bán nợ là 28%, thiệt hại khoảng 12,7 tỷ đô la Mỹ.
Trong bối cảnh của đất nước ta, nguồn lực hết sức khó khăn, yêu cầu
không để được đỗ vỡ, đảm bảo sự ổn định để từng bước khắc phục luôn
là nhiệm vụ quan trọng được quán triệt, NHNN đã đề xuất những nội
dung phải tái cơ cấu với một lộ trình, mà bao hàm trong đó là tầm nhìn
chiến lược, quyết tâm chính trị và các giải pháp khôn ngoan để hạn chế
thấp nhất những tổn thất, nhất là những nguồn lực của nhà nước
vàquyền lợi của người dân.
Tuy nhiên, không chấp nhận những tổn thất về mặt tài chính, thì cũng
phải đánh đổi chấp nhận về mặt thời gian, cũng có nghĩa là phải từng
bước cơ cấu lại, với phương châm ổn định, chắc chắn và hiệu quả. Ví
dụ, chúng ta không dùng nguồn tiền ngân sách để xử lý được nợ xấu
ngay như các nước, mà bản thân các NHTM phải tự giải quyết bằng việc
trích lập dự phòng rủi ro trong 5 năm cho các khoản nợ đó. Nguồn lực

18


tự trích lập rủi ro từ hệ thống ngân hàng, ngay một lúc không có được
mà cần phải có thời gian để tích lũy.
Đó được xem như cách làm riêng của Việt Nam, nó đang được thực
tiễn chứng minh là một hướng đi đúng, phù hợp điều kiện thực tế của
chúng ta. Tóm lại, đã là tái cơ cấu thì cũng ít nhiều phải trả giá, phải có
chấp nhận những hy sinh, mất mát. Nhưng những mất mát đó trong khả
năng chịu đựng được của nền kinh tế, của bản thân các NHTM và trong
tầm kiểm soát của chúng ta.”
2.3. Giải pháp đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả của quá trình tái cơ
cấu:
Các kiến nghị nhằm góp phần đưa ra giải pháp nhằm giúp ngành ngân

hàng đẩy nhanh tái cơ cấu và đem lại hiệu quả cao:
- Tái cơ cấu ngành ngân hàng cần sớm dỡ bỏ trần lãi suất, trần tăng
trưởng dư nợ tín dụng đối với NHTM mà thông qua sử dụng các
công cụ gián tiếp để can thiệp phù hợp quan hệ cung-cầu thị
trường; tách bạch chính sách tín dụng theo định hướng của Nhà
nước với chính sách tín dụng thương mại. Đồng thời phải xử lý dứt
điểm các tổ chức tín dụng yếu kém, tiếp tục thực hiện các giải pháp
giảm nợ xấu và đến cuối năm 2015 còn dưới 3% tổng dư nợ.
- Cần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, bền vững; môi
trường đầu tư kinh doanh an toàn, thông thoáng nhằm tạo điều kiện
phục hồi sản xuất kinh doanh trong nước nhằm góp phần thực hiện
tốt tăng trưởng kinh tế, nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế
nước ta hiện nay vốn đang khó khăn.
- Đẩy nhanh việc chuyển đổi hoặc quy hoạch lại dự án bất động sản
khó có khả năng thực hiện trong tương lai bởi nhiều lý do khác
nhau như thiếu vốn, dư cung. Giải quyết tình trạng đóng băng.
- Sớm sửa đổi bổ sung các quy định hiện hành nhằm đảm bảo sự phù
hợp đồng bộ nhất là trong quan lý đất đai, phá sản doanh nghiệp thi
hành án dân sự, cơ chế thực thi pháp luật tạo điều kiện cho ngân
hàng thực hiện tốt thu hồi nợ xử lý tài sản nợ đảm bảo một cách
nhanh chóng nhằm hạn chế, khắc phục dần tình trạng nợ đọng nợ
xấu của ngân hàng.
19


- Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng mới chú trọng tái cơ cấu
tài chính, chưa chú trọng quản trị và hoạt động. Do vậy tới đây cần
chú trọng hơn vào quản trị và hoạt động nhằm đảm bảo hệ thống
NH sau tái cơ cấu hoạt động ổn định, phát triển bền vững góp phần
đạt mục tiêu trước mắt và lâu dài .

- Từng bước thực hiện có hiệu quả việc sáp nhập, hợp nhất, quản lý
sở hữu chéo; xử lý kịp thời và nghiêm minh đối với các hành vi vi
phạm pháp luật về sở hữu chéo và lợi ích nhóm trong TCTD. Hiện
tại, lực cản lớn nhất của quá trình tái cơ cấu ngân hàng là tình trạng
sở hữu chéo và nợ nần dây dưa của doanh nghiệp nhà nước. Trong
một thời gian dài, với chính sách ưu tiên cho doanh nghiệp nhà
nước vay vốn, tâm lý doanh nghiệp vay vốn nếu không thu hồi
được nợ thì trách nhiệm sẽ không thuộc về ngân hàng đã tạo thành
nguy cơ tiềm ẩn về nợ xấu. Mặc dù NHNN đã nỗ lực dùng biện
pháp hành chính, khuyến khích các ngân hàng tự nguyện sáp nhập
hay phát hành trái phiếu cho VAMC để mua nợ xấu, nhưng chính
việc thiếu nguồn lực tài chính đã khiến cho quá trình tái cơ cấu
ngân hàng không hiệu quả như mong đợi. Để xử lý nợ xấu thành
công, cần có sự tham gia và hỗ trợ của các cấp, ngành; với việc
thực hiện hai nhóm giải pháp chính là giải pháp vĩ mô của Chính
phủ và giải pháp vi mô của các ngân hàng. Đối với giải pháp của
Chính phủ cần các chính sách cụ thể như: Thiết lập cơ chế can
thiệp vào ngân hàng có mức nợ xấu quá cao; thiết lập cơ chế tối đa
hóa giá trị thu hồi của các tài sản xấu; các giải pháp về tăng cường
niềm tin; thiết lập cơ sở pháp lý cho việc tham gia của Chính phủ
trong xử lý đóng cửa ngân hàng; ngân hàng tự xử lý nợ xấu hoặc
thông qua công ty quản lý tài sản của ngân hàng.

20


KẾT LUẬN
Như vậy, công cuộc tái cấu trúc hệ thống tài chính nói riêng và hệ
thống ngân hàng nói chung đã được thực hiện và đem lại những thành
tựu nhất định. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế, khó

khăn, thách thức đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ xã hội từ Nhà nước,
Ngân hàng, Doanh nghiệp đến toàn thể nhân dân nhằm thực hiện thành
công công cuộc tái cấu trúc nói trên.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2.
3.


22



×