Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ GIẢNG VIÊN CẦN QUAN TÂM ĐẾN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG NHỮNG NĂM TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.97 KB, 88 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

NHỮNG VẤN ĐỀ GIẢNG VIÊN CẦN QUAN TÂM ĐẾN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG NHỮNG NĂM TỚI
TS. Lê Tấn Đạt
Hiệu trưởng

Hoạt động khoa học là quá trình nghiên cứu luôn gắn liền với quá trình giáo
dục - đào tạo và hội nhập quốc tế nhằm nghiên cứu và phát minh mới trên mọi lĩnh
vực chính trị, kinh tế – xã hội phục vụ cho sự phát triển của mỗi quốc gia và quốc tế,
đem lại lợi ích cho loài người.
Trong lịch sử dân tộc ta đã nghiên cứu và ứng dụng thành công trên nhiều lĩnh
vực chính trị, kinh tế - xã hội đã tạo ra nhiều anh hùng dân tộc và nhiều nhà khoa học.
Thời đại Hồ chí Minh – cũng đã quan tâm kế tục phát huy và sử dụng nhân tài là các
nhà khoa học ra giúp nước như GS Trần Đại Nghĩa, GS Tôn Thất Tùng... Ngày nay,
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến hoạt động nghiên cứu khoa học, tại hội nghị lần
thứ 13 Ban chấp hành TW Đảng khoá X tiếp tục khẳng định “Phát triển khoa học
công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền
vững”.
Những năm qua Trường Đại học TDTT Đà Nẵng đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách. Từ một trường Cao đẳng thiếu thốn cả cơ sở vật chất và nguồn nhân lực;
thiếu giảng viên có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ; thiếu đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn thời điểm này còn nhờ sự giúp đỡ của các trường bạn để liên kết đào tạo đại học.
Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được đặt ra không chỉ hôm nay và đã nhiều năm qua,
nhưng chưa thấy một sự chuyển biến cả về số lượng, chất lượng và các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học của nhà trường; rõ nhất là số lượng giảng viên có trình độ thạc sỹ
tăng nhưng số lượng đề tài nghiên cứu không tăng; phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp
và thiếu tính ứng dụng; vấn đề NCKH của giảng viên chủ yếu là các luận văn phục vụ
cho việc phấn đấu đủ điều kiện để tốt nghiệp thạc sỹ hoặc là NCKH đảm bảo cho tiêu
chí thi đua hàng năm. Đó là những điều chúng ta cần suy nghĩ – có phải những người
thầy của chúng ta không có thời gian nghiên cứu; thiếu thầy hướng dẫn (thiếu cán bộ
khoa học đầu đàn); thiếu nguồn kinh phí; thiếu điều kiện nghiên cứu… Tất cả cũng chỉ
là lý do khách quan. Còn chủ quan và trách nhiệm của mỗi người thầy thì sao? Điều


quan trọng nhất là thiếu sự đam mê và thiếu kiến thức cơ bản về các lĩnh vực nghiên
cứu. Bởi vì khoa học hiện đại và hội nhập tuy rất thuận lợi cho việc tìm hiểu rộng,
nhanh chóng nhận thông tin cần thiết qua mạng, song cũng làm cho con người tiếp cận
công nghệ để ứng dụng là chính nên làm cho tính sáng tạo của con người phần nào
cũng bị hạn chế. Vì vậy chúng ta phải nhận thức ra rằng khoa học hiện đại cần phải có
1


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

đội ngũ trí thức sáng tạo - đam mê nghiên cứu và yêu chuộng lý tưởng để đạt mục đích
cho quá trình đam mê nghiên cứu.
Ngay từ những ngày đầu nâng cấp thành trường đại học, Nhà trường đã xây
dựng một chiến lược phát triển toàn diện phù hợp với đặc điểm và những bước đi ban
đầu của trường như:
- Quy hoạch đào tạo đội ngũ CBGV giai đoạn 2007 – 2011 và định hướng đến
năm 2020.
- Xin cơ chế ưu tiên đào tạo thạc sỹ 2006 – 2010
- Tăng cường, bổ sung đội ngũ giảng viên và nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ
đào tạo.
- Hệ thống cơ cấu, bộ máy tổ chức được mở rộng từ cấp khoa, bộ môn.
- Mở rộng qui mô đào tạo.
- Mở rộng hợp tác quốc tế để gửi giảng viên đào tạo tiến sỹ.
Sau 5 năm được nâng cấp thành trường Đại học (2007 – 2011), chúng ta đã
thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản đặt ra như:
Đội ngũ giảng viên tăng từ 70 lên 130 giảng viên; đào tạo gần 70 giảng viên có
trình độ thạc sĩ (từ 20 thạc sỹ năm 2006 – lên trên 90 thạc sỹ 2011; từ 01 tiến sĩ 2006 –
lên 05 tiến sỹ năm 2011 và 23 NCS trong đó 14 NCS nước ngoài) dự kiến 2015 sẽ đạt
20% tiến sỹ. Bên cạnh đó cơ sở vật chất được nâng cấp và mở rộng. Tuy nhiên nhiệm
vụ quan trọng đảm bảo cho quá trình đào tạo là NCKH đó là một sự tăng tốc đội ngũ

CBGV nhằm đáp ứng cho một lộ trình phát triển bền vững của nhà trường. Song thời
gian qua vì sao chúng ta vẫn còn gian nan trong việc thực hiện nhiệm vụ tổ chức và
tham gia nghiên cứu khoa học? Chúng ta chưa tăng được số lượng giảng viên tham gia
nghiên cứu; chúng ta chưa đăng ký những đề tài cấp bộ, chưa thấy phát triển hướng
nghiên cứu mới?
Những nguyên nhân nào chúng ta đã bị hạn chế trong vấn đề tham gia nghiên
cứu ? Nguồn nhân lực có trình độ của trường đã tăng số lượng, đã có một số giảng
viên có kinh nghiệm, kinh phí nghiên cứu luôn bảo đảm cho mỗi đề tài, môi trường
nghiên cứu thuận lợi. Phải chăng chúng ta thiếu thời gian vì giảng dạy quá nhiều?
Hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu chưa cao? Thiếu tự tin trong nghiên cứu? Chưa nêu
cao tinh thần nhiệm vụ NCKH của người thầy? Thiếu lòng đam mê nghiên cứu ? Có lẽ
những vấn đề trên đang tồn tại trong mỗi thầy cô đang tâm tư với nhiệm vụ của mình.
Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là thiếu lòng đam mê – lý tưởng nghiên cứu, chưa

2


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

nhận thấy hết tầm quan trong giá trị của việc nghiên cứu khoa học với một người thầy.
Nói đến giá trị thì nhà Bác học Lê Quý Đôn đã nói:
“Dẫu có Bạc Vàng trăm vạn lạng
Chẳng bằng kinh sử một vài pho”.
Cho nên chúng ta là nhà giáo thì lý tưởng nghiên cứu khoa học của chúng ta
phải tìm cách đi đúng hướng:
- Nghiên cứu phương pháp (quản lý; giảng dạy) tốt nhất nhằm đem lại chất
lượng đào tạo ngày càng cao.
- Nghiên cứu các quy luật về phát triển thể chất tìm ra qui trình huấn luyện
nâng cao thành tích thể thao.
- Nghiên cứu xã hội để mở rộng môi trường cho các hoạt động TDTT trên các

lĩnh vực: kinh tế - xã hội đem lại hiệu quả cho xã hội hoá thể thao.và lợi ích kinh tế.
- Nghiên cứu cho sự phát triển thể chất giống nòi …
Từ những nguyên nhân hạn chế của quá trình NCKH của đội ngũ giảng viên và
những vấn đề cần quan tâm cho giai đoạn phát triển công tác NCKH trong thời gian
tới.
Một là: Hệ thống, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ khoa học có kinh nghiệm đã được
đào tạo tiến sỹ.
Hai là: Thành lập Viện nghiên cứu - chuyển giao công nghệ TDTT.
Ba là: Xây dựng qui chế tài chính “mở” cho chủ nhiệm đề tài và các chính
sách liên quan về NCKH.
Bốn là: Đa dạng hoá và mở rộng các mối quan hệ nghiên cứu trong ngành cũng
như và hợp tác nghiên cứu quốc tế và liên kết nghiên cứu với các địa phương – đơn vị.
Năm là: Tăng cường, bổ sung CSVC; phòng thí nghiệm đáp ứng cho quá trình
nghiên cứu.
Sáu là: Xây dựng qui chế tài chính cho các loại; cấp đề tài nghiên cứu, quy
định thưởng - phạt về nhiệm vụ NCKH cho giảng viên.
Chúng ta thực hiện được những bước đi cơ bản phù hợp với điều kiện của
Trường hiện nay. Mỗi cán bộ giảng viên đổi mới tư duy NCKH thì công tác nghiên
cứu khoa học của trường chúng ta những năm tới sẽ đạt được nhiều kết quả, không chỉ
nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên, nâng cao uy tín cho Nhà trường mà sẽ góp
phần tăng trưởng kinh tế cho các nhà nghiên cứu và cho Nhà trường./.
3


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

NHỮNG HẠN CHẾ VÀ SAI SÓT THƯỜNG GẶP
KHI HƯỚNG DẪN SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TS. Đặng Quốc Nam
Phó Hiệu trưởng

Qua tổng kết từ thực tiễn công tác tổ chức hướng dẫn khoa học, công tác đánh
giá nghiệm thu các đề tài nghiên cứu, các chuyên đề khoa học của cán bộ giảng viên
và sinh viên những năm qua có thể nhìn thấy một số hạn chế sai sót thường gặp cần
được thông tin trao đổi để cùng rút kinh nghiệm trong các hoạt động khoa học, đặc
biệt để hướng dẫn sinh viên trong việc triển khai thực hiện tiểu luận tốt nghiệp đạt kết
quả tốt.
1. Vấn đề lựa chọn hướng đề tài nghiên cứu
Thực tế triển khai qua nhiều người nghiên cứu và nhiều khóa sinh viên cho thấy
những hướng truyền thống hầu như đã thu hẹp và thường dễ trùng lặp. Trong lúc nhiều
tác giả không quan tâm mạnh dạn tìm các hướng mới mà vẫn đăng ký triển khai các
lọai hình tương tự để thuận lợi trong việc khai thác những cơ sở lý luận và cấu trúc
trình bày giống nhau… Hiện trạng này thường dẫn đến việc khó tìm được những nhân
tố mới đặc trưng cần thiết mà đây lại là nguyên tắc và yêu cầu phải có trong nghiên
cứu khoa học.
Một số khác khi lựa chọn hướng nghiên cứu thường không bao quát xác định rõ
được phạm vi liên quan nên vấn đề thường quá rộng hoặc không phù hợp và không có
khả năng thực thi.
Phần thuyết minh xác định những cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan cũng như
xác định mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu thường thiếu chặt chẽ và logic, thiếu bao
quát được trọng tâm vấn đề cần nghiên cứu, nên diễn biến khi triển khai phải điều
chỉnh bổ sung nhiều.
2. Vấn đề xác định và khai thác sử dụng các phương pháp nghiên cứu
Việc sử dụng các phương pháp phù hợp và đầy đủ là để giải quyết yêu cầu
nhiệm vụ nghiên cứu của từng để tài đặt ra. Thực tiễn quá trình triển khai hầu hết các
tác giả đều sử dụng các phương pháp truyền thống thuộc lĩnh vực nghiên cứu ứng
dụng, chưa chú ý khai thác mở rộng các phương pháp thuộc lĩnh vực khoa học liên
quan khác như: khoa học tự nhiên, khoa học lịch sử, khoa học xã hội và nhân văn,
khoa học kỹ thuật,… để giải quyết vấn đề nghiên cứu được sâu rộng hơn; ví dụ các
phương pháp nghiên cứu lịch sử, tư duy logic, mô hình hóa,…
Tuy nhiên trong việc sử dụng các phương pháp truyền thống vẫn biểu hiện

những mặt hạn chế, thậm chí còn để sai sót cơ bản khác nhau như:

4


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

- Trong phương pháp phân tích và sử dụng tài liệu tham khảo, nhiều tác giả
thường lạm dụng trích dẫn lặp lại quá nhiều, gần như copy máy móc, thiếu chọn lọc
những thông tin cần thiết và đặc trưng liên quan đến công trình của mình. Cấu trúc
trình bày các phần về cơ sở lý luận còn tản mạn, thiếu chặt chẽ và logic, trích dẫn và
ký hiệu không rõ ràng về nguồn gốc,…
- Trong sử dụng phương pháp quan sát: nhiều tác giả không chú ý đến các hình
thức quan sát phù hợp trong khi triển khai (như cách ghi chép, các biên bản thống kê,
quay phim, chụp hình, ghi âm… tùy tình huống) nên có lựa chọn nhưng không được
sử dụng hoặc trình bày kết quả quan sát không rõ ràng, thiếu cơ sở thực tiễn.
- Trong sử dụng phương pháp phỏng vấn: đây là phương pháp truyền thống
được sử dụng rất nhiều trong nghiên cứu thực tiễn. Mặt hạn chế thường thấy là nhiều
tác giả chưa biết cách xây dựng hoặc sử dụng các mẫu phỏng vấn rất giản đơn, cấu
trúc các câu hỏi không bao quát hết các vấn đề cơ bản cần phỏng vấn, nội dung câu hỏi
còn chung chung thiếu rõ ràng, thậm chí trùng lặp rất khó trả lời cho được hỏi. Các
loại hình câu hỏi (đóng, mở hoặc kết hợp) sử dụng chưa sát với thực tế đối tượng
phỏng vấn về trình độ nhận thức, lứa tuổi… sẽ hạn chế đến chất lượng phỏng vấn và
kết quả khảo sát.
- Trong sử dụng phương pháp thực nghiệm: đây là phương pháp thường khó
thực thi trong nghiên cứu tùy thuộc từng đề tài và điều kiện cho phép, song nhiều tác
giả còn sử dụng tùy tiện và hầu như còn chủ quan thiếu tính khả thi, nên cần thiết phải
xác định trước để đảm bảo tính phù hợp đối với từng công trình cho phép. Mặt khác
việc vận dụng và khai thác các loại hình thực nghiệm, các dụng cụ thiết bị thí nghiệm
do còn thiếu được tiếp xúc nên việc xử lý và trình bày kết quả ở một số công trình

không chặt chẽ, thậm chí còn lạm dụng dẫn đến kết quả thiếu độ tin cậy.
- Trong sử dụng phương pháp kiểm tra (kiểm tra sư phạm, kiểm tra y học…):
một số tác giả còn lẫn lộn về khái niệm, cách sử dụng các test và hệ thống bài tập…
nên triển khai và trình bày kết quả còn sai sót.
- Trong sử dụng phương pháp toán học thống kê: một số tác giả còn lạm dụng
hoặc sử dụng không phù hợp các chỉ số, công thức để đánh giá kết quả nghiên cứu
hoặc ngược lại chưa biết khai thác hết các chỉ số và công thức toán học cho phép để xử
lý chặt chẽ giúp cho kết luận được sâu hơn. Trong trình bày kết quả các biểu bảng,
biểu đồ còn thiếu chặt chẽ và phù hợp, các chỉ số đánh giá như %, n, t, w%,… đôi lúc
còn sử dụng thiếu hoặc không phù hợp.
3. Một số mặt hạn chế khác:
- Khối lượng thông tin khoa học và cấu trúc trình bày kết quả công trình nghiên
cứu, một số còn mất cân đối, thiếu chặt chẽ và logic. Ví dụ như phần tổng quan thường

5


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

dài hoặc ngắn quá, các phần cơ sở lý luận thiếu tính hệ thống và liên quan chặt chẽ.
Trình bày các chương mục thiếu hệ thống và ký hiệu rõ ràng.
- Phần bàn luận và kết luận từng phần còn thiếu hoặc chưa phản ánh rõ kết quả.
- Kết luận chung thường dài dòng, thiếu bám sát mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu.
Văn phong và ngôn từ sử dụng chưa phù hợp và chặt chẽ.
- Những kiến nghị chưa bám sát vấn đề rút ra từ kết luận để cần thiết quan tâm
vận dụng, bổ sung cải tiến trong thực tiễn.
- Một số công trình không chú ý các phần phụ lục liên quan. Đây là phần quan
trọng phản ánh rõ tính khách quan của nội dung và kết quả nghiên cứu thông qua các
số liệu thu được, các mẫu sử dụng và kế hoạch phương án trong quá trình nghiên cứu.
- Đối với sinh viên, hầu hết các em mới tập làm nghiên cứu khoa học, chưa đủ

kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên rất cần được sự quan tâm và hướng dẫn của
giảng viên một cách có trách nhiệm, có hệ thống và cụ thể để sinh viên nắm hiểu, đặc
biệt là biết cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp, đúng quy định để tự
xử lý và trình bày các vấn đề cụ thể từ lý luận đến thực tiễn. Nếu người thầy ít quan
tâm cụ thể và dễ giải đối với sinh viên thường dẫn đến hậu quả lười nhác, thiếu hiểu
biết, thiếu nghiêm túc và trung thực, luôn tìm cách đối phó, sao chép và chế tác thông
tin của người khác, của sách vở để đạt mục tiêu. Và như vậy, dù trực tiếp hay gián tiếp
đều dẫn đến sản phẩm kém chất lượng, hình thành thói quen thiếu trách nhiệm với
nghề nghiệp và xã hội sau này.
Đặt vấn đề đến những mặt trái về hạn chế và sai sót trong hoạt động nghiên cứu
khoa học thực tế thường rất đa dạng và phức tạp, khó diễn đạt và không thể đánh giá
hết.
Trong bài viết ngắn gọn này, với trách nhiệm và nhãn quan bước đầu, tác giả
muốn trao đổi chính kiến và cách làm để góp phần nâng cao chất lượng các hoạt động
khoa học của nhà trường trong đó có việc hướng dẫn các thế hệ sinh viên học tập và
nghiên cứu đi vào thực tế và đạt hiệu quả.

6


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

NHÌN LẠI NHỮNG KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG 4 NĂM (THỜI ĐIỂM 2008-2011)
Ths. Phan Thị Dịch
Phòng QLKH&HTQT
Trường Đại học TDTT Đà Nẵng được nâng cấp thành trường Đại học đến nay
đã được 5 năm. Trong 5 năm qua với chức năng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
TDTT có trình độ Đại học, sau đại học, cao đẳng, trung cấp và tổ chức các hoạt động
khoa học, công nghệ tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên và cả nước, với 2 nhiệm

vụ cơ bản đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH). Tuy là một trường còn non trẻ và
có nhiều khó khăn nhưng với ý chí nỗ lực của mình nhà trường đã có nhiều cố gắng
vươn lên trong mọi lĩnh vực, nhằm nâng cao chất lượng công tác giảng dạy, đào tạo,
cũng như NCKH và đã đạt được một số kết quả thể hiện được tính ưu việt của một
trường đại diện cho khu vực miền Trung – Tây Nguyên.
Để có một chiến lược phát triển công tác khoa học, công nghệ một cách đồng
bộ, tạo tiền đề cho sự phát triển vươn lên của nhà trường, tháng 6 năm 2011, Lãnh đạo
đã xây dựng “ Kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ giai đoạn 2011-2015 ”. Trong
đó đã chỉ rõ: Mục tiêu là tăng cường các hoạt động khoa học công nghệ trong các lĩnh
vực văn hóa gia đình, TDTT và du lịch, góp phần thực hiện chiến lược phát triển
ngành và chiến lược phát triển nhà trường đến năm 2020 “…nâng cao số lượng và
chất lượng nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc đổi mới
phương pháp dạy và học gắn việc đào tạo của nhà trường với thực tiễn và nhu cầu của
xã hội, đổi mới công tác quản lý, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý, đào tạo, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng mọi mặt, phấn đấu đưa Trường
trở thành một trong những trung tâm NCKH và ứng dụng công nghệ TDTT của Miền
Trung và Tây Nguyên”. Để đạt được mục tiêu trên, trong quy hoạch nhà trường cũng
đã đưa ra kế hoạch hoạt động chi tiết bao gồm nhiều nhiệm vụ và các giải pháp thực
hiện để triển khai ở từng giai đoạn. Một trong những giải pháp cơ bản là phát huy
mạnh mẽ nội lực của đội ngũ cán bộ cơ quan trong triển khai công tác NCKH và tích
cực phổ biến nguồn thông tin khoa học nhằm phục vụ cho các hoạt động, trước hết là
công tác đào tạo và NCKH của cơ quan.
Trong nội dung bài viết này, chúng tôi xin trình bày một số kết quả về hoạt
động khoa học của nhà trường đã đạt được trong 4 năm (2008-2011), trong công tác
triển khai nghiên cứu đề tài các cấp, tham gia công tác viết báo, tham luận, đưa thông
tin trong Nội san khoa học, Bản tin khoa học và các kỳ Hội nghị, Hội thảo (ở đây,

7



HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

chúng tôi không đề cập đến các công trình nghiên cứu của CB - GV đã và đang thực
hiện theo yêu cầu của các chương trình đào tạo Thạc sỹ và Tiến sỹ).
Trước hết, nhìn lại trong 4 năm gần đây, chúng ta có thể thấy rằng: nguồn cán
bộ khoa học của cơ quan đã có những phát triển nhanh, mạnh về số lượng: năm 2007
chúng ta mới chỉ có: 2 Tiến sỹ, 27 Thạc sỹ, 10 học viên Cao học; đến năm 2011 chúng
ta đã có: 5 Tiến sỹ, 20 NCS (13 NCS ngoài nước), trên 80 Thạc sỹ, 10 học viên Cao
học, nâng tổng số cán bộ khoa học có trình độ cao lên trên 90 người trên tổng số hơn
170 cán bộ trong cơ quan. Với lực lượng như vậy chúng ta thử tiến hành tìm hiểu kết
quả về hoạt động nghiên cứu khoa học đã đạt được trong những năm qua về công tác
NCKH (các công trình do Hội đồng Khoa học và Đào tạo Nhà trường xét duyệt).
1. Công tác Nghiên cứu khoa học:
Số lượng các đề tài NCKH trong 4 năm ( 2008 -2011) được thống kê trên bảng 1
Bảng 1: So sánh số lượng đề tài được triển khai với đề tài nghiệm thu đạt kết quả
Năm học
2007-2008
2008-2009
2009-2010
2010-2011

Đề tài được
triển khai
13
9
9
13

Đề tài được
nghiệm thu

12
8
8

Đề tài xin
gia hạn
1
1

Tỉ lệ Đề tài TK /
Đề tài NT
95,3 %
88,9 %
88,9 %

Qua bảng 1 cho thấy:
Trong tổng số 44 đề tài NCKH được hội đồng khoa học cho phép triển khai từ
năm 2008 đến 2011, số đề tài nghiên cứu từ năm 2008 - 2010 có 31 đề tài được triển
khai, trong số đó nhà trường đã nghiệm thu được 28 đề tài (trong đó có một đề tài cấp
bộ), đạt tỉ lệ 89,7 %. 3 đề tài bỏ chiếm tỷ lệ 9,66% và 1 đề tài nghiệm thu không đạt
yêu cầu chiếm tỷ lệ 3,22%. 13 đề tài cho phép triển khai năm học 2010 -2011 đã hoàn
thành kiểm tra tiến độ chuẩn bị nghiệm thu.
Về hướng nghiên cứu của các đề tài khoa học, qua thống kê, chúng tôi nhận
thấy các đề tài nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực liên quan đến công tác
giảng dạy trong nhà trường như (Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, một số
đề tài nghiên cứu nâng cao năng lực tổ chức trọng tài, xây dựng chỉ tiêu đánh giá kỹ
thuật và thể lực ở các môn thể thao, ứng dụng công nghệ vào hoạt động TDTT, Quản
lý học sinh sinh viên ….về các mảng khác như nghiên cứu về tâm, sinh lý, và QL hầu
như còn ít được nghiên cứu…). Các lĩnh vực nghiên cứu được tổng hợp trên bảng 2:


Bảng 2. Hướng nghiên cứu của các đề tài đã nghiệm thu và đang nghiên cứu
8


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

T
T

20072008
1

2

3

4
5
6

Giảng
dạy

Tổn
g

Số lượng đề tài

Hướng NC


Xây dựng chỉ tiêu KT, đánh giá

Ứng dụng các bài tập Nâng cao hiệu
quả học tập…. và phát triển thể lực…
Ứng dụng các phương pháp giảng dạy
và giải pháp phù hợp vào giảng dạy
các môn học
Nghiên cứu điều chỉnh nội dung kiểm
tra đánh giá kỹ năng chuyên môn các
môn thể thao ..
Xây dựng chương trình, tạo đề thi
Đánh giá thực trạng khả năng ứng
dụng các kiến thức đã học vào thực
tiễn
QLSV Đánh giá thực trạng và đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác quản lý sinh viên ……….
Các biện pháp quản lý hoạt động tự
học của sinh viên trong giai đoạn hiện
nay
Y sinh Nghiên cứu thực trạng chất lượng nước
nhằm cải tiến hiệu quả sử dụng hoá
chất và lưu lượng nước bổ sung cho bể
bơi
Các bài tập thúc đẩy quá trình hồi phục
trong tập luyện
Nghiên cứu chiết tách thảo dược chữa
chấn thương trong thể thao
TTQC Nc giải pháp phát triển phong trào tập
luyện môn bóng đá 5 người

QL Các giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ TDTT cơ sở các tỉnh Miền
Trung – Tây Nguyên
Tâm


20082009
1

4

1

4

1

1

1

20092010
1

20102011
4

37

5

1

2
4

2

1
4

1

1
2

1

1

4

1
1
1
1
1

Như vậy, qua 4 năm học, trong số đề tài được nghiệm thu có đến 83,25 % đề tài liên
quan đến công tác giảng dạy; chỉ có 16,75 % đề tài ở các lĩnh vực khác.
Điều này chứng tỏ sự đơn điệu, thiếu phong phú; tính khai phá, sáng tạo còn

hạn chế, chưa mạnh dạn trong việc triển khai những hướng mới.
Về chất lượng các công trình: việc đánh giá các công trình khoa học thông qua
xếp loại trên 4 cấp độ: Loại: Xuất sắc; Khá; Trung bình và Loại: không đạt yêu cầu.
9

4

1
1
1


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

(trong đó 3 loại : Xuất sắc, khá, trung bình là những công trình sau khi nghiệm thu sẽ
được đưa vào lưu hành trong Thư viện)
Với những cách đánh giá như vậy, kết quả của các công trình nghiên cứu đã
được tổng hợp trên bảng 3:
Bảng 3. Kết quả đánh giá xếp loại các công trình nghiên cứu khoa học
Năm nghiên
cứu
2007-2008
2008-2009
2009-2010
Tổng

Cấp nghiên
cứu
Đề tài CS
Đề tàiCS

Đề tài CS
Đề tài Bộ
Đề tài

Xuất sắc
1
1

Xếp loại
Khá
T. Bình
5
7
1
4
5
4
1
12
15

Kh. Đạt
1
1

Qua bảng 3 cho thấy, phần lớn các công trình được các cán bộ giảng viên
nghiên cứu đã được nghiệm thu trong 3 năm từ năm 2008 đến 2010 trong tổng số 28
đề tài nghiệm thu, đề tài xuất sắc chiếm 3,4%, trung bình chiếm 40,8%, đạt chiếm
51%, không đạt chiếm 3,4%
Về phong trào NCKH ở các đơn vị trong cơ quan:

Thực tế qua 4 năm học cho thấy, phong trào tham gia NCKH diễn ra chưa đồng
đều giữa các đơn vị trong cơ quan. Nhiều đơn vị tham gia tích cực, nhưng cũng có
nhiều đơn vị còn rất hạn chế. Kết quả thống kê phong trào NCKH trong các đơn vị
được thống kê trên bảng 4.
Như vậy qua kết quả tổng hợp về công tác NCKH trên bảng 4 cho thấy, phong
trào NCKH của nhà trường trong 4 năm qua đã được tất cả các đơn vị chức năng tham
gia, nhưng tỷ lệ đề tài và cán bộ giảng viên tham gia không đồng đều, các đề tài
nghiên cứu chỉ tập trung vào một số đơn vị như: Bộ môn Điền kinh, Bộ môn Thể dục Cờ vua, LLCB, Thể thao dưới nước, bóng đá- đá cầu, bộ môn LLCT và bộ môn
LLCN. Đây là những bộ môn tham gia tích cực nhất vào mảng nghiên cứu các đề tài.
Ngoài những đơn vị tiêu biểu đã nêu trên, các bộ phận còn lại việc tham gia còn rất
hạn chế. Công tác nghiên cứu cũng không đều, chỉ tập trung vào một số cán bộ giảng
viên thường xuyên nghiên cứu, số giảng viên trong 4 năm liền không tiến hành tham
gia NCKH vẫn còn nhiều.

Bảng 4. Thống kê tình hình tham gia công tác NCKH trong trường
TT

Đơn vị

Số lượng
10

Số lượt CBGV


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

1
2
3

4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

đề tài NC
5
4
4
4
4
3
3
2
2
2

1
1
1
1
1
1
1

Bm. Điền kinh
Bm. Thể dục-Cờ vua
Bm. Thể thao dưới nước
Bm. Lý luận cơ bản
Bm. Bóng đá - Đá cầu
Bm. Lý luận chính trị
Bm. Lý luận chuyên ngành
Bm. Bóng bàn
Bm. Y sinh
Bm. Võ – Bắn súng
Bm. Cầu lông – Quần vợt
Khoa SPTDTT&TTGT
Bm. Bóng rổ - Bóng ném
Bm. Bóng chuyền
Phòng QLKH&HTQT
Phòng CTCT
Ban Giám hiệu
Phòng Đào tạo
Khoa TC.SĐH
Phòng Thanh tra Khảo thí
Phòng Tài vụ


tham gia NC
13
12
10
11
7
8
7
6
9
3
3
4
3
1
2
1
4
1
1
1
1

Tỷ lệ cán bộ, giảng viên trong trường tham gia NCKH vẫn dừng ở mức rất
khiêm tốn với tỷ lệ 0,26 đề tài / CBGV. Về kết quả nghiên cứu trong số 28 đề tài đã
được nghiệm thu thì số đề tài của 6 bộ môn (Bộ môn Thể dục - Cờ vua, Điền kinh, Lý
luận cơ bản, Thể thao dưới nước, Bóng đá- đá cầu và bộ môn LLCN và LLCT) đã
chiếm 55,2%. Thêm nữa, một hiện tượng khá phổ biến trong việc triển khai công tác
NCKH ở các đơn vị là việc trễ hạn thường xuyên diễn ra, như việc nộp thuyết minh đề
tài, nộp các báo cáo khoa học, các sản phẩm đến hạn nghiệm thu theo hợp đồng…

(mặc dù Phòng QLKH&HTQT đã ra các thông báo từ rất sớm để các đơn vị chủ động
triển khai). Ngoài ra, cũng còn một số CB-GV chưa nắm vững các quy định hiện hành
về công tác NCKH nên đã gây nhiều khó khăn cho phòng chức năng khi triển khai
công việc.
* Như vậy qua việc phân tích những nội dung trên, chúng ta có thể thấy hiện
trạng công tác NCKH của nhà trường trong 4 năm học gần đây có những điểm nổi bật
sau:
- Số lượng các công trình được nghiệm thu đã tăng lên, tỷ lệ các công trình
hoàn thành so với tổng số các công trình được Hội đồng thông qua hàng năm đạt tỷ lệ
(88,8% - 90,36%).

11


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

- Hướng nghiên cứu của các đề tài cũng như các dạng đề tài đã được mở rộng
hơn nhưng vẫn còn nghèo nàn, chưa có tính đột phá, sáng tạo. Các đề tài phần lớn tập
trung phục vụ công tác giảng dạy là chính.
- Chất lượng các công trình nghiên cứu chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức khá Đạt yêu cầu (40,8 – 51%), đạt loại xuất sắc chỉ có 1 trong tổng số 28 đề tài (chiếm tỷ
lệ 3,4%), tuy nhiên vẫn còn tồn tại các công trình Yếu kém - chưa đạt yêu cầu.
- Phong trào NCKH trong cơ quan diễn ra chưa đồng đều, mới chỉ tập trung
chủ yếu ở một số đơn vị, cá nhân tích cực, chưa thực sự trở thành một phong trào thi
đua sôi nổi, làm động lực cho sự phát triển vươn lên của nhà trường.
2. Công tác phổ biến nguồn thông tin khoa học:
Các thông tin trên Nội san và Bản tin khoa học của các đơn vị trong cơ quan
được tổng hợp ở bảng 5 và 6
Bảng 5. Thống kê công tác tham gia viết bài đăng Nội san khoa học
TT
1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24

Đơn vị, bộ phận
Ban biên tập nội san
Ban Lãnh đạo
Phòng KHCN&HTQT
Bộ môn TD-CV
Bộ môn Y sinh

Khoa GDQP
Bộ môn CL-QV
Bộ môn LLCT
Phòng TC CB
Phòng Đào tạo
Phòng TTKT
Bộ môn LLCN
Bộ môn KHCB
Bộ môn Võ-Vật-BS
Bộ môn Điền kinh
Bộ môn BR-BN
Bộ môn TTDN
Phòng CTSV
Bộ môn BĐ-ĐC
Bộ môn BC
Bộ môn BB
Khoa SPTDTT&TTGT
Phòng HCQT
Phòng Tài vụ
Tổng số

Số lượng bài viết
19
46
58
49
5
2
15
24

3
8
8
21
20
9
19
6
6
20
12
2
2
1
1
1
357

12

Số lượng trang in
116
224
278
284
20
11
84
110
22

47
47
120
118
61
101
29
43
93
63
12
8
4
6
3
1904


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

Trong 4 năm trở lại đây, cùng với việc tổ chức các Hội thảo, Hội nghị khoa học
hàng năm, để có một diễn đàn cung cấp thông tin KHCN, trao đổi, đề xuất các ý kiến
về các vấn đề có liên quan đến các công tác của Nhà trường nói chung cũng như hoạt
động NCKH nói riêng, từ quý 2 năm 2007, Lãnh đạo Nhà trường đã cho phát hành Nội
san khoa học (hàng quý) và đến tháng 6 năm 2010 trường được phép phát hành Bản
tin khoa học. Tính đến thời điểm này đã phát hành được 23 kỳ nội san với 357 bài viết
trên tổng số 1904 trang in. Trong đó có 152 bài thông tin khoa học, 158 bài viết trao
đổi và bàn luận và 67 bài thông tin hoạt động. Về bản tin khoa học trong 6 số đã phát
hành với 41 bài viết với tổng số 208 trang. Trong đó có 17 bài thông tin về hoạt động
quản lý và đào tạo, 24 bài viết về hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công

nghệ. Việc ra đời của Nội san khoa học và bản tin khoa học đã phần nào thể hiện ý chí
quyết tâm của lãnh đạo nhà trường trong việc đẩy mạnh, khuyến khích động viên
phong trào NCKH trong cơ quan, đây sẽ là diễn đàn để CB-GV phát huy năng lực
chuyên môn cũng như thể hiện tinh thần say mê sáng tạo, chủ động, tích cực của mình
trong công tác NCKH. Kết quả phong trào tham gia viết bài được thống kê trên bảng 6
Bảng 6. Thống kê công tác tham gia viết bài đăng Bản tin khoa học
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
21

Đơn vị, bộ phận
Ban Lãnh đạo
Phòng KHCN&HTQT
Bộ môn TD-CV

Bộ môn Y Sinh
Bộ môn BĐ - ĐC
Bộ môn CL-QV
Bộ môn LL Mác-Lênin
Phòng TCCB
Bộ môn LLCN
Bộ môn KHCB
Bộ môn Võ-Vật-BS
Bộ môn Điền kinh
Bộ môn BR-BN
Bộ môn TTDN
Khoa TC - SĐH
Khoa GDQP
Đoàn Thanh niên
Phòng TTKT
Tổng số

Số lượng bài viết
6
4
1
2
3
3
7
1
2
2
1
1

1
1
2
3
1
41

Số lượng trang in
26
23
5
14
18
17
35
4
6
12
5
6
5
7
7
18
4
208

Qua bảng số liệu trên cho ta thấy hầu hết các đơn vị trong cơ quan đã tham gia
viết bài đăng nội san. Tuy nhiên, ở đây cũng thể hiện rõ sự mất cân đối. Cụ thể chỉ có
một số ít phòng, bộ môn tham gia tích cực, tính riêng số lượng bài viết/số lượng trang

in của 7 bộ phận chủ lực trong công tác phát hành Nội san khoa học hàng quý là Ban
13


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

biên tập, Ban Lãnh đạo, Phòng QLKH&HTQT, Bộ môn TD –CV, LLCT, KHCB và
bộ môn LLCN đã chiếm xấp xỉ 70% khối lượng của 23 kỳ nội san; ngoài ra một số
đơn vị cũng rất tích cực tham gia, có thể kể đến là Bộ môn ĐK, phòng CTSV và bộ
môn CL-QV; các đơn vị còn lại chủ yếu tham gia ở dạng cho có phong trào?! Qua kết
quả thống kê cho thấy Nội san khoa học hiện tại vẫn chỉ là diễn đàn riêng, nội bộ cho
một số bộ phận, cá nhân tích cực. Tương tự như vậy đối với bản tin khoa học và đào
tạo số lượng bài viết cũng vẫn chỉ tập chung chủ yếu ở các đơn vị, Ban lãnh đạo,
phòng QLKH&HTQT và bộ môn lý luận chính trị là chính. Đối với các kỳ Hội nghị,
hội thảo khoa học, số lượng CB-GV báo cáo tham luận, nộp bài đăng kỷ yếu cũng chỉ
ở mức giới hạn và thực tế những người tham gia cũng chính là những gương mặt quen
thuộc thường xuất hiện trong các kỳ Nội san và Bản tin khoa học hay trong các Hội
nghị nghiệm thu công trình NCKH với tư cách là nhà nghiên cứu.
Tóm lại, qua kết quả phong trào hoạt động khoa học đã được thống kê ở trên
cho thấy tỷ lệ cán bộ khoa học của nhà trường tăng nhanh nhưng chưa tương ứng với
kết quả hoạt động khoa học công nghệ. Tỷ lệ đề tài hàng năm trên tổng số cán bộ khoa
học còn quá ít, tính đến năm 2011 trong 4 năm tỷ lệ này mới chỉ đạt xấp xỉ 0,5 đề tài/
cán bộ khoa học đây là một điều cần phải suy nghĩ.
Với những tồn tại trên, ban Lãnh đạo, phòng chức năng, cùng toàn thể đội ngũ
CB-GV chúng ta cần tích cực tìm hiểu, để tìm ra các giải pháp thiết thực nhằm thúc
đẩy mạnh mẽ phong trào NCKH trong nhà trường, nhằm phục vụ tốt cho công tác
giảng dạy và đào tạo, củng cố và giữ vững thương hiệu của trường Đại học TDTT khu
vực miền Trung.

14



HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT ĐÀ NẴNG
Ths. Phan Anh Tuấn
Bộ môn Y sinh
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, trường Đại học TDTT Đà Nẵng luôn xem trọng và quan
tâm đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên của
trường. Công tác này được xem như là một nhiệm vụ then chốt để phát triển nhà
trường, một đảm bảo cho sự thành công trong đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo.
Từ sự quan tâm này, nhà trường đạt được nhiều kết quả từ việc tăng nhanh số lượng
giáo viên có trình độ sau đại học, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong đổi mới phương
pháp giảng dạy. Tuy nhiên, sự thay đổi này chỉ giúp giáo viên có tri thức mới thông
qua môi trường học tập chứ không phải tri thức đó có được trong nghiên cứu khoa học
(NCKH). Vốn tri thức gia tăng đó sẽ lạc hậu nếu chúng ta không tiếp tự học và
NCKH. Vì vậy, trong xã hội hiện nay bên cạnh việc học tập và giảng dạy, chúng ta cần
phải NCKH để nâng cao hiệu quả đào tạo và nghiên cứu giải quyết những vấn đề
thuộc chuyên môn của xã hội đặt ra. Mặt khác, thông qua NCKH người giảng viên
giúp cho sinh viên tham gia NCKH và tự học tốt hơn. Tuy nhiên, với định hướng xây
dựng trường Đại học TDTT Đà Nẵng trở thành trường trọng điểm ở khu vực miền
Trung và Tây Nguyên về đào tạo cán bộ TDTT có trình độ chuyên môn cao, tập thể
lãnh đạo, giảng viên, cán bộ viên chức của trường đã đầu tư nhiều công sức nghiên
cứu tìm kiếm hướng đổi mới toàn diện trong đào tạo, đây là khâu quyết định cho sự
phát triển của trường. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hoạt động NCKH cũng là biện pháp
nâng cao chất đào tạo và đưa "thương hiệu" trường có khả năng cạnh tranh trong nước
và yêu cầu hội nhập với khu vực và quốc tế.
2. Tầm quan trọng của công tác NCKH ở trường Đại học

Hoạt động NCKH là một trong hai nhiệm vụ chính của giảng viên. Hoạt động
này có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng đối với giảng viên và nhà trường.
* Đối với giảng viên
+ Thông qua hoạt động NCKH mỗi cán bộ, giảng viên không những tiếp thu
được thông tin mới mà còn tiếp cận được với những phương pháp, tư duy mới. Từ đó,
mới có thể chủ động sáng tạo, cải tiến và đổi mới nội dung cũng như phương pháp
giảng dạy, kết hợp với hoạt động nghiên cứu là một quá trình tự học hỏi, nâng cao kiến
thức chuyên môn. Một quá trình tự hoàn thiện và nâng cao năng lực nhận thức và tư
duy, một trong những năng lực không thể thiếu được của bất cứ ai tham gia hoạt động
giảng dạy. Chất lượng từng bài giảng, từng giờ học qua đó cũng được nâng cao, quá

15


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

trình trao đổi và truyền đạt kiến thức mới từ người dạy đến người học sẽ đạt được hiệu
quả và chất lượng cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người học.
+ Với sự phát triển tốc độ chóng mặt của khoa học hiện nay, kiến thức rất
nhanh bị lạc hậu. Nếu giảng viên không tham gia NCKH thì sẽ khó có thể cập nhật
những kiến thức mới, bài giảng sẽ thiếu tính thực tiễn. Chỉ thông qua thực hiện đề tài
NCKH buộc giảng viên phải tìm tòi tài liệu, phải đọc rất nhiều để tìm ra những tri thức
mới.
+ Giảng viên phải tích cực tham gia NCKH để mở rộng, đào sâu và củng cố
kiến thức chuyên môn thì khi đứng trước sinh viên sẽ tự tin, thực hiện tốt bài giảng và
như vậy họ sẽ có uy tín đối với sinh viên, được sinh viên kính trọng. Từ đó tạo cho
giảng viên động lực, tâm huyết hơn và càng ra sức nâng cao trình độ chuyên môn để
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Đồng thời có thể giúp đỡ và hướng dẫn sinh viên
tham gia NCKH.
+ Hoạt động NCKH là một lĩnh vực rất tốt để giảng viên tự khẳng định mình.

Thật là khiếm khuyết nếu một giảng viên được đánh giá là có năng lực nhưng hàng
năm lại không có công trình khoa học nào. Vì năng lực của giảng viên được thể hiện
chủ yếu thông qua giảng dạy và NCKH. Qua tham gia NCKH, giảng viên không
những được khẳng định mà còn thấy được những hạn chế trong tri thức của mình để
kịp thời bổ sung.
* Đối với nhà trường
+ Giảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ là yếu tố quan trọng để làm rạng rỡ uy
tín, nâng tầm "thương hiệu" của trường. Điều đó giúp cho nhà trường tạo được niềm
tin đối với xã hội về chất lượng đào tạo. Công lao đó do nhiều bộ phận cùng góp sức
nhưng không thể không nói đến chất lượng giảng dạy của giảng viên. Giảng viên tích
cực tham gia NCKH là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy và tạo
"thương hiệu" cho nhà trường.
- Hoạt động kiểm định chất lượng là một yêu cầu bắt buộc đối với các trường
cao đẳng, đại học. NCKH là một tiêu chuẩn quan trọng trong mười tiêu chuẩn để kiểm
định chất lượng. Giai đoạn 2006 - 2010, do không làm tốt công tác NCKH nên có
những tiêu chí của tiêu chuẩn này đã không đạt được. Giai đoạn 2011- 2015 nếu không
có giải pháp phù hợp để thực hiện tốt thì sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá chất lượng
nhà trường.
- Hoạt động NCKH sẽ góp phần quan trọng để khẳng định uy tín của nhà
trường với các trường bạn trong toàn quốc. Mỗi bài viết tham gia hội thảo được đánh
giá cao, mỗi công trình NCKH ở các cấp, mỗi bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành
với tên cán bộ, giảng viên gắn với tên nhà trường là một lần danh tiếng của nhà trường
được thể hiện. Danh tiếng tốt của nhà trường, không phải là cái gì đó chung chung,
16


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

trừu tượng mà nó phải được thể hiện thông qua thành tích đóng góp của từng cán bộ,
giảng viên, sinh viên của nhà trường. Thành tích của cá nhân góp phần làm nên thành

tích của tập thể.
3. Thực trạng về công tác NCKH tại trường Đại học TDT Đà Nẵng trong
những năm qua
Công tác nghiên cứu khoa học tại trường Đại học TDTT được lãnh đạo nhà
trường rất mực quan tâm. Hàng năm, nhà trường đều tổ chức triển khai kế hoạch hoạt
động khoa học công nghệ, phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu phát triển của trường.
Nhà trường cũng đã ban hành qui trình nghiên cứu khoa học phù hợp với đặc điểm của
trường và ngành, tổ chức nhiều đợt tập huấn nâng cao kỹ năng NCKH cho cán bộ giáo
viên trong nhà trường. Nhà trường có chủ trương và luôn tạo điều kiện thuận lợi cho
cán bộ, giảng viên, nhân viên và người học tham gia nghiên cứu khoa học và phát huy
sáng kiến. Trong những năm qua cán bộ giảng viên cũng đã tích cực tham gia NCKH,
tuy nhiên số lượng đề tài nghiên cứu còn rất hạn chế. Từ năm 2007 đến nay, toàn
trường chỉ có 01 đề tài cấp Bộ, 29 đề tài cấp cơ sở đã được nghiệm thu, 21 đề tài đang
được triển khai và 03 đề tài không đạt. So với chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên,
qui mô và định hướng phát triển của nhà trường thì số lượng các đề tài NCKH còn rất
khiêm tốn và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nhà trường. Nhận xét một cách
khách quan, số lượng cán bộ giảng viên quan tâm đến NCKH còn quá ít, các đề tài
nghiên cứu thường có chất lượng không cao, không áp dụng được trong thực tiễn. Việc
NCKH chỉ mang tính chất ứng phó và được xem như là một hoạt động phong trào.
Chưa có nhiều giảng viên thực sự say mê với hoạt động NCKH – vốn được coi là một
trong những hoạt động chủ chốt của đào tạo đại học. Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến
thực trạng không mấy sáng sủa này? Khi phân tích nguyên nhân của những hạn chế
trong hoạt động NCKH, tôi nhận thấy những nguyên nhân hạn chế cơ bản sau:
+ Đa số cán bộ viên chức của nhà trường chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí và
chức năng của người giảng viên trong xã hội hiện đại là vừa là nhà giáo, vừa là nhà
khoa học.
+ Với qui mô phát triển của nhà Trường, số lượng sinh viên ngày càng động, số
cán bộ giảng viên đi học nhiều, dẫn đến tình trạng khối lượng công việc giảng dạy lớn
(thể hiện qua số lượng vượt giờ hằng năm) nên giảng viên không còn thời gian để tự
bồi dưỡng, cập nhật thông tin khoa học, tham gia nghiên cứu khoa học. Ngoài sự hạn

chế về thời gian, còn cả hạn chế về năng lực NCKH làm cho cán bộ giảng viên chỉ
muốn thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nhiệm vụ giảng dạy, không quan tâm đến công
tác NCKH.
+ Giảng viên các bộ môn tham gia nghiên cứu chưa đồng đều, các đề tài tập
trung chỉ ở một số giảng viên.
17


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

+ Ngân sách dành cho NCKH hoàn toàn mang tính chất tượng trưng, chưa được
chú trọng đúng mức, chưa góp phần giải quyết được như cầu "cơm áo gạo tiền" của
giảng viên nên họ dành nhiều thời gian cho việc giảng dạy.
+ Chính sách khuyến khích NCKH còn thiếu tính đồng bộ và chưa tạo được
động lực NCKH trong cán bộ giảng viên. Hội đồng khoa học thiếu những định hướng
NCKH hàng năm cho giảng viên.
+ Thư viện chưa thực hiện và phát huy hết vai trò cung cấp thông tin, là cầu nối
giữa giảng viên và hoạt động NCKH (do ở xa nơi học tập và giảng dạy).
4. Các giải pháp cho công tác NCKH của trường Đại học TDTT Đà Nẵng
NCKH là một trong hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong trường đại học, để
đáp ứng chiến lược phát triển về đào tạo của trường cũng như nhu cầu của xã hội thì
hoạt động NCKH phải được nâng lên tầm cao hơn nữa về số lượng và chất lượng
nghiên cứu. Để công tác NCKH thực sự đóng vai trò quan trọng, chuyển biến sâu về
mặt chất và lượng ở trường trong thời gian tới thì cần phải có bước chuyển mình mạnh
hơn nữa không những chỉ trong nhận thức, mà phải được chuyển hoá bằng hành động
từ mỗi cá nhân, mỗi đơn vị trong toàn trường.
Căn cứ trên thực tiễn hoạt động NCKH của nhà trường, đồng thời căn cứ theo
nội hàm tiêu chí xác định được từ quy định của Chuẩn cho hoạt động nghiên cứu khoa
học. Để hoạt động nghiên cứu khoa học đạt được như đúng vị trí và vai trò của nó đối
với việc nâng cao chất lượng đào tạo, tôi xin đề xuất một số biện pháp như sau:

+ Nâng cao nhận thức hơn nữa cho cán bộ giảng viên về vai trò, tầm quan trọng
của của hoạt động NCKH đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, để
mọi giảng viên thấy được việc giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ có quan hệ chặt
chẽ với nhau. NCKH có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát huy và bồi dưỡng
tiềm lực để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và tạo thương hiệu trường. Từ đó
từng cá nhân, tự giác, tích cực thực hiện tốt nhiệm vụ NCKH, phát huy được tính sáng
tạo và tiềm năng của từng người.
+ Tạo môi trường thuận lợi để cán bộ giảng viên thường xuyên tham gia đề
xuất và đăng ký đề tài các cấp. Đồng thời xây dựng và hình thành hệ thống cơ sở dữ
liệu thông tin khoa học và công nghệ để hỗ trợ trong việc cung cấp thông tin về các đề
tài NCKH, về các chuyên gia đầu ngành, về các định hướng NCKH, về quản lý các đề
tài khoa học.
+ Hình thành và xây dựng nhóm, các tập thể NCKH giữa các bộ môn để tham
gia nghiên cứu các đề tài cấp Bộ, cấp thành phố. Phát huy vai trò của bộ môn trong
việc thúc đẩy công tác NCKH. Các bộ môn cần xây dựng kế hoạch NCKH cho bộ
môn, tiến hành đôn đốc, theo dõi và phản biện, đánh giá, tổng hợp đề xuất nghiệm thu
các công trình, các giải pháp, sáng kiến của các cá nhân thuộc bộ môn mình.
18


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

+ Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ
giảng viên kiến thức về lý luận NCKH, về phản biện khoa học, chia sẻ kinh nghiệm và
học hỏi lẫn nhau trong NCKH của các giảng viên. Hội đồng khoa học của Trường cần
có những định hướng về nội dung, lĩnh vực nghiên cứu theo các hướng: nghiên cứu
ứng dụng trong công tác quản lý và phục vụ cho quá trình đào tạo; nghiên cứu ứng
dụng trực tiếp của quá trình đào tạo như: mục tiêu, chương trình, nội dung và phương
pháp dạy học…
+ Tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên đi tham quan học tập thực tế để cập nhật

kiến thức, nâng cao hiệu quả việc tìm kiếm tham khảo tài liệu, tích lũy kinh nghiệm và
kiến thức thực tế vận dụng vào công tác NCKH.
+ Đổi mới công tác tài chính cho hoạt động NCKH, tăng cường đầu tư kinh phí
để thực hiện nhiệm vụ NCKH các cấp đặc biệt là nguồn kinh phí từ ngân sách. Đầu tư
hệ thống trang thiết bị phục vụ nghiên cứu. Tăng cường hỗ trợ kinh phí cho các hoạt
động của nghiên cứu như tham gia, tổ chức hội nghị, hội thảo, công bố kết quả nghiên
cứu khoa học trong và ngoài nước.
+ Xây dựng chính sách khen thưởng và vinh danh các nhà khoa học, các giảng
viên có thành tích xuất sắc trong hoạt động NCKH. Xây dựng chính sách đãi ngộ, ưu
đãi, khuyến khích các nhà khoa học bên ngoài về hợp tác nghiên cứu và tạo điều kiện
cho giảng viên tham gia NCKH với các cơ sở đào tạo ngoài trường.
5. Kết luận
Qua quá trình phát triển của xã hội nói chung và giáo dục nói riêng, vị trí, vai
trò và chức năng của người giảng viên luôn được coi trọng. Những thay đổi trong
nhiệm vụ, chức năng được phân tích trên cho chúng ta thấy rõ quá trình giáo dục và
dạy học trong xã hội hiện đại không làm giảm vị trí, vai trò của người giảng viên mà
trái lại nó càng được nâng cao và khẳng định trong tiến trình phát triển của xã hội. Với
tư cách là một nhà giáo, tôi luôn nhận thức rõ chất lượng đào tạo ảnh hưởng thế nào
đến thương hiệu của nhà trường, ngoài ra nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích chính đáng của người học. Hơn thế nữa, chất lượng đào tạo còn ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của trường đối với chất lượng nguồn lực đào tạo. Một con đường
ngắn nhất để nâng cao chất lượng đó là nhận thức đúng và tham gia có hiệu quả vào
hoạt động NCKH tại đơn vị nói riêng cũng như các hoạt động nghiên cứu của nhà
trường nói chung.

19


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011


ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Ths. Lê Chí Hùng - CN. Nguyễn Văn Quý
BM. Thể thao dưới nước

Nâng cao chất lượng đào tạo là nhiệm vụ thường xuyên và cự kỳ quan trọng
của các trường, nó chính là uy tín, danh dự và sự tồn tại của một nhà trường trong bối
cảnh có sự cạnh tranh giữa các trường người học tự do lựa chọn các trường có uy tín,
chất lượng giáo dục. Nâng cao chất lượng đào tạo cũng khẳng định “thương hiệu” của
từng trường. Chất lượng đào tạo – Nghiên cứu khoa học được xem như là hai mặt của
một quá trình phát triển nhà trường. Hai mặt này thống nhất và tác động lẫn nhau, là
nền tảng quan trọng và cơ bản đảm bảo chất lượng giáo dục trong các trường.
Chính vì vậy trong những năm qua, Trường Đại Học TDTT Đà Nẵng không
ngừng nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học trong đội ngũ cán bộ giảng viên, ứng
dụng công nghệ thông tin vào công tác giáo dục, góp phần vào sự phát triển của nhà
trường. Hằng năm, nhà trường cũng đã chú trọng bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu
khoa học, nâng cao trình độ cho cán bộ giảng viên như: Mở lớp bồi dưỡng phương
pháp nghiên cứu khoa học TDTT, mời các GS nước ngoài về bồi dưỡng chuyên đề
TDTT. Những hoạt động tích cực trên đã làm chuyển biến tích cực hoạt động nghiên
cứu khoa học trong nhà trường, trình độ giảng viên cũng được nâng cao. Tuy nhiên,
kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học và đặc biệt là ứng dụng các đề tài nghiên cứu
khoa học vào trong công tác giảng dạy còn khiêm tốn so với yêu cầu dạy và học cũng
như phục vụ nhu cầu thực tiễn về sự phát triển chất lượng giáo dục.
Vì vậy để nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là vấn đề nghiên cứu khoa học
có chất lượng, gắn liền với thực tiễn. Trong thời gian tới, nhà trường không chỉ đổi
mới về phương pháp dạy học, công tác quản lý, tăng cường các điều kiện đảm bảo chất
lượng đào tạo mà cần có sự đổi mới mạnh mẽ có hiệu quả trong công tác nghiên cứu
khoa học. Để thực hiện được điều đó, chúng tôi đưa ra một số giải pháp cụ thể như
sau:
1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên của nhà trường về vai trò, tầm

quan trọng của NCKH đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường, để
mọi giảng viên nhận thấy công tác giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu khoa học.
Từ đó mọi người đầu tư thời gian, công sức vào hoạt động nghiên cứu khoa học.
2. Tận dụng nguồn nhân lực có trình độ và thâm niên công tác nghiên cứu
khoa học trong nhà trường để tổ chức các buổi bồi dưỡng chuyên đề cho giảng viên
20


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

trẻ, kinh nghiệm còn non kém trong việc nghiên cứu nhằm nâng cao đồng bộ cho mọi
giảng viên. Đồng thời có hướng dẫn cụ thể theo các hướng: nghiên cứu ứng dụng
trong công tác quản lý, nghiên cứu ứng dụng trực tiếp vào quá trình đào tạo: nội dung,
mục tiêu, phương pháp phương tiện dạy học. Cụ thể tổ chức bồi dưỡng chuyên đề
Phương pháp nghiên cứu trong trường tối thiểu 3 tháng tổ chức 1 lần để cập nhật kiến
thức phương pháp nghiên cứu khoa học cho cán bộ giảng viên.
3. Phát huy vai trò của trợ lý khoa học bộ môn thúc đẩy công tác nghiên cứu
khoa học ở các tổ bộ môn. Trợ lý khoa học bộ môn vào đầu các năm học cần xây dựng
kế hoạch nghiên cứu khoa học của tổ mình, tiến hành theo dõi đôn đốc thực hiện tốt kế
hoạch đề ra, đồng thời tổng hợp các công trình, giải pháp, sáng kiến ở các trường khác
nhằm phục vụ tốt cho việc nghiên cứu, học tập tại các bộ môn. Tăng cường các hoạt
động của hội đồng KH khoa, tổ chức nhiều buổi sinh hoạt học thuật ở cấp bộ môn,
hoặc cấp khoa nhằm đưa hoạt động NCKH vào nề nếp và thực sự góp phần nâng cao
nhận thức của giáo viên.
4. Thành lập CLB nghiên cứu khoa học trong nhà trường và tổ chức sinh hoạt
CLB đều đặn, tạo điều kiện giúp đỡ cho các giảng viên trẻ tham gia cùng làm đề tài
với những người có kinh nghiệm. Giảng viên ở các bộ môn khác nhau có thể cùng
nhau nghiên cứu các công trình, vấn đề liên quan đến các bộ môn khác nhau. Thúc đẩy
và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học
5. Đầu tư thích đáng cho hoạt động nghiên cứu khoa học để khuyến khích

động viên tính tích cực của cán bộ giáo viên tích cực tham gia hoạt động này. Khuyến
khích hoạt động nghiên cứu khoa học ở bộ môn với phương thức các công trình
nghiên cứu khoa học không được nghiệm thu ở hội đồng nhà trường thì có thể tiến
hành nghiên cứu đề tài ở cấp bộ môn, đối với loại đề tài này được tính giờ nghiên cứu
khoa học trong năm nhưng bằng ½ giờ đề tài cấp trường. Trợ lý khoa học và trưởng bộ
môn chịu trách nhiệm về việc theo dõi và nghiệm thu đề tài. Sau khi hoàn thành phải
báo cáo lên phòng QLKH&HTQT về kết quả bằng văn bản và đề tài.
6. Tạo điều kiện cho giảng viên đi tham quan học tập để nâng cao hiệu quả
việc tìm kiếm tham khảo tài liệu, tích lũy kinh nghiệm và kiến thức để vận dụng vào
công tác nghiên cứu. Tìm hiểu liên kết với các Sở, trung tâm đào tạo Vận động viên
các tỉnh để nghiên cứu các đề tài có tính ứng dụng theo đặt hàng của các đơn vị này.
7. Hợp tác với các trường Đại học khác để trao đổi thông tin nghiên cứu khoa
học làm tài liệu tham khảo cho cán bộ giảng viên trong trường. Thường xuyên kiểm
tra, theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, tổ chức
sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác nghiên cứu khoa học.
8. Tạo ra một môi trường nghiên cứu khoa học dân chủ, thân thiện và giúp đỡ
lẫn nhau. Thúc đẩy mọi người đều say mê nghiên cứu khoa học và được trả thù lao
21


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

xứng đáng. Tạo điều kiện về thời gian, kinh phí và các điều kiện cơ sở vật chất khác và
tạo điều kiện tối đa cho giáo viên cập nhật kiến thức, nâng cao hiệu quả.
Xu hướng của thế giới ngày nay là tiến tới toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, dựa
trên nền tảng sáng tạo khoa học và công nghệ. Nền giáo dục nước ta với chủ trương
“Nói không với đào tạo không đạt chuẩn và không theo nhu cầu xã hội”. Thì việc
nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong giáo dục tạo ra những bước đột phá
trong giáo dục và đào tạo được xem như là một trong những tiêu chí quan trọng để đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội và từng bước nâng cao sự phát triển nhà trường.

Nâng cao chất lượng vận động đào tạo mở rộng quy mô một cách hợp lý thì
Trường Đại học TDTT Đà Nẵng phải luôn hướng tới là tạo ra một tập thể có phong
trào giảng dạy và NCKH một cách tích cực; có một đội ngũ nhà giáo có phẩm chất
chính trị vững vàng, có tri thức, có tâm hồn và có lòng tự trọng, cố gắng đạt hiệu quả
cao trong mỗi công việc vì sự phát triển chung của Khoa, Bộ môn và Nhà trường.
Chúng tôi tin rằng với những kết quả đã đạt được, sự đồng tâm, nhiệt tình của đội ngũ
giảng viên với tinh thần luôn học hỏi sẽ phát triển Trường Đại học TDTT Đà Nẵng sẽ
ổn định và phát triển.

22


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

GIẢI PHÁP NHẰM THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO CÔNG TÁC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Ở BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Ths. Nguyễn Văn Vinh
BM. Lý luận chính trị
Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ là một trong những nhiệm vụ
của người giảng viên đã được nêu rõ trong quy định về làm việc đối với giảng viên
(Ban hành kèm theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 28 tháng 11 năm 2008
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Mặt khác, nếu như chức năng dạy học và giáo
dục là chức năng cơ bản thì nghiên cứu khoa học cũng là một chức năng quan trọng
của người giảng viên trong xã hội hiện đại. Sự tác động mạnh mẽ của khoa học công
nghệ đã và đang làm cho vốn tri thức và kinh nghiệm loài người biến đổi thường
xuyên và nhanh chóng, theo thống kê cứ 5 năm kho tàng tri thức của nhân loại lại tăng
lên gấp đôi. Thực tiễn đó không chỉ đòi hỏi người giảng viên phải thường xuyên học
hỏi, tiếp cận và nắm bắt chúng để mở rộng vốn tri thức và năng lực nghề nghiệp của
mình, mà còn yêu cầu người giảng viên với tư cách là một trí thức cần nghiên cứu
khoa học và tổng kết kinh nghiệm phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của mình. Hơn

nữa, chính công tác nghiên cứu khoa học của người giảng viên có tác động trực tiếp
đến quá trình nâng cao trình độ, năng lực nghề nghiệp của bản thân và trực tiếp nâng
cao chất lượng đào tạo.
Ý thức được chứng năng, nhiệm vụ của mình, trong nhiều năm qua, được sự
quan tâm, tạo điều kiện của Đảng ủy, Ban lãnh đạo nhà trường, đại đa số giảng viên
nói chung và giảng viên bộ môn Lý luận chính trị nói riêng đã rất nỗ lực để hoàn
thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của mình. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, chúng tôi đã gặp phải những khó khăn, trở
ngại từ việc xác định hướng nghiên cứu, dẫn đến một thực trạng là:
Trong những năm qua, đề tài nghiên cứu khoa học của các giảng viên lý luận
chính trị hầu như không có những đề tài thuộc về chuyên ngành các môn Lý luận
chính trị, liên quan đến môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Các
đề tài chủ yếu là về lĩnh vực đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy
học. Số lượng các đề tài trên là có hạn, bởi vì đổi mới phương pháp dạy học không
phải dễ dàng và có thể tiến hành liên tục mà phải có quá trình tích lũy nhiều năm.
Thực tế này cho thấy, đề tài nghiên cứu khoa học của giảng viên lý luận chính trị là rất
nghèo nàn, giảng viên trẻ rất khó thực hiện. Nếu không có sự thay đổi thì trong tương
lai gần, giảng viên lý luận chính trị sẽ khó có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học của mình.
23


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

Thực trạng trên bắt nguồn từ một trong những nguyên nhân cơ bản sau:
Trường ta là một trường năng khiếu, mọi hoạt động (trong đó có nghiên cứu
khoa học) tập trung cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ thể dục thể thao. Chính vì vậy, các
đề tài nghiên cứu khoa học cũng chủ yếu là tập trung đề cập đến những vấn đề thuộc
các chuyên ngành thể dục thể thao. Trên cơ sở đó, nhà trường đã ban hành các quy

định về nghiên cứu khoa học (từ quy trình cho đến các biểu mẫu, hình thức trình bày,
nội dung…) phù hợp với chuyên ngành. Trong khi đó, nghiên cứu khoa học các môn
lý luận chính trị thuộc về chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn, có hình thức, nội
dung khác, cho nên rất khó phù hợp với hướng nghiên cứu của trường ta. Cụ thể:
Về hình thức, quy định hiện hành của trường, một đề tài gồm các phần: Đặt
vấn đề, Chương 1: Tổng quan, Chương 2: Phương pháp nghiên cứu, Chương 3: Kết
quả nghiên cứu, bàn luận và phần kết luận. Còn đề tài khoa học xã hội nhân văn
thường được kết cấu là: Phần mở đầu, Chương 1, Chương 2, Chương… (chương
chính là các nội dung nghiên cứu do tác giả đặt) và phần kết luận.
Về nội dung: thường thì các đề tài về thể dục thể thao là những đề tài có
thực nghiệm, hàm lượng khoa học được đánh giá qua việc tiến hành thực nghiệm và
xử lý các số liệu thống kê; còn đề tài khoa học xã hội nhân văn thường không có
thực nghiệm, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích và tổng hợp tài liệu, kết
quả nghiên cứu là những luận giải mang tính khoa học của tác giả, cho nên việc
đánh giá hàm lượng khoa học thường trừu tượng, không định lượng được bằng số
liệu.
Sự khác biệt trên đây dẫn đến khó khăn cho giảng viên lý luận chính trị trong
nghiên cứu khoa học chuyên ngành. Thực tế, chúng tôi đã thực hiện vài đề tài chuyên
ngành nhưng trong quá trình nghiên cứu và khi bảo vệ đã gặp rất nhiều khó khăn, trở
ngại. Điều đó phần nào làm giảm động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên ký
luận chính trị. Đó là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến thực trạng nghiên cứu khoa học
còn hạn chế ở bộ môn Lý luận chính trị.
Để tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho giảng viên lý luận chính trị thực hiện
nhiệm vụ nghiên cứu khoa học một cách thuận lợi, xin đề xuất giải pháp như sau:
Thứ nhất, Nhà trường cần mở rộng hướng nghiên cứu, cho phép chúng tôi
được thực hiện các đề tài thuộc về chuyên ngành mình đảm nhiệm.
Theo quy định về làm việc đối với giảng viên (Ban hành kèm theo Quyết định
số 64/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 28 tháng 11 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo), một nhiệm vụ quan trọng của người giảng viên là nghiên cứu khoa học và
công nghệ để phục vụ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng, biên soạn giáo trình,

sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo, đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra,
đánh giá môn học. Theo đó, viết các tài liệu tham khảo trên cơ sở phân tích, tổng hợp
24


HỘI THẢO KHOA HỌC 2011

các nguồn tư liệu sẵn có, kết hợp với việc bổ sung những vấn đề mới mà thực tiễn đặt
ra, giúp giảng viên và sinh viên có nguồn tài liệu phong phú bên cạnh những tài liệu đã
ban hành (chủ yếu là các loại giáo trình) cũng chính là một hoạt động nghiên cứu khoa
học.
Trong công văn số 4417/BGDĐT-ĐH&SĐH về việc hướng dẫn học và thi các
môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục và đào tạo cũng
khuyến khích việc giảng viên biên soạn chuyên đề tài liệu bổ sung kiến thức các môn
khoc học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ CHí Minh theo hướng tích hợp và vận dụng vào
điều kiện cụ thể của từng ngành đào tạo, liên hệ thực tiễn của đất nước.
Bên cạnh đó, trong danh mục hướng nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội
và nhân văn được Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia tài trợ năm 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 04/QĐ-HĐQLQ ngày 05/5/ 2010 của Hội đồng
Quản lý Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia) đã xây dựng hướng nghiên
cứu cho từng chuyên ngành, cụ thể: Triết học: gồm 07 hướng: Tư tưởng triết học của
Mác và Ăngghen; Phép biện chứng của Lênin về chủ nghĩa xã hội; Tư tưởng triết học
và triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh; Sự hình thành và phát triển tư tưởng
triết học ở Việt Nam; Tư tưởng triết học Phương Đông, lịch sử và hiện đại; Tư tưởng
triết học Phương Tây, lịch sử và hiện đại; Những vấn đề đạo đức học và mỹ học. Kinh
tế học gồm 6 hướng; Sử học, khảo cố học, dân tộc học gồm 8 hướng, trong đó có
hướng nghên cứu tính khách quan và tính Đảng; Sử liệu học trong nghiên cứu lịch sử
Đảng…
Như vậy, có thể khẳng định, nghiên cứu khoa học với các dạng đề tài thuộc về
chuyên ngành mà mình đảm nhận là một nhiệm vụ của người giảng viên và đã được định

hướng cụ thể bởi các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương.
Thực tiễn dạy và học ở các trường đại học, cao đẳng cũng cho thấy, nếu được
tạo điều kiện, giảng viên các môn lý luận chính trị sẽ nghiên cứu khoa học với những
đề tài thuộc chuyên ngành mình đảm nhiệm thì sản phẩm chính là những nguồn tài liệu
phong phú, có tác dụng rất lớn đối với quá trình học tập của sinh viên (khi họ tiếp cận
nguồn tài liệu này), bởi lẽ đó là nguồn tài liệu tập trung, cô đọng, phù hợp đối tượng;
từ tài liệu này, sinh viên sẽ tiến hành tự học, tự nghiên cứu, thực hiện đề tài xêmina
thuận lợi, qua đó đào sâu, nâng cao những kiến thức đối với môn học.
Thứ hai, nếu cho phép các giảng viên lý luận chính trị được thực hiện các đề tài
thuộc chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn thì Nhà trường cần ban hành quy
định về hình thức, nội dung trình bày đề tài phù hợp.
Hình thức trình bày một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn gồm
các phần như sau:
PHẦN MỞ ĐẦU
25


×