Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Ngân sách nhà nước và thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.66 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
mọi thời đại và trong mọi nền kinh tế, nó là công cụ huy
động tài chính đảm bảo việc thực hiện hoạt động của bộ máy
nhà nước, là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, có
vai trò quan trọng trong cơ chế thị trường. Bởi vậy, mỗi quốc
gia đều xây dựng cho mình một hệ thống ngân sách nhà nước
quy định cụ thể chi tiết và hoàn chỉnh các vấn đề về thu, chi,
phân cấp cũng như quản lý ngân sách…Ngoài ra, mỗi năm
còn có hội nghị thường niên nhằm báo cáo các kết quả đạt
được của ngân sách nhà nước trong năm và đề ra những chỉ
tiêu, nhiệm vụ về ngân sách cho năm tới.
Tại Việt Nam, tình hình kinh tế trong những năm gần với, với
việc thu và chi tiêu ngân sách không hợp lý và kém hiệu quả
đã khiến cho ngân sách nhà nước luôn luôn bị thâm hụt và ở
mức khá cao. Nguồn thu của ngân sách nhà nước hiện tại còn
rất nhiều hạn chế về mặt cơ cấu cũng như quản lý nguồn thu
trong khi nhu cầu đầu tư các dự án và chương trình kinh tế
lớn của nhà nước cần một số lượng vốn lớn, chính những
điều đó đã dẫn tới việc bội chi ngân sách và tác động không
nhỏ tới sự phát triển chung của đất nước.
Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài : “ Ngân sách nhà
nước và thực trạng thâm hụt Ngân sách nhà nước ở Việt
Nam”. Để có thể hiểu rõ hơn về các vai trò của ngân sách nhà
nước cũng như các khoản mục thu chi, đặc biệt là về thâm
hụt ngân sách cũng như các biện pháp khắc phục nó, cấu trúc
của bài đề án gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về Ngân sách nhà nước và thâm hụt
Ngân sách nhà nước.
1



Chương 2: Thực trạng Ngân sách nhà nước và thâm hụt Ngân
sách nhà nước tại Việt Nam.
Chương 3: Kết luận về Ngân sách nhà nước và thâm hụt
Ngân sách nhà nước tại Việt Nam.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Ngân sách
nhà nước:
Khi nhà nước xuất hiện, để có tiền chi tiêu nhà nước đã
đặt ra chế độ thuế khóa bắt toàn dân phải cống nạp và từ các
khoản thu đó hình thành nên quỹ tiền tệ của nhà nước. Đầu tiên,
nhà nước sử dụng quỹ tiền tệ này để nuôi dưỡng viên chức và
binh lính của nhà nước, ngoài ra còn sử dụng để chi tiêu cho
hoàng gia. Sau đó, phạm vi được mở rộng và như chúng ta thấy
ngày nay, nhà nước còn dùng tiền quỹ của mình để chi tiêu cho
các khoản phúc lợi và kinh tế.
Trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, nhà nước không hề
có một văn bản tài chính nào bao quát hết tất cả các khoản thu,
chi của mình trong từng thời kì. Mỗi một khoản chi được đảm bảo
bằng một hay nhiều khoản thu nhất định và được thể hiện trong
một bảng dự toán riêng biệt, thậm chí có những khoản chi không
cần dự toán. Lúc đó, quyền hành thu chi đều thuộc về những
2


người đứng đầu nhà nước, thấy thiếu thì họ thu, không chịu bất kỳ
một sự kiểm soát nào của xã hội.
Khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, đã tạo ra những tiền đề

để hình thành và phát triển một hệ thống tài chính hoản chỉnh,
nhất là ngân sách nhà nước. Giai cấp tư sản đã lãnh đạo quần
chúng chống lại những luật lệ tài chính vô lý của nhà nước phong
kiến, đòi hỏi sự hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước, sửa đổi hệ
thống thuế khóa và thiết lập sự kiểm tra của xã hội đối với các
khoản thu, chi của nhà nước. Kết quả của quá trình đấu tranh bền
bỉ này là đã xóa bỏ được sự độc quyền chi tiêu của người đứng
đầu nhà nước, hình thành nên một ngân sách nhà nước theo
những tiêu chuẩn định mức công khai và được lập cho từng thời
kỳ nhất định, và như chúng ta thấy hiện nay là một hệ thống ngân
sách nhà nước tương đối hoàn chỉnh.
1. Khái niệm:

Điều 1 của Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa
XI nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua tại kì họp thứ hai,
năm 2002 có ghi:
“ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước”.


Bản chất của ngân sách nhà nước:

Xét về phương diện pháp lý: Ngân sách nhà nước là một đạo
luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền của nhà nước trong một
thời gian nhất định, thường là một năm do cơ quan lập pháp của
quốc gia ban hành.

3



Xét về bản chất kinh tế: Ngân sách nhà nước là tập hợp các
mối quan hệ trong phân phối, gắn liền với việc hình thành và sử
dụng quỹ tiền tệ tập trung.
Về tính chất xã hội: Ngân sách nhà nước là công cụ kinh tế
của nhà nước, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước.
2. Đặc điểm:
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với
quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước, và việc thực hiện các
chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở
những luật lệ nhất định.
Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại
các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu và chi của nhà
nước.
Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước,
luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng.
Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ
tiền tệ khác. Nét khác biệt của ngân sách nhà nước với tư cách là
một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều
quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới được chi dùng cho những
mục đích đã định.
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện
theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
3. Vai trò của Ngân sách nhà nước:
3.1. Ngân sách nhà nước – công cụ huy động nguồn
tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của
nhà nước:
Đây là vai trò lịch sử của ngân sách nhà nước, mà trong cơ chế

nào và trong thời đại nào ngân sách nhà nước cũng phải thực
4


hiện. Vai trò này của ngân sách nhà nước được xác định trên cơ
sở bản chất kinh tế của ngân sách nhà nước. Sự hoạt động của nhà
nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải
có các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định.
Các nhu cầu chi tiêu của nhà nước phải được thỏa mãn từ các
nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài thuế.
3.2. Ngân sách nhà nước – công cụ điều tiết vĩ mô
nền kinh tế xã hội của nhà nước:
Khi đề cập đến các công cụ tài chính trong quản lý và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế - xã hội, nhà nước không thể không sử dụng một
công cụ rất quan trọng, đó là ngân sách nhà nước. Bởi lẽ , phạm
vi phát huy vai trò của ngân sách nhà nước rất rộng và trên một
mức độ lớn, nó tương đồng với phạm vi phát huy chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội . Song, nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện điều chỉnh
thành công khi có nguồn tài chính đảm bảo, tức là khi sử dụng
triệt để và có hiệu quả công cụ ngân sách nhà nước. Vai trò điều
tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của ngân sách nhà nước có thể
được khái quát hóa trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và thị trường
như sau :
3.2.1 Về mặt kinh tế:
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc định
hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản
xuất kinh doanh và chống độc quyền.
- Ngân sách nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước
đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp
thuộc các ngành then chốt, để trên cơ sở đó tạo môi trường và

điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
5


- Việc hình thành doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong
những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị
trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo.
- Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong những
trường hợp cần thiết đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc
chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới, cao hơn.
- Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo
thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản
xuất kinh doanh.
- Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm
nguồn vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng các
nguồn vốn vay nợ của nhà nước cũng là một vấn đề cần phải xem
xét thận trọng khi quyết định thực hiện các biện pháp huy động
tiền vay.
3.2.2. Về mặt xã hội:
- Đầu tư của ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội :
chi Giáo dục - đào tạo, y tế, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể
thao, truyền thanh, chi bảo đảm xã hội, sắp xếp lao động và việc
làm, trợ giá mặt hàng ...
- Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh
nghiệp nhằm điều tiết thu nhập để phân phối lại cho các đối tượng
có thu nhập thấp.
- Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý,
tiết kiệm. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng công cụ NSNN để điều
chỉnh các vấn đề xã hội không đơn giản, đòi hỏi phải được nghiên

cứu đầy đủ và phải có sự thống nhất giữa chính sách và biện
pháp. Chẳng hạn: Khi trợ giá điện, xăng dầu, công tác truyền hình
. . . thì những đối tượng được hưởng không phải là người nghèo,
mà chính là những người có thu nhập trung bình hoặc cao.
6


3.2.3.
Về mặt thị truờng:
Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc thực
hiện các chính sách về ổn định giá cả, thị trường và chống lạm
phát. Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí,vay và chính sách chi ngân
sách nhà nước có thể điều chỉnh được giá cả, thị trường một cách
chủ động.
Một chính sách ngân sách thắt chặt hay nới rộng đều có thể
tác động mạnh mẽ đến cung - cầu xã hội.
Việc huy động của ngân sách nhà nước dưới các hình thức
thuế, phí, lệ phí,vay và kể cả bảo hiểm xã hội trên GDP và GNP
chiếm tỉ trọng cao thì sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn tiền tệ
ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự
đầu tư sẽ khan hiếm hơn. Mặt khác, nó sẽ làm cho cầu về hàng
hóa, dịch vụ của dân cư giảm xuống, nhưng ngân sách nhà nước
lại có điều kiện để tăng cầu với quy mô lớn và chi cho đầu tư lớn
sẽ kích thích tăng cung.
Ngược lại, nếu ngân sách nhà nước huy động trên GDP và GNP
chiếm tỉ trọng thấp thì nguồn tự đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng
cung, đồng thời kích thích tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ, nhưng
ngân sách lại không có điều kiện để tăng cầu và chi cho đầu tư.
- Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao
sẽ có tác động tăng cung ứng vốn từ phía các nhà đầu tư và tiết

kiệm tiêu dùng để dành cho tương lai, đồng thời làm giảm lượng
cầu về vốn đầu tư của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Ngược lại, khi lãi suất các khoản vay của nhà nước giảm xuống
dưới mức lợi tức bình quân toàn xã hội, các nhà đầu tư sẽ tìm môi
trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà
không muốn cho nhà nước vay. Mặt khác , lãi suất các khoản vay
7


của nhà nước có vị trí quan trọng trên thị trường chứng khoán, có
thể tham gia điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường chứng
khoán.
Ở đây cần nhấn mạnh đến dự trữ nhà nước. Trong cơ chế thị
trường, nhà nước không thể bắt buộc các doanh nghiệp bán hàng
theo giá cả quy định, mà ngược lại, giá cả là do thị trường quyết
định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các yếu tố khác.
Trong quá trình biến đổi của mình, sẽ có lúc giá cả lên cao, gây
ra những cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá thấp.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và kích thích sản xuất
phát triển, nhà nước cần phải theo dõi sự biến động của giá cả
trên thị trường và phải có nguồn dự trữ về hàng hóa và tài chính
để điều chỉnh kịp thời. Nguồn dự trữ này được hình thành từ
kinh phí cấp phát của NSNN. Do đó, sự thành công của nhà nước
trong điều chỉnh giá cả và thị trường thông qua công cụ dự trữ
nhà nước phụ thuộc vào kinh phí cấp phát của NSNN cho mục
đích này.
Chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình
điều chỉnh thị trường. Nguyên nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát
có nhiều và xuất phát từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thu,
chi tài chính của Nhà nước.

+ Khi đồng vốn ngân sách được sử dụng hợp lý và có hiệu quả
thì tác dụng tích cực của nó rất lớn, ngược lại sẽ gây ra bất ổn
định trên thị trường, thúc đẩy lạm phát tăng lên.
+ Phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách là nguyên
nhân trực tiếp của tình trạng lạm phát gia tăng.
Mặt khác, NSNN có cân bằng hay không sẽ tác động sâu sắc
đến sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế, bởi vì:

8


+ Cân bằng của ngân sách tác động trực tiếp đến sự cân bằng
của cán cân thương mại.
+ Cân bằng của ngân sách thực hiện được hay không nói lên
khả năng trả nợ đến hạn các khoản vay nước ngoài có thực hiện
được hay không.
II. Thu ngân sách nhà nước:
1. Khái niệm, đặc trưng:
Để thực hiện các chức năng của mình Nhà nước phải huy
động một bộ phận nguồn tài chính của xã hội tập trung vào
NSNN. Bộ phận nguồn tài chính này được tập trung vào quỹ tiền
tệ của Nhà nước bằng những phương thức và hình thức khác
nhau. Hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước cho đến nay để
tạo nguồn thu cho NSNN đó là thuế. Ngoài ra Nhà nước còn có
các nguồn thu khác như: thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà
nước, thu từ vay nợ, viện trợ . . .
a. Khái niệm:
Ta có khái niệm : “ Thu ngân sách nhà nước là việc nhà
nước sử dụng quyền lực của mình để tập trung một phần hoặc
toàn bộ nguồn lực tài chính quốc gia để tạo thành quỹ Ngân sách

nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước”.
Hay nói các khác, bản chất của thu NSNN phản ánh quan
hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính
giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Nó mang tính bắt
buộc, cưỡng chế các chủ thế kinh tế khác phải thực hiện trách
nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước.

b. Đặc trưng:
9


Thu NSNN được đặc trưng bởi một số đặc điểm sau:
- Cơ cấu các khoản thu NSNN đều gắn liền với chức năng,
nhiệm vụ và quyền lực chính trị của nhà nước. Trên cơ sở quyền
lực chính trị của mình, nhà nước định ra các chính sách thu
NSNN. Ngược lại, các khoản thu NSNN là tiền đề để thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
- Thu NSNN luôn luôn gắn chặt với các quá trình kinh tế và
các phạm trù giá trị. Kết quả của quá trình hoạt động kinh tế và
hình thức, phạm vi, mức độ vận động của các phạm trù giá trị là
tiền đề quan trọng xuất hiện hệ thống thu NSNN.
- Thu NSNN phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh
tế; biểu hiện ở các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả,
thu nhập, lãi suất, v.v...
- Ngoài ra, thu NSNN được thực hiện theo nguyên tắc hoàn
trả không trực tiếp là chủ yếu.
Do đó, cần lưu ý là không tính vào thu NSNN các khoản thu
mang tính chất hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì
thế, các văn bản hướng dẫn Luật NSNN (Nghị định
60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư

59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào
thu NSNN các khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản
viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay ưu đãi không
được tính vào thu NSNN.
2. Nội dung, phân loại thu ngân sách:
Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân
đối ngân sách, thu NSNN bao gồm các khoản:

Thu trong cân đối NSNN:
Thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu chủ
yếu sau:
- Thuế, phí và lệ phí
10


- Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của
Nhà nước.
- Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
- Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng
nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu
ngân sách nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của Nhà nước
để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Để phát huy tốt các tác
dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế, nhìn chung ở nước
ta cũng như ở các nước khác trên thế giới, nội dung của chính
sách thuế thường xuyên có thay đổi cho phù hợp với diễn biến
thực tế của đời sống kinh doanh xã hội và phù hợp với yêu cầu
của quản lý kinh tế, tài chính. Các sắc thuế chủ yếu hiện đang
được áp dụng ở nước ta hiện nay gồm có: Thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập

khẩu, thuế thu nhập đối với ngưới có thu nhập cao, thuế tài
nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp,…
 Thu để bù đắp sự thiếu hụt của NSNN:
Bao gồm các khoản vay trong nước và ngoài nước cho chi
tiêu ngân sách nhà nước khi các khoản chi ngân sách nhà nước
vượt quá các khoản thu trong cân đối của ngân sách.
- Vay trong nước: gồm cả vay của các tầng lớp dân cư,
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội trong nước. Việc
vay này được thực hiện dưới hình thức phát hành các công cụ
nợ của chính phủ (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) như các tín
phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu Chính phủ.
-Vay ngoài nước:
Ngoài ra còn một số các phân loại thu NSNN:

Căn cứ vào tính chất kinh tế của các nguồn thu: Thu NSNN
chia làm 2 loại:

11


-

Thu từ thuế và các khoản mang tính chất thuế như phí, lệ
phí. Đây là các khoản thu có tính chất bắt buộc, không hoàn trả
và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách.
Các khoản thu không mang tính chất thuế hay thu ngoài
thuế.
 Các phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định tỷ lệ động
viên từ thuế vào ngân sách hay tỷ suất thuế ( tỷ lệ giữa số thuế
thu được/ GDP) dùng trong việc phân tích đánh giá chính sách

động viên vào NSNN từ thuế. Ngoài ra nó còn có ý nghĩa tỏng
việc xác định và đánh giá tỷ trọng nguồn thu thuế trong tổng số
thu.

Căn cứ vào tính chất thường xuyên của các khoản thu, thu
NSNN bao gồm:
Thu thường xuyên bao gồm chủ yếu từ thuế, lệ phí, phí.
Ngoài ta có các khoản thu khác là:
+ Thu từ sở hữu tài sản ngoài thuế như thu từ hoạt động sự
nghiẹp, thu sử dụng vốn ngân sách, tiền cho thuê mặt đất…
+ Thu lãi từ các khoản cho vay
+ Các khoản đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong nước
+ Tiền phạt, tịch thu…
Thu không thường xuyên có các khoản như thu tiền bán nhà
thuộc sở hữu nhà nước, bán cổ phần thuộc sở hữu nhà
nước, thu từ viện trợ, vay nợ…

Trên cơ sở mức chi thường xuyên mà chủ yếu căn
cứ vào thuế, phí, lệ phí giúp xác định tỷ lệ giữa thu
thường xuyên và chi thường xuyên. Tỷ lệ này rất
cần khi cân đối NSNN nhằm đảm bảo ổn định chi
tiêu dùng thường xuyên và tăng tích lũy cho nền
kinh tế.
12




Căn cứ vào phạm vi của nguồn thu :


-

Thu nước ngoài, gồm có viện trợ và vay nước ngoài
Thu trong nước và vay nợ trong nước

Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc đánh giá
mức độ phụ thuộc của NSNN vào bên ngoài và mức
độ can thiệp trực tiếp của nhà nước thông qua tỷ
trọng chi đầu tư và tiêu dùng của khu vực nhà nước.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước:
Tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của đất nước:
Nhân tố GDP bình quân đầu người:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế:
Mức độ và hiệu quả chi tiêu của nhà nước:
Tổ chức bộ máy thu ngân sách:
III. Chi ngân sách nhà nước:
1. Khái niệm, đặc trưng:
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ
ngân sách nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc
thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Thực chất của chi ngân
sách nhà nước là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các
nhiệm vụ của nhà nước.
Chi NSNN có một số đặc trưng riêng:
Chi NSNN luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính
trị, xã hội mà chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia.
Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được thực hiện ở
tầng vĩ mô và mang tính toán diện cả về hiệu quả kinh tế trực
tiếp, hiệu quả xã hội và chính trị ngoại giao.
Phần lớn các khoản chi ngân sách đều là các khoản cấp phát
không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Vì vậy, các nhà


13


quản lý cần có sự phân tích tính toán cẩn thận khi đưa ra các
quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí không cần thiết.
2. Nội dung, phân loại chi ngân sách nhà nước:
2.1. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, chi NSNN phân thành:
- Chi đầu tư kinh tế: Là những khoản chi nhằm hoàn thiện và
mở rộng nền sản xuất xã hội. Khoản chi này có vai trò điều
tiết quan trọng, được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau,
tạo ra sự tác động tổng hợp kích thích sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân, tạo thế cân bằng cho nền kinh tế.
- Chi cho y tế : bao gồm các khoản chi để duy trì và mở rộng
hoạt động y tế.
- Chi cho giáo dục: bao gồm các khoản chi cho việc duy trì và
phát triển hoạt động giáo dục đào tạo.
- Chi cho phúc lợi xã hội: là những khoản chi mà xã hội cần
chính phủ quan tâm, giúp đỡ. Đó là các khoản trợ cấp cho
người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, người lao động chưa có
việc làm, nhân dân các vùng thiên tai, địch họa, cho thương
binh, gia đình liệt sĩ...
- Chi cho quản lý hành chính : là những khoản chi nhằm duy
trì hoạt động của các cơ quan quản lý thuộc chính quyền các
cấp, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, viện kiểm sát nhân dân,
tòa án nhân dân, chi về ngoại giao . . .
- Chi cho an ninh và quốc phòng: là những khoản chi dành
cho các lực lượng vũ trang và công tác bảo vệ trị an trong
nước.
2.2. Căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội, chi NSNN được

phân thành:

14


- Chi tích lũy: bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng cơ
bản, chi cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước,
chi dự trữ . . .
- Chi tiêu dùng: chi tiêu dùng đa dạng và phức tạp hơn nhiều
so với chi tích lũy bao gồm, chi quản lý hành chính, chi sự
nghiệp, chi bù giá và chi khác.
2.3. Căn cứ vào yếu tố thời hạn tác động của các khoản chi,
chi NSNN được phân thành 3 nhóm:
- Chi thường xuyên: là những khoản chi có thời hạn tác động
ngắn, bao gồm : chi lương và các khoản có tính chất tìên
lương, chi bổ sung quỹ hưu trí, chi công vụ phí, chi mua
sắm hàng hóa và dịch vụ cho nghiệp vụ và cho sửa chữa
thường xuyên, chi trợ cấp, bù giá, chi trả lãi tiền vay trong
và ngoài nước, chi cho quỹ dự trữ thường xuyên, dự bị phí .
..
- Chi đầu tư phát triển: Là những khoản chi có thời hạn tác
động dài, bao gồm: Chi đầu tư các dự án phát triển, chi
chuyển giao vốn đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước
hoặc các địa phương, chi dự trữ cho mục đích đầu tư, chi
viện trợ, đầu tư cho nước ngoài. . .
- Chi trả khác: bao gồm, chi cho vay (cho vay các tổ chức
nhà nước, cho vay nước ngoài...) và trả nợ gốc (trả nợ trong
nước, trả nợ ngoài nước).
3. Những nhân tố ảnh hưởng:
- Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thiên nhiên như bão, lũ

lụt, sóng thần…
- Nhiệm vụ của đất nước trong từng thời kì.
- Khả năng tích tụ và tập trung nguồn lực kinh tế.
- Hiệu quả của bộ máy chi ngân sách nhà nước.
15


IV. Thâm hụt ngân sách nhà nước:
1. Cân đối ngân sách nhà nước , các trạng thái ngân sách
nhà nước:
Ngân sách nhà nước là dự toán thu, chi bằng tiền của nhà
nước, được thực hiện trong thời gian một năm, và là một
trong những công cụ tài chính quan trọng mà nhà nước sử
dụng để phân phối thu nhập quốc dân.
Cân đối NSNN mang nét đặc trưng là cân đối về mặt giá trị
hay cân đối thực chất là một hình thức phản ánh tương quan
giữa nguồn và sự dụng của quỹ ngân sách nhà nước.
Mối tương quan giữa thu NSNN và chi NSNN được biểu
hiện qua 3 trạng thái:
- Cân bằng ngân sách nhà nước khi tổng thu ngân sách
nhà nước bằng tổng chi ngân sách nhà nước
- Thặng dư hay bội chi ngân sách nhà nước khi tổng thu
ngân sách nhà nước lớn hơn tổng chi ngân sách nhà
nước.
- Bội chi hay thâm hụt ngân sách nhà nước khi tổng thu
ngân sách nhà nước ít hơn tổng chi ngân sách nhà
nước
Trong thực tế, cân đối thu chi NSNN chỉ mang tính tương đối
vì ngân sách nhà nước luôn trong tình trạng vận động, các khoản
thu chi chịu tác động từ nhiều yếu tố kinh tế xã hội… khiến cho

NSNN có thể rơi vào trường hợp cân đôi hoặc mất cân đối.
Bên cạnh việc cân đối NSNN, vấn đề đặt ra là cần phải bảo
đảm nguồn lực tài chính để các cấp ngân sách nhà nước hoàn
thành tốt các nhiệm vụ của mình trên các lĩnh vực kinh tế xã hội.
2. Khái niệm thâm hụt ngân sách nhà nước và phân loại:
a. Khái niệm:
Thâm hụt ngân sách nhà nước là tình trạng chi tiêu của ngân
sách nhà nước vượt quá số thu của ngân sách nhà nước trong một
16


năm. Thâm hụt NSNN được xem là đối nghịch với thặng dư
NSNN. Thâm hụt NSNN đã trở thành hiện tượng phổ biến ở hầu
hết các nước, không chỉ ở những nước kém phát triển, đang phát
triển mà ngay cả các quốc gia phát triển. Trong những thập niên
gần đây, tình trạng này có những biểu hiện cụ thể sau:
-Thâm hụt NSNN tăng cả về quy mô và tỷ trọng bội chi/GDP
- Thâm hụt NSNN thể hiện ở tất cả các cấp NSNN
Những biểu hiện về thâm hụt NSNN một mặt phản ánh
những tác động tích cực của thâm hụt NSNN (như: kích thích
tăng trưởng kinh tế, là một công cụ để kích cầu,…) nhưng mặt
khác cho thấy mức độ nguy hiểm của bội chi NSNN ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển lành mạnh của nền tài chính quốc gia. Dù
các chính phủ có nỗ lực cân đối NSNN bằng biện pháp nào thì
hậu quả của sự thâm hụt NSNN cuối cùng người dân cũng phải
gánh chịu.
b. Phân loại thâm hụt NSNN:
Có thể phân loại theo các tiêu thức sau:
 Một là: Căn cứ vào yếu tố thời gian
Thâm hụt NSNN có thể chia làm 2 loại:

• Thâm hụt NSNN trong ngắn hạn: Biểu hiện sự thiếu hụt tạm
thời về các nguồn thu NSNN mà chủ yếu là thuế. Tình trạng này
xảy ra bắt nguồn từ việc nhiều khoản chi NSNN thì phát sinh đều
đặn (như thanh toán lương cho công chức, chi trả nợ, lãi vay,…),
trong khi đó, nguồn thu thuế lại được tiến hành từng đợt, từ đó tạo
nên sự chênh lệch tạm thời giữa tổng thu và tổng chi NSNN
thường bù đắp những khoản thiếu hụt này bằng những khoản vay
ngắn hạn hoặc sử dụng quỹ dự trữ nếu cần giải quyết nhu cầu chi
đột xuât, cấp bách.
• Thâm hụt NSNN trong dài hạn: là trạng thái tổng chi NSNN
lớn hơn các khoản thu NSNN diễn ra trong nhiều năm tài khóa
17


liên tục. Trường hợp này thường phổ biến ở các nước đang phát
triển hoặc ở các nước vừa trải qua khủng hoảng kinh tế, chính trị,
… và cần có sự hỗ trợ trực tiếp từ phía chính phủ để khôi phục và
thúc đẩy phát triển kinh tế. Thâm hụt NSNN dài hạn biểu hiện
tình trạng suy yếu nghiêm trọng của nhà nước do bộ máy điều
hành kém hiệu quả và quá trình quản lý chi tiêu NSNN không
chặt chẽ… Để giải quyết tình trạng này, chính phủ các nước
thường phải vay dài hạn, chấn chỉnh lại cơ cấu thu, chi NSNN…
 Hai là: Căn cứ vào nguồn gốc của thâm hụt
Thâm hụt NSNN được chia làm 2 loại:

Thâm hụt cơ cấu hay còn gọi là thâm hụt mang tính
chủ động, bắt nguồn do nhà nước thay đổi chính sách thu, chi.

Thâm hụt chu kỳ bắt nguồn từ sự ảnh hưởng biến động
của chu kỳ kinh tế. Đây có thể xem như một dạng bội chi bị

động. Trong thực tế, chính phủ các nước đã ứng dụng thâm hụt
cơ cấu để tác động đến chu kỳ kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến
thâm hụt chu kỳ.
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân chủ quan:
-Loại nguyên nhân thứ nhất là do tác động của chu kỳ kinh
doanh.
Trong thời kỳ khủng hoảng hay suy giảm kinh tế sẽ làm cho thu
nhập của quốc gia bị thu hẹp lại, đồng thời nhu cầu chi tiêu tăng
lên để đáp ứng những khó khăn về kinh tế xã hội, từ đó dẫn đến
thâm hụt ngân sách tăng. Ngược lại, ở giai đoạn nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, thu ngân sách tăng cao trong khi đó các khoản chi
liên quan đến an sinh xã hội như bảo hiểm thất nghiệp và hỗ trợ
cho người nghèo có xu hướng giảm xuống nên cán cân tài khóa
của chính phủ được cải thiện, hay nói cách khác thâm hụt ngân
sách sẽ giảm xuống.
18


- Loại nguyên nhân thứ hai là do hậu quả của những tác nhân gây
ra.
Nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước tăng để đáp ứng yêu cầu
kinh tế, phục vụ cho quốc phòng, cho khắc phục hậu quả của
thiên tai…Đặc biệt, trong những năm gần đây,các khoản chi
quốc phòng, an ninh của các nước có xu hướng ngày càng tăng
cao do tình hình bất ổn của an ninh thế giới và sự đe dọa của chủ
nghĩa khủng bố. Ngoài ra, do cơ cấu dân số mất cân dối, dẫn đến
tỷ lệ người trong dộ tuổi lao động ngày càng giảm, trong khi đó,
số người đến tuổi nghỉ hưu càng tăng, từ đó những khoản chi an
ninh xã hội luôn là áp lực gây ra thâm hụt NSNN hàng năm.

3.2. Nguyên nhân khách quan:
- Do chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước gây ra. Khi nhà
nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng
sẽ làm tăng mức thâm hụt NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách
giảm đầu tư và tiêu dùng thì mức thâm hụt ngân sách sẽ giảm bớt.
Mức thâm hụt của NSNN do tác động của chính sách cơ cấu thu
chi gây ra được gọi là thâm hụt NSNN do cơ cấu.
- Điều hành NSNN không hợp lý dẫn tới tình trạng hạn chế
khả năng khai thác nguồn thu cho NSNN, gây nên thất thu đồng
thơi cơ cấu chi tiêu bất hợp lý, quản lý chi tiêu thiếu chặt chẽ gây
nên lãng phí, thất thoát vốn cho nhà nước.
- Do quá trình phân cấp NSNN còn nhiều bất cập làm cho
ngân sách nhà nước ở địa phương luôn rơi vào tình trạng không tự
cân đối được, chi hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho địa phương
ngày càng nhiều.
- Do chủ trương chuyển đổi nền kinh tế làm nảy sinh nhu cầu
cần điều chỉnh cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp, từ đó làm tăng
nhiều khoản trợ cấp, ưu đãi dể khuyển khích, làm ảnh hưởng tới
cơ cấu thu chi NSNN.
19


4. Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước:
Bội chi ngân sách nhà nước (hay còn gọi là thâm hụt ngân
sách nhà nước) có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền
kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt.
Nói chung nếu tình trạng bội chi NSNN với tỷ lệ cao và trong thời
gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực.
Về mặt tích cực, sự thâm hụt ngân sách trong những năm qua
được sử dụng như là một công cụ của chính sách tài khóa để tăng

trưởng kinh tế.
Về mặt tiêu cực, tác động của thâm hụt NSNN thể hiện ở các
mặt sau:
- Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết
kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân
tài khoản vãng lai, giảm tăng trưởng trong dài hạn.
- Thâm hụt ngân sách góp phần làm tăng vay mượn, từ đó
làm tăng lãi suất thực do cầu về vốn vay của chính phủ để tài trợ
cho chi tiếu. Điều này làm cho các dòng vốn đổ vào do chênh
lệch lãi suất làm cho cầu về đồng ngoại tệ sẽ tăng lên, tạo ra áp
lực làm cho giá đồng nội tệ lên giá so với các ngoại tệ khác.
- Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm
tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm
tăng mức lạm phát kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư
vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền
để tài trợ thâm hụt.
- Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà
nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều
này đến lượt nó dẫn tới lạm phát.

20


- Gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng nợ quốc gia, khiến
sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại.
- Thâm hụt còn làm cho các nhà hoạt động chính sách không
thể hoặc không sẵn sàng sử dụng các gói kích thích tài chính đúng
thời điểm.
- Để bù lại các khoản thâm hụt chính phủ buộc phải tăng thuế
hoặc vay nợ thông qua phát hành trái phiếu. Thuế làm méo mó

nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội và các doanh
nghiệp phải chịu chi phí lớn hơn, làm giảm động lực sản xuất và
khả năng cạnh tranh. Đồng thời mức tiêu dùng cũng giảm dẫn đến
việc giảm tổng cầu.
5. Giải pháp khắc phục thâm hụt ngân sách nhà nước:
5.1. Giải pháp trước mắt:
Để tài trợ thâm hụt ngân sách, có những phương thức tài trợ sau:
5.1.1.Phát hành thêm tiền:
Biện pháp này có ưu điểm là kịp thời, Nhà nước không cần
bận tâm đến gánh nặng của nợ quốc gia và đặc biệt nếu lượng tiền
cung ứng tăng lên qua phát hành tiền vẫn nằm trong giới hạn có
thể kiểm soát được của Ngân hàng Trung ương thì việc phát hành
tiền để kích thích tăng cầu đầu tư và tiêu dùng trong nền kinh tế là
giải pháp có thể chấp nhận.
Tuy nhiên biện pháp này nếu bị lạm dụng để dẫn đến lạm phát
cao, gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội. Ngoài ra, nhược
điểm lớn của biện pháp này là sự công khai trước dư luận tình
trạng thiếu hụt NSNN, dễ gây ảnh hưởng tới uy tín của nhà nước
trước dân chúng. Vì vậy, biện pháp này là 1 công cụ ngoại lệ.
5.1.2 Vay nợ:
Đây là giải pháp thường được các quốc gia trên thế giới sử
dụng. Có hai hình thức vay nợ được sử dụng là vay nợ trong nước
và vay nợ nước ngoài.

21


Vay nợ trong nước là hình thức nhà nước huy động nguồn vốn
trong dân thông qua phát hành trái phiếu chính phủ trên thị
trường tài chính trong nước. So với vay nước ngoài, vay nợ

trong nước là biện pháp dễ triển khai hơn và tránh được tình
trạng lệ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên, nguồn lực để cho
chính phủ vay nợ trong nước bị giới hạn bởi nguồn lực tiết
kiệm của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, việc vay nợ trong nước
quá nhiều sẽ làm tăng lãi suất của thị trường trong nước do
nhu cầu huy động vốn trên thị trường tăng. Lãi suất tăng sẽ có
xu hướng “lấn át” và làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân,
hay nói cách khác sẽ dẫn đến “hiệu ứng thoái lùi đầu tư” của
khu vực kinh tế tư nhân. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ
trong nước để tài trợ cho các khoản chi bằng ngoại tệ còn gây
áp lực lên tỷ giá và khả năng cân đối ngoại tệ của ngân hàng
trung ương.
Vay nợ nước ngoài có thể được thực hiện thông qua vay
hỗ trợ phát triển chính thức hay phát hành trái phiếu chính phủ
trên thị trường tài chính nước ngoài. Việc sử dụng một phần
vốn vay nước ngoài để tài trợ thâm hụt ngân sách có thể làm
giảm bớt căng thẳng trên thị trường tín dụng trong nước, qua
đó hạn chế được tình trạng “lấn át” hay “chèn lấn” đầu tư đối
với khu vực tư nhân. Tuy nhiên, việc vay nợ nước ngoài quá
nhiều sẽ phải chịu nhiều ràng buộc cũng như áp đặt về điều
kiện của các chủ thể cho vay, đặc biệt là vấn đề về rủi ro tỷ giá
nếu như những rủi ro này không được “phòng ngừa” kịp thời.
5.1.2.
Tăng thuế và kiện toàn hệ thống thuế:
Biện pháp này không chỉ thông qua tăng thuế suất và còn
liên quan tới vấn đề cải cách hệ thống các sắc thuế, mở rộng diện

22



chịu thuế, kiện toàn và nâng cao hiệu quả bộ máy thu thuế nhằm
chống thất thu thuế.
Ưu điểm của biện pháp này là tạo thế chủ động cho nhà
nước do thuế là công cụ trong tay nhà nước nên việc ban hành
một sắc thuế mới hay tăng thuế suất có thể triển khai ngay qua bộ
máy của cơ quan thuế.
Nhược điểm là tăng thuế thông qua tăng thuế suất phụ thuộc
vào mức độ chịu đựng của nền kinh tế trong quá trình phân phối
của các chủ thể trong xã hội. Nếu tăng thuế mà không hợp lý thì
rất dễ đưa đến phản tác dụng vì nó không thể hiện được vai trò
đòn bẩy nền kinh tế.
Vì vậy khi áp dụng biện pháp này cần xem xét khả năng thu
thuế cũng như nguyên tắc cần bảo đảm khi xây dựng và kiện toàn
hệ thống thuế. Bên cạnh đó, biện pháp này cũng phụ thuộc vào
tính hiệu quả của bộ máy thu thuế nhằm giảm những tiêu cực, thất
thoát có thể phát sinh.
5.1.4.Giảm chi:
Giảm chi, cắt gảim các khoản chi bao cấp, lãnh phí, thực
hành tiết kiệm chi tiêu qua việc nâng cao hiệu quả của quá trình
kiểm soát chi tiêu công, cơ cấu lại hệ thống chi nhằm giảm nguy
cơ tham ô trong quá trình sử dụng vốn NSNN.
Song nhìn chung, biện pháp này bị đánh giá là tiêu cực vì
đứng trên góc độ điều tiết vĩ mô, các khoản chi của NSNN luôn
ảnh hưởng đến lợi ích của công chúng của doanh nghiệp nên việc
cắt giảm chi phí, dễ gây phản ứng từ phía công luận. Vì vậy, biện
pháp này trong thực tế thường được vận dụng theo hướng điều
chỉnh chi tiêu công.
Như vậy, mỗi biện pháp xử lý thâm hụt NSNN đều có
những ưu , nhược điểm riêng. Vấn đề còn lại là tùy thuộc vào
điều kiện của mỗi quốc gia mà chính phủ có thể lựa chọn biện


23


pháp trước mắt, biện pháp cơ bản, biện pháp phụ trợ để đạt được
mục tiêu cân đối NSNN.
5.2. Giải pháp lâu dài:
Hoàn thiện môi trường pháp lý tài chính:
Cân đối NSNN liên quan tới quá trình sử dụng các nguồn
lực tài chính phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, do đó có ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích kinh tế của tất cả các đối tượng trong xã hội.
Hơn nữa, cân đối NSNN thường xuyên bị chi phối bởi các vấn đề
chính trị - kinh tế. Nó vừa phản ánh nhanh nhạy tình hình kinh tế,
chính trị của đất nước, đồng thời vừa bị chi phối ngay các vấn đề
kinh tế, chính trị đó. Như vậy, cần thiết tạo lập môi trường pháp
luật tài chính đầy đủ, đồng bộ để tăng cường vai trò quản lý nhà
nước và tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành phân phối và sử
dụng nguồn lực tài chính công hiệu quả.
Nâng cao năng lực quản lý của chính phủ, khu vực tài
chính công kém năng động, thủ tục hành chính công rườm rà,
phức tạp đã dẫn đến sự thất bại trong việc gắn kết giữa các chính
sách, lập kế hoạch và lập ngân sách, từ đó nguồn lực tài chính bị
phân phối sai lệch, không sử dụng hiệu quả.
Nhà nước phải làm rõ vai trò quản lý của mình phù
hợp với năng lực, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế. Cụ thể là:
Phải xây dựng các thể chế làm khu vực tài chính công năng động,
tăng cường xây dựng các thể chế về chính sách, chính quyền có
khả năng xây dựng và phối hợp chính sách trong việc lựa chọn
mục tiêu chiến lược, phân bổ nguồn lực gắn kết với kế hoạch và
chính sách, thực hiện kiểm soát đánh giá kết quả các hoạt động,

ngăn chặn nạn tham nhũng đang được nhìn nhận là nghiêm trọng
nhất trong nền kinh tế,…

24


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng ngân sách nhà nước và thâm hụt ngân sách
nhà nước tại Việt Nam giai đoạn 2006-2011:
1.1. Thực trạng thu ngân sách nhà nước:
Quy mô thu NSNN liên tục được mở rộng qua các năm và
đến nay Việt Nam đã trở thành một quốc gia có mức động
viên ngân sách khá cao khi so với các nước đang phát triển
của mức thu nhập tương đồng.
Tỷ trọng tổng thu NSNN so với GDP đã tăng từ 21,6% GDP

25


×