Tải bản đầy đủ (.pdf) (220 trang)

Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 220 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

TỘI PHẠM HÓA, PHI TỘI PHẠM HÓA; HÌNH SỰ HÓA, PHI
HÌNH SỰ HÓA NHỮNG HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN
LÝ KINH TẾ TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 62.38.40.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Trần Văn Độ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCA

: Bộ Công an

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BTP



: Bộ Tư pháp

CTTP

: Cấu thành tội phạm

HSH

: Hình sự hóa

LHS

: Luật Hình sự

KTTT

: Kinh tế thị trường

PHSH

: Phi hình sự hóa

PLHS

: Pháp luật hình sự

PTPH

: Phi tội phạm hóa


SHCN

: Sở hữu công nghiệp

SHTT

: Sở hữu trí tuệ

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TPH

: Tội phạm hóa

TTCK

: Thị trường chứng khoán

VKSNDTC

: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

XPTTQLKT

: Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế



MỤC LỤC
Trang
01

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỘI PHẠM HÓA, PHI TỘI PHẠM

13

HÓA; HÌNH SỰ HÓA, PHI HÌNH SỰ HÓA HÀNH VI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ

1.1 Tội phạm hoá, phi tội phạm hoá; hình sự hoá, phi hình sự hoá -

13

những biện pháp để thực hiện chính sách hình sự
1.2 Những yếu tố quyết định phạm vi và mức độ tội phạm hóa, phi

43


tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa
1.3 Khái quát về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong

55

chính sách hình sự
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỘI PHẠM HÓA, PHI TỘI PHẠM HÓA;

63

HÌNH SỰ HÓA, PHI HÌNH SỰ HÓA HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ
QUẢN LÝ KINH TẾ

2.1 Tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự quản lý

63

kinh tế trong lập pháp hình sự
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm

89

trật tự quản lý kinh tế
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TỘI PHẠM HÓA,

133

PHI TỘI PHẠM HÓA; HÌNH SỰ HÓA, PHI HÌNH SỰ HÓA HÀNH VI
XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ


3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế trong

133

thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
3.2 Phương hướng tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi

142

hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

185


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng PLHS là
một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với bất kỳ Nhà nước nào
bởi chính sự tồn tại, phát triển của hệ thống những quan hệ xã hội trong lĩnh
vực này có ý nghĩa góp phần quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế đất nước.
Tội phạm trong lĩnh vực kinh tế nói chung, tội phạm XPTTQLKT nói
riêng đã và đang diễn biến hết sức phức tạp ở nước ta trong những năm gần
đây. Báo cáo tổng kết hằng năm của Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án

đều nhận định số lượng các vụ án cũng như bị can về các tội XPTTQLKT
không tăng đột biến nhưng phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Tội
phạm xảy ra phổ biến, nghiêm trọng trên các lĩnh vực, các ngành, nhất là
những ngành và lĩnh vực trọng điểm. Thực tế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến
trật tự quản lý kinh tế của đất nước, là rào cản tới sự ổn định, phát triển của
nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
hình tội phạm về kinh tế nói chung, tội XPTTQLKT nói riêng như do công
tác quản lý của các cơ quan chức năng, cơ chế quản lý, chính sách kinh tế của
Nhà nước còn sơ hở, thiếu sót. Công tác đấu tranh, xử lý tội phạm
XPTTQLKT còn nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Sự phối hợp giữa các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền còn hạn chế, chưa phát huy được sức mạnh
tổng hợp trong phòng ngừa, đấu tranh, xử lý… Đặc biệt, trong giải quyết một
số vụ án XPTTQLKT giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn mâu thuẫn, lúng
túng, không thống nhất về quan điểm khi định tội danh, khi xác định ranh giới
giữa tội phạm với không phải là tội phạm, cũng như khi quyết định hình phạt.
Về mặt lý luận, trong những năm qua PLHS đã liên tục được nghiên
cứu, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước
ta qua mỗi thời kỳ. Chính sách hình sự là quan điểm của Đảng và Nhà nước
đối với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm bằng nhiều biện pháp khác


2

nhau, trong đó biện pháp PLHS là cốt lõi nhằm đảm bảo an ninh chính trị và trật
tự, an toàn xã hội. Hoàn thiện chính sách hình sự nói chung, chính sách PLHS
nói riêng là quá trình diễn ra song song hai xu hướng TPH, HSH, và PTPH,
PHSH. Vì vậy, TPH, HSH, và PTPH, PHSH hành vi XPTTQLKT là những
biện pháp thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước đối với tội phạm kinh
tế, nội dung thể hiện quan điểm thu hẹp hay mở rộng phạm vi xử lý hình sự
thông qua hoạt động lập pháp.

Giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm kinh tế đang tiếp tục có nhiều
biến động phức tạp do những thay đổi về điều kiện khách quan của kinh tế xã hội. Thực tiễn cho thấy trong quá trình phát triển kinh tế, lợi dụng chính
sách khuyến khích sự năng động, sáng tạo của các chủ thể tham gia các quan
hệ kinh tế nên xuất hiện một số hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính nguy
hiểm rất lớn cho xã hội, có nơi, có lúc diễn biến nghiêm trọng nhưng chưa
được quy định trong BLHS là tội phạm. Ngược lại, cũng từ hoạt động thực
tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng cho thấy, một số hành vi không còn
mang tính nguy hiểm cho xã hội đến mức đáng kể, không còn phù hợp trong
điều kiện nền KTTT hiện nay, thể hiện nhiều năm qua rất ít xảy ra, thậm chí
chúng ta không xử lý về hình sự nên cần được nghiên cứu để PTPH. Hệ thống
hình phạt quy định trong các tội XPTTQLKT nói chung đã nghiêm khắc và
đáp ứng được mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội. Tuy nhiên quy
định về hình phạt trong một số tội phạm cụ thể còn mâu thuẫn với phần
chung. Mức chế tài quy định trong một số điều luật cụ thể còn thể hiện sự bất
hợp lý khi so sánh trong mối tương quan chung, chưa tương xứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, đặc biệt kể từ
sau sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới đã mở ra cho
chúng ta những thời cơ, thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, thách thức, khó
khăn và những hệ quả tiêu cực kéo theo là không nhỏ. Dự báo tình hình tội
phạm nói chung, tội phạm XPTTQLKT nói riêng trong thời gian tới còn tiếp
tục tăng, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi và gây khó khăn hơn trong
điều tra, xử lý tội phạm. Giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiếp


3

tục công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính nhằm xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN. Một trong những yêu cầu đặt ra đối với công
tác tư pháp được đề cập tại Nghị quyết số 08 Bộ Chính trị là: Công tác tư

pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội
phạm hình sự, bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ,
quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Chính vì vậy, đẩy mạnh
xây dựng pháp luật, giải thích, hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật là những công việc hết sức cần thiết. Nghị quyết số 49 - NQ/TW
ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 cũng đề ra một trong những phương hướng quan trọng, đó là hoàn
thiện chính sách PLHS phù hợp với nền KTTT định hướng XHCN, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về đấu tranh
phòng chống tội phạm, nghiên cứu quy định trong BLHS hiện hành, cũng như
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 về các tội
XPTTQLKT chúng tôi thấy còn những khoảng trống, bất cập về lý luận.
Vì vậy, nghiên cứu chính sách hình sự, lý luận về TPH, PTPH; HSH,
PHSH trong mối quan hệ với chính sách hình sự; nghiên cứu thực trạng TPH,
PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT; nghiên cứu quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế trong thời gian tới, từ đó xác định
cơ sở, yêu cầu, đề xuất phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH góp phần hoàn
thiện các quy định của PLHS về các tội XPTTQLKT là vấn đề có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn, góp phần hoàn thiện chính sách hình sự. Xuất phát từ những lý do
trên, tác giả chọn vấn đề: “Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi
hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chính sách hình sự, trong đó có vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH là nội
dung được nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước đề cập. Tội
phạm kinh tế nói chung, tội phạm XPTTQLKT nói riêng luôn là vấn đề mang
tính thời sự xuất phát từ tính “động” của nền kinh tế. Đặc biệt là tình hình



4

kinh tế - xã hội nước ta những năm qua với nhiều bước ngoặt lớn trong quan
điểm về chính sách của Nhà nước càng làm cho lĩnh vực này luôn được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà lý luận cũng như thực tiễn. Vì vậy, những
công trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm kinh tế nói chung
khá nhiều, có thể ở góc độ LHS hoặc tội phạm học. Tác giả sắp xếp theo từng
nhóm loại công trình có liên quan đến luận án như sau:
- Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về các tội
XPTTQLKT dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận
khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri
thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến
một số tài liệu cụ thể như:
Một số công trình của các nhà nghiên cứu Xô Viết trước đây như:
“Luật Hình sự và Xã hội học”, NXB Sách pháp lý, Matxcơva năm 1970 của
tác giả Ghersengiôn A.A; “Tội phạm học và chính sách hình sự”, NXB
Trường Đại học Tổng hợp Xvertlôv năm 1980 của Kôvalev M.I và Vôrônhin
Iu.A; “Những vấn đề xã hội học của Luật Hình sự”, NXB Khoa học,
Matxcơva năm 1983 của Babaev M.M; “Các căn cứ của điều cấm về hình
sự”, NXB Khoa học, Matxcơva năm 1978 của Kuđriavtxev... Những năm gần
đây, vấn đề này tiếp tục được nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Chẳng hạn
công trình: “Chính sách hình sự và tình trạng phạm tội: Những vấn đề và các
con đường giải quyết”, NXB Kiến thức, Matxcơva năm 1991 của Traađaev
X.G; “Nhiệm vụ của chính sách hình sự. Tội phạm - hiện tượng xã hội tiêu
cực” Matxcơva, Nxb Infra - M, 2008 của Franz Von Listz; “Luật Hình sự
Nga. Phần Chung” Matxcơva, năm 2005 do tác giả L.L. Kruglikov làm chủ
biên... Các công trình này nghiên cứu về chính sách hình sự dưới những góc
độ khác nhau như luật hình sự, tội phạm học, hoặc xã hội học. Vì vậy các tác
giả đã thể hiện những quan điểm khác nhau về chính sách hình sự, về mối
tương quan giữa chính sách hình sự với chính sách xã hội, chính sách phòng

ngừa tội phạm... Đặc biệt, vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH - biện pháp để
thực hiện chính sách hình sự được nghiên cứu trong một số công trình như:
“Luật hình sự liên bang nga. Tập bài giảng. Hai tập, Tập 1, Phần Chung”,


5

Máxcơva, 2004 của tác giả Na-u-mốp A.V bàn về khái niệm tội phạm hoá,
phi tội phạm hoá; cơ sở của hình sự hoá; “Căn cứ của biện pháp cấm mang
tính chất pháp lí hình sự: Tội phạm hoá và phi tội phạm hoá” của tác giả A.M.
Iakôvlép; “Xu hướng chính sách hình sự của Nga thời kì hậu Xô Viết”, Tóm
tắt luận án tiến sỹ luật học. Cheliabinsk, 2005 của tác giả Nhe-đốt-kô IU.V;
“Quan niệm về mô hình hoá pháp luật hình sự trong lĩnh vực kinh tế” của
Trung tâm nghiên cứu kinh tế và pháp luật, (trên cơ sở Uỷ thác của tổng
thống Liên bang Nga, Uỷ thác số 3169 ngày 28.11.2009), phân tích cơ sở của
việc tội phạm hoá nói chung, tội phạm hoá trong lĩnh vực kinh tế nói riêng và
nêu ra các nguyên tắc tội phạm hoá trong lĩnh vực quan hệ kinh tế...Có thể nói
đây là những công trình nghiên cứu lý luận về TPH, PTPH; HSH, PHSH
trong lĩnh vực kinh tế của các nhà nghiên cứu nước ngoài làm cơ sở để tác giả
tiếp cận, kế thừa trong luận án.
Một số công trình của các nhà nghiên cứu trong nước như:
Sách chuyên khảo: “Tội phạm học, Luật hình sự và Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam” của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS Đào Trí Úc
chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 1995, từ trang 109 đến trang
119 về chính sách hình sự, trong đó tác giả phân tích TPH, PTPH; HSH,
PHSH - những biện pháp để thực hiện chính sách hình sự;
Sách chuyên khảo: “Một số vấn đề cơ bản về chính sách hình sự dưới
ánh sáng Nghị quyết Đại hội IX của Đảng” của PGS.TS Hồ Trọng Ngũ, NXB
Chính trị Quốc gia, năm 2002. Tác giả công trình nghiên cứu về chính sách
hình sự trên quy mô rộng, trong đó phân tích quan điểm của Đảng và Nhà

nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đối với các tội phạm
về kinh tế ở mức độ khái quát;
Sách chuyên khảo Sau đại học: “Những vấn đề cơ bản trong khoa học
Luật Hình sự” của PGS.TSKH Lê Văn Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2005, từ trang 25 đến trang 140 tác giả nghiên cứu về Chính sách hình sự
trong đó có phân tích nội dung của quá trình TPH, PTPH; HSH, PHSH;
Sách chuyên khảo: “Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam” do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, NXB Tư Pháp, năm 2007. Đây là cuốn


6

sách nghiên cứu về chính sách hình sự, là tư liệu có giá trị khoa học và thực
tiễn, khắc họa những vấn đề lý luận cơ bản cho việc hoạch định chính sách
pháp luật và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên thực tế trong giai
đoạn tới.
Chuyên đề “Luật Hình sự của một số nước trên thế giới”, năm 1998 và
Chuyên đề “Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên
thế giới”, năm 2002 - tập thể tác giả, Bộ Tư pháp đã cung cấp thông tin về
luật hình sự của một số nước trên thế giới trong đó có tội phạm kinh tế. Đây
là cơ sở để tác giả nghiên cứu, đối chiếu, so sánh với luật pháp hình sự Việt
Nam về tội phạm kinh tế nói chung, tội XPTTQLKT nói riêng.
Ngoài ra, các tài liệu liên quan đến luận án còn là hệ thống giáo trình,
sách tham khảo, chuyên khảo, bình luận khoa học Bộ luật Hình sự đề cập đến
tội phạm kinh tế nói chung, tội XPTTQLKT nói riêng như: Giáo trình LHS
Việt Nam năm 2010 của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình LHS Việt
Nam năm 2003 của Trung tâm đào tạo từ xa Trường Đại học Huế; Giáo trình
LHS Việt Nam của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo trình LHS của
Học viện Cảnh sát nhân dân…Trong tất cả các giáo trình này đều dành những
chương viết về các tội XPTTQLKT trên cơ sở phân tích dấu hiệu pháp lý đặc

trưng, yếu tố CTTP cụ thể ở mức độ khái quát;
Sách tham khảo dành cho bậc đào tạo Sau Đại học của Trường Đại học
Luật Hà Nội “Luật hình sự Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn”
NXB Công an nhân dân, năm 1997, có bài “Hoàn thiện các quy định của LHS
về các tội phạm kinh tế trong điều kiện hiện nay” của TS Trần Văn Độ nghiên
cứu chuyên sâu về tội phạm kinh tế và tập trung phân tích cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn để sửa đổi, bổ sung BLHS 1985 về các tội phạm kinh tế;
Sách “Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999” của Viện
Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,
năm 2008 do tập thể tác giả biên soạn đã đề cập tới các tội XPTTQLKT tại
Chương 16. Đây là công trình nghiên cứu về cấu thành các tội phạm cụ thể
mang tính chất chuyên sâu dưới góc độ khoa học LHS, phân tích từng tội
danh với những yếu tố cấu thành về khách thể, mặt khách quan, chủ thể và


7

mặt chủ quan của tội phạm. Hoặc “Bình luận chuyên sâu (tập VI)” của tác giả
Đinh Văn Quế, NXB TP. HCM, năm 2004. Ngoài việc phân tích dấu hiệu
pháp lý các tội XPTTQLKT, lịch sử lập pháp của từng tội danh, tác giả của
công trình đã đưa ra, phân tích lý luận gắn với những ví dụ thực tế sinh động;
Sách chuyên khảo: “Tội phạm kinh tế thời mở cửa” do PGS.TS Nguyễn
Xuân Yêm, PGS.TS Nguyễn Hòa Bình làm chủ biên, NXB Công an nhân
dân, năm 2003. Đây là cuốn sách chuyên khảo viết về tội phạm kinh tế và
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm kinh tế (theo nghĩa rộng) trong điều
kiện đất nước hội nhập. Tuy nhiên các tác giả nghiên cứu về tội phạm kinh tế
dưới góc độ tội phạm học. Vì vậy, những nội dung chính được đề cập trong
cuốn sách này là tình hình, nguyên nhân và kết quả đấu tranh, phương hướng
và các giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm kinh tế trong các ngành, lĩnh
vực kinh tế trọng điểm; vai trò của cơ quan Công an và các cơ quan bảo vệ

pháp luật, các doanh nghiệp trong đấu tranh phòng chống tội phạm kinh tế.
- Thứ hai, là các công trình nghiên cứu thể hiện qua hệ thống các luận
án tiến sĩ. Đây là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn. Một số công trình liên quan đến đề tài như:
Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Minh Thanh: “Vi phạm pháp luật và
đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện
nay” (năm 2003). Đây là luận án tiến sĩ nghiên cứu về vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Các tội XPTTQLKT được tác giả nghiên
cứu ở mối liên hệ chung với tội phạm kinh tế, các vi phạm pháp luật kinh tế
khác. Đồng thời tác giả tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật nên không nghiên cứu sâu ở góc độ LHS;
Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thư: “Chính sách hình sự và việc thực
hiện chính sách hình sự ở nước ta” (năm 2004) nghiên cứu vấn đề lý luận về
chính sách hình sự, chính sách về tội phạm và hình phạt, nghiên cứu về chính
sách tổ chức đấu tranh phòng ngừa chống tội phạm. Chính sách về tội phạm
và hình phạt đối với các tội XPTTQLKT chỉ được tác giả đề cập rất khái quát
trong tổng thể các tội phạm của BLHS 1999;


8

Luận án Tiến sĩ của tác giả Mai Thế Bày: “Đấu tranh phòng chống các
tội XPTTQLKT” (năm 2006). Đây là đề tài nghiên cứu về các tội
XPTTQLKT dưới góc độ tội phạm học. Vì vậy nội dung luận án là phân tích
thực trạng, nguyên nhân và đưa ra các giải pháp phòng chống đối với những
hành vi XPTTQLKT;
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Nam: “TNHS đối với các tội
XPTTQLKT trong LHS Việt Nam” (năm 2007). Đây là đề tài nghiên cứu
TNHS đối với các tội XPTTQLKT, tác giả nghiên cứu quy định của PLHS
về các tội XPTTQLKT và thực tiễn xét xử nhóm tội phạm này tại Việt Nam

từ năm 2000 đến 2005. Gần với hướng và nội dung nghiên cứu của đề tài
nhất, song mục tiêu, phạm vi nghiên cứu của tác giả không trùng lắp với
luận án này.
- Thứ ba, các công trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết trên
các Tạp chí chuyên ngành, Hội nghị, Hội thảo. Đây là nguồn tài liệu phong
phú nhất. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu được đăng tải trên các
tạp chí chuyên ngành luật có uy tín như Tạp chí Tòa án, Tạp chí Luật học,
Tạp chí Khoa học pháp lý, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Dân chủ
pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Công an nhân dân…Có thể kể ra một vài
công trình ở dạng này như:
- Tội phạm kinh tế và vấn đề đấu tranh với nó trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta. PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học, số 6/1996.
- Một số suy nghĩ về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, PGS.TS Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 23/2004.
- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và sự cần thiết phải hoàn
thiện cơ chế đấu tranh chống tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Th.sĩ Mai
Bộ, Tạp chí Toà án nhân dân số 7/2004.
- Thực trạng xét xử các vụ án về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2004.


9

- Hình phạt áp dụng cho các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Những vướng mắc và giải pháp hoàn thiện, TS. Dương Tuyết Miên, Tạp chí
Tòa án nhân dân số 19/2004.
- Về vấn đề “HSH các quan hệ kinh tế, dân sự trong thực tiễn pháp lý ở
nước ta hiện nay”, Hồ Trọng Ngũ, Tạp chí Công an nhân dân, số 2/2004.
- Trách nhiệm hình sự đối với hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán hàng cấm, Th.sĩ Mai Bộ, Tòa án Quân sự Trung ương, Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 22/2006.
- Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và vấn đề truy tố đối với
các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, Th.s Trần Đại Thắng,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23/2006.
- Những đặc điểm pháp lý và chính sách xử lý đối với tội phạm
XPTTQLKT quy định trong BLHS 1999, Mai Thế Bày, Tạp chí Kiểm sát,
số 1/2007.
- Bàn về các quy định của BLHS về các tội XPTTQLKT và những vấn
đề cần hoàn thiện, Th.s Nguyễn Văn Trượng, Tòa án Quân sự Trung ương,
Tạp chí Kiểm sát, số 11, tháng 6/2008.
- Cần sửa đổi, bổ sung các tội XPTTQLKT cho phù hơp với thực tiễn
xét xử, Đinh Văn Quế, Chánh tòa Hình sự, TANDTC, Tạp chí Tòa án nhân
dân, kỳ 2 tháng 1/2009.
- Cần hoàn thiện quy định của BLHS về tình tiết định khung và hình
phạt đối với nhóm tội phạm XPTTQLKT, Th.s Nguyễn Văn Trượng, Tòa án
Quân sự Trung ương, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ 1, tháng 3/2009.
- Cơ sở thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức,
pháp nhân. PGS.TS Trần Văn Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2011...
Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu tội phạm cụ thể (chủ
yếu thể hiện nội dung lý luận, sau đó phân tích lý luận kết hợp thực tiễn, chỉ
ra bất cập và giải pháp hoàn thiện luật); hoặc nghiên cứu về TNHS, hình phạt
đối với các tội XPTTQLKT. Một số bài viết nghiên cứu về tội phạm kinh tế
dưới góc độ tội phạm học thể hiện qua việc phân tích tình hình tội phạm, xác
định nguyên nhân và đề xuất hướng phòng ngừa, đấu tranh.


10

Như vậy, hiện nay các công trình khoa học nghiên cứu về chính sách

hình sự nói chung, về các tội XPTTQLKT ở các góc độ khác nhau khá nhiều.
Quy định về tội phạm kinh tế luôn thể hiện tính thích ứng, phù hợp giữa sự
phát triển, tác động của kinh tế xã hội đối với pháp luật hình sự ở những giai
đoạn, những thời điểm nhất định. Chính vì vậy, mặc dù đã có nhiều công
trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề này, song vẫn còn những nội dung cần tiếp
tục nghiên cứu, nhất là khi Việt Nam đang và sẽ có những bước chuyển mình
quan trọng về kinh tế trong thời gian tới đây.
Quá trình thu thập, sưu tầm, nghiên cứu tài liệu để hoàn thiện đề tài, tác
giả nhận thấy hiện nay ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nhận thức về chính sách hình sự, luận án làm rõ lý luận cơ
bản về TPH, PTPH; HSH, PHSH, phân tích thực trạng TPH, PTPH; HSH,
PHSH hành vi XPTTQLKT, từ đó đề xuất phương hướng TPH, PTPH;
HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT, góp phần hoàn thiện quy định của BLHS
hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung
cơ bản sau:
- Lý luận cơ bản về chính sách hình sự, trong đó tập trung nghiên cứu
vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH.
- Thực trạng TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT
trong PLHS Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu nội dung này trong
BLHS hiện hành.
- Kết quả TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi XPTTQLKT thể hiện
trong thực tiễn áp dụng PLHS thời gian qua.
- Những vướng mắc, bất cập trong quy định và áp dụng pháp luật hình sự
đối với hành vi XPTTQLKT.



11

- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế trong điều kiện
hội nhập quốc tế và yêu cầu, phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi
XPTTQLKT thời gian tới góp phần hoàn thiện PLHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn TPH,
PTPH; HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT trong PLHS Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự, đề tài nghiên
cứu lý luận về TPH, PTPH; HSH, PHSH; thực trạng TPH, PTPH; HSH,
PHSH hành vi XPTTQLKT qua các giai đoạn lập pháp hình sự và kết quả
hoạt động này trong áp dụng PLHS; quan điểm, phương hướng TPH, PTPH;
HSH, PHSH những hành vi XPTTQLKT trong thời gian tới.
- Về thời gian: Thời gian khảo sát thực tiễn của đề tài là từ năm 2000
đến năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Chính sách hình sự về đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng qua các
thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước.
Trên cơ sở các tài liệu tham khảo, số liệu về các tội XPTTQLKT của
Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án cung cấp, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so
sánh, khảo sát thực tiễn…
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận án
- Đây là luận án Tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn
diện và chuyên sâu về vấn đề TPH, PTPH; HSH, PHSH những hành vi

XPTTQLKT trong khoa học Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể là:
+ Trên cơ sở nhận thức về chính sách hình sự, luận án phân tích nội
dung TPH, PTPH; HSH, PHSH trong mối liên hệ với chính sách hình sự và
khẳng định đây là những biện pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định các biện


12

pháp khác để thực hiện chính sách hình sự, là sự thể hiện chính sách hình sự
thông qua con đường lập pháp.
+ Luận án phân tích, làm rõ được thực trạng TPH, PTPH; HSH, PHSH
hành vi XPTTQLKT thể hiện qua lịch sử lập pháp đối với các tội phạm kinh
tế trong PLHS Việt Nam (từ BLHS 1985 trở về trước), tội phạm XPTTQLKT
(từ BLHS 1999 đến nay).
+ Luận án phân tích kết quả của TPH, PTPH; HSH, PHSH thông qua
việc đánh giá thực tiễn áp dụng PLHS đối với hành vi XPTTQLKT trong thời
gian từ năm 2000 đến năm 2010, chỉ ra những bất cập trong lập pháp, trong
áp dụng pháp luật khi xác định hành vi phạm tội cũng như hệ thống chế tài
đối với những hành vi này.
+ Trên nền tảng chính sách phát triển kinh tế và yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm XPTTQLKT trong giai đoạn tới của Đảng và Nhà nước ta, luận
án xác định cơ sở, yêu cầu và phương hướng TPH, PTPH; HSH, PHSH hành vi
XPTTQLKT nhằm hoàn thiện PLHS về các tội XPTTQLKT.
- Với những đóng góp mới về mặt khoa học như trên, luận án có ý
nghĩa nhất định trong nghiên cứu lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Về lý
luận, kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên
cứu chuyên sâu, tài liệu tham khảo về các tội XPTTQLKT trong LHS Việt
Nam. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án với những phân tích, nhận
định đưa ra có thể giúp các nhà lập pháp tham khảo trong quá trình hoàn thiện
PLHS nói chung, hoàn thiện các tội XPTTQLKT nói riêng.

7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận án gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận cơ bản về tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự
hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Chương 2. Thực trạng tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi
hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Chương 3. Quan điểm và phương hướng tội phạm hóa, phi tội phạm
hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.


13

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỘI PHẠM HÓA, PHI TỘI PHẠM HÓA;
HÌNH SỰ HÓA, PHI HÌNH SỰ HÓA HÀNH VI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
1.1 Tội phạm hoá, phi tội phạm hoá; hình sự hoá, phi hình sự hoá những biện pháp để thực hiện chính sách hình sự
1.1.1 Nhận thức về chính sách hình sự
Trong hầu hết các ngôn ngữ, chính sách luôn đồng nghĩa với chính trị.
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, chính trị và chính sách là những từ có nghĩa rất
gần nhau, đều có chung một gốc “chính” để chỉ sự đúng đắn, sáng suốt. Chính
sách nói chung được hiểu là sách lược để thực hiện mục đích chính trị, đường
lối chính trị là sách lược chính trị. Chính sách trước hết là chính trị. Chính
sách bao giờ cũng mang tính mục tiêu chiến lược, sách lược của những người,
những lực lượng đề xướng, phản ánh tập trung quyền lợi giai cấp, đồng thời
phản ánh điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể khi đề ra nó.
Trong Tiếng Việt, chính trị và chính sách là hai khái niệm tuy rất gần
nhau nhưng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với nhau. Theo Đại từ điển
Tiếng Việt, chính trị là “những vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước hoặc

những hoạt động của giai cấp, chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền
điều hành Nhà nước…” [116, tr. 369]. Còn theo Từ điển Luật học, “chính trị
là toàn bộ những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp,
giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính
quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc
của Nhà nước; sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của Nhà nước. Chính trị liên quan đến quyền lợi của giai cấp và Nhà
nước…Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chính trị
trước hết là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lý
của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội” [26, tr.141]. Còn chính sách là “chủ trương và các biện


14

pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã
hội…” [116, tr. 368].
Kể từ khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta luôn coi pháp
luật là một công cụ sắc bén trong xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ và
củng cố các quan hệ xã hội. Toàn bộ công tác xây dựng pháp luật, áp dụng và
thi hành pháp luật cũng như giáo dục, tuyên truyền pháp luật đều được tiến
hành trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng. Đường lối đó thể hiện ý chí
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện
và tổ chức thực hiện pháp luật trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay được tiến hành trước hết trên nền tảng chính sách pháp
luật phù hợp. Vì vậy, chính sách pháp luật được hiểu là tổng thể các đường
hướng, các hình thức, nhiệm vụ, nội dung và mục đích hoạt động của Nhà
nước trong việc xây dựng, hoàn thiện và sử dụng pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Nói cách khác, đó là tổng thể những quan niệm, quan điểm
của Đảng cầm quyền về việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp

luật trong thực tiễn để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội.
Các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh tồn tại trên từng lĩnh vực
cụ thể và tương ứng với mỗi lĩnh vực là một chính sách pháp luật phù hợp
như chính sách pháp luật trên lĩnh vực dân sự; chính sách pháp luật trên lĩnh
vực hành chính nhà nước; chính sách pháp luật trên lĩnh vực kinh tế tài chính,
tín dụng, ngân hàng, chứng khoán; chính sách pháp luật trên lĩnh vực đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm...
Trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, với tư cách là một bộ
phận hợp thành không thể thiếu của chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, chính sách pháp luật có nội hàm là tổng hợp những nguyên tắc, đường
hướng cơ bản về xây dựng, hoàn thiện và sử dụng pháp luật, được hoạch định
nhằm tạo lập cơ sở đúng đắn cho việc xây dựng và sử dụng một cách có hiệu
quả các khả năng điều chỉnh của pháp luật, xác định một cách khoa học mô
hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan pháp luật, xây dựng ý thức pháp
luật cho cộng đồng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc
hoạch định chính sách pháp luật, xây dựng và hoàn thiện các chế định, các


15

thiết chế tổ chức pháp lý. Hệ thống pháp luật không ngừng được hoàn thiện,
ngày càng trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội.
Lý luận về chính sách hình sự là lý luận về sự kết hợp những nhân tố
chính trị vào trong các biện pháp pháp luật để đảm bảo tính hệ thống, sự nhất
quán của cơ chế bảo vệ và điều chỉnh bằng pháp luật các mối quan hệ xã hội
trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm phù hợp với bản
chất và mục đích của Nhà nước. Khái niệm chính sách hình sự đã được sử
dụng từ rất lâu, vào khoảng năm 1800 [119, tr. 862]. Đây là vấn đề luôn được
các Đảng cầm quyền, các Nhà nước với chế độ chính trị, xã hội khác nhau
quan tâm. Đảng cầm quyền khi đề ra các chính sách, đường lối của mình

trước hết phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp mà Đảng đó là hạt nhân lãnh
đạo. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng từ trước đến nay về lý
luận vẫn chưa có nhận thức chung thống nhất về khái niệm chính sách hình sự
cũng như chưa có tiếng nói chung về nội hàm của nó.
Ở Liên Xô trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu chính sách hình
sự dưới các góc độ như: chính trị học, xã hội học pháp luật, LHS, tội phạm
học… Ngày 26/3/1928, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
đã ban hành Nghị quyết “Về chính sách hình sự và thực trạng của nó trong thi
hành án hình sự” [103, tr. 320]. Mặc dù nghị quyết không đưa ra khái niệm và
nội hàm của chính sách hình sự nhưng bước đầu đã đề ra những định hướng
cơ bản liên quan đến việc thực hiện chính sách hình sự trong thi hành án hình
sự, đặt nền tảng quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề. Tuy nhiên, trong một
khoảng thời gian dài, vấn đề chính sách hình sự không được quan tâm nghiên
cứu. Mãi tới thập kỷ 60, nhiều công trình nghiên cứu về chính sách hình sự
của giới khoa học pháp lý hình sự và tội phạm học Xô Viết mới xuất hiện
rộng rãi. Quan điểm về chính sách hình sự được thể hiện ở các góc độ khác
nhau. Có quan điểm cho rằng: Chính sách hình sự bao gồm không chỉ những
biện pháp chuyên ngành (pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học, thi
hành án hình sự, điều tra hình sự) mà còn là những biện pháp mang tính xã
hội (về kinh tế, tư tưởng, y học…) [118, tr. 179]; Hoặc coi chính sách hình sự
là phương hướng hoạt động của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các


16

biện pháp chính trị - xã hội, kinh tế và soạn thảo các phương pháp tối ưu về
mặt pháp luật hình sự nhằm mục đích xóa bỏ tình trạng phạm tội [dẫn theo
30, tr. 32]; chính sách trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm không chỉ là
chính sách pháp luật hình sự mà còn bao gồm cả chính sách xét xử, chính
sách phòng ngừa xã hội các vi phạm pháp luật và chính sách cải tạo lao động

[122, tr. 223]. Dưới góc độ xã hội học, tội phạm học có quan điểm nhận định
chính sách phòng ngừa tội phạm là một dạng của chính sách xã hội trong việc
xóa bỏ tình trạng phạm tội, tồn tại độc lập bên cạnh chính sách hình sự. Các
phương pháp, phương tiện của chính sách hình sự và chính sách phòng ngừa
tội phạm ở trong sự xung đột nhất định, vì chính sách hình sự đấu tranh với
cái ác và trừng phạt cái ác, còn chính sách phòng ngừa tội phạm theo đuổi xu
thế hướng thiện [120, tr.12]; hay: chính sách hình sự là sự tác động một cách
có chiến lược và định hướng đến tội phạm, dựa trên việc nhận thức tình hình
và khuynh hướng thực tế của tội phạm, lấy các biện pháp pháp lý làm cơ sở
và với mục đích tối thiểu hóa mức độ tội phạm đến mức có thể [125, tr.
110]…Hiện nay, theo quan điểm của đa số các nhà nghiên cứu lý luận pháp
lý hình sự của Nga cho rằng: “chính sách hình sự - chiến lược và sách lược
đấu tranh chống tội phạm do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, gồm
có các biện pháp pháp lý hình sự cũng như các biện pháp tố tụng hình sự, tội
phạm học và những biện pháp khác nhằm hạn chế tội phạm, giảm thiệt hại
do tội phạm gây ra” [121]. Như vậy chính sách hình sự được hiểu là quan
điểm, tư tưởng chiến lược của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm
nhằm mục đích cuối cùng là ngăn ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm có hiệu
quả. Chính sách hình sự bao gồm các biện pháp pháp lý hình sự, tố tụng
hình sự và các biện pháp khác.
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, khoa học pháp lý hình sự và tội phạm
học là những ngành khoa học phát triển rất mạnh mẽ từ thập niên 60. Vấn đề
chính sách hình sự nói chung, chính sách về tội phạm và chính sách về trách
nhiệm hình sự được các nhà khoa học Đức dành sự quan tâm đặc biệt. Một số
nhà khoa học cho rằng, chính sách hình sự đồng nghĩa với chính sách phòng,
chống tội phạm hoặc chính sách về tội phạm, coi chính sách hình sự là chính


17


sách về PLHS [119, tr. 861]. Quan niệm như vậy về chính sách hình sự
không được thừa nhận một cách rộng rãi, bởi chính sách hình sự không thể
được hiện thực hóa chỉ trên cơ sở của LHS mà để cấu thành nó, ngoài chính
sách về PLHS còn có chính sách về pháp luật tố tụng hình sự, chính sách về
các thiết chế của tư pháp hình sự… đều là các bộ phận cấu thành của chính
sách hình sự.
Tại Việt Nam, vấn đề chính sách hình sự từ lâu đã thu hút được sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn.
Thuật ngữ “chính sách hình sự” xuất hiện trong khoa học pháp lý từ những
năm đầu của thập kỷ 90. Thời gian đầu chính sách hình sự được nhắc đến
trong khuôn khổ của khoa học LHS nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản,
quan trọng của Luật hình sự, thể hiện trong một số bài viết khoa học bằng
việc phát hiện, nêu vấn đề có tính chất phương pháp luận chung. Trong một
số Nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước ta đã chứa đựng
những nội dung của chính sách hình sự. Tuy nhiên, tất cả những văn bản này
chưa đề cập một cách cụ thể và có hệ thống nội hàm của chính sách hình sự.
Đến nay chính sách hình sự vẫn là vấn đề lý luận chưa hoàn toàn có sự thống
nhất trong khoa học pháp lý.
- Có quan điểm cho rằng chính sách pháp luật là chính sách xây dựng
và sử dụng pháp luật, và một trong những bộ phận quan trọng của chính sách
pháp luật là chính sách hình sự [104, tr. 120 - 121]. Xuất phát từ quy định tại
Điều 4 của BLHS, trách nhiệm đấu tranh phòng và chống tội phạm là trách
nhiệm đặc biệt của Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Đồng thời cũng
là trách nhiệm của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và của mọi
công dân. Công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm nói chung, tội phạm
nói riêng có nền tảng vững chắc là chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Vì vậy, việc đấu tranh nhằm phòng ngừa và chống tội phạm đòi hỏi phải có
nhiều hình thức và biện pháp, trong đó có những biện pháp cưỡng chế và
pháp lý của các cơ quan chuyên trách. Trên cơ sở đó tác giả cho rằng chính
sách hình sự là chính sách xây dựng và sử dụng PLHS. Chính sách hình sự là

một bộ phận quan trọng trong chính sách pháp luật, đồng thời là một bộ phận


18

của chính sách phòng và chống tội phạm. Đó là đường lối, chiến lược, sách
lược và những nguyên tắc do Nhà nước đề ra trong việc xây dựng và sử dụng
các biện pháp pháp lý hình sự để đấu tranh chống tội phạm.
- Quan điểm khác thì cho rằng, nghiên cứu chính sách hình sự phải bắt
đầu từ việc nghiên cứu chính sách xã hội nói chung. Khi nghiên cứu các vấn
đề của chính sách xã hội tác động đến an ninh xã hội thì chính sách hình sự
giữ một vị trí then chốt trong toàn bộ các chính sách bảo đảm an ninh xã hội
nhằm giải quyết các vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong đó chính
sách bảo đảm an ninh xã hội là một bộ phận của chính sách xã hội. Trong toàn
bộ chính sách bảo đảm an ninh xã hội thì chính sách hình sự đóng vai trò cốt
lõi [64, tr. 25]. Chính sách hình sự là toàn bộ những nguyên tắc, những
phương châm chỉ đạo và các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội phạm
nói chung, trong đó bằng các biện pháp pháp luật chỉ là một bộ phận. Phạm vi
của chính sách hình sự rất rộng, nó bao hàm toàn bộ những quan điểm về tội
phạm, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cũng như những phương châm,
nguyên tắc đấu tranh phòng chống được thể hiện trong xây dựng pháp luật về
hình sự, công tác điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo và giáo dục người phạm tội
[65, tr. 18]. Qua phân tích, tác giả của quan điểm này cho rằng: Chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta là chính sách xã hội trong lĩnh vực đời sống
chính trị - pháp lý, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng chiến lược, tổng
thể về tội phạm như một hiện tượng lịch sử xã hội của xã hội có giai cấp và về
những vấn đề cơ bản nhất (mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương pháp và
tổ chức lực lượng) bảo đảm cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu
quả trên tất cả các phương diện chính trị, xã hội, pháp lý và kinh tế được ghi
nhận trong các văn bản của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Trên cơ sở phân tích những thuộc tính và giá trị xã hội của chính sách
hình sự, khi đề cập đến tính pháp lý của chính sách hình sự tác giả cho rằng:
“chính sách hình sự được thể hiện rõ nét trong lập pháp hình sự hay cụ thể
hơn trong xây dựng các văn bản PLHS, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự.
Chính trên phương diện này chính sách hình sự đã trùng với chính sách xây
dựng PLHS, nên quan niệm “chính sách hình sự là một bộ phận của chính


19

sách pháp luật” là hợp lý [65, tr. 46].
Như vậy, theo quan điểm này, phạm vi cũng như nội hàm của chính
sách hình sự được hiểu rộng hơn. Bao gồm công tác phòng ngừa tội phạm,
khắc phục và loại trừ các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, công tác
xây dựng PLHS, công tác điều tra, truy tố và xét xử, cải tạo và giáo dục người
phạm tội. Chính sách hình sự là một nội dung của chính sách phòng ngừa tội
phạm. Chính sách phòng ngừa tội phạm là một bộ phận cấu thành nên chính
sách xã hội. Quan điểm này xuất phát từ nhận thức về sự thống nhất của toàn
bộ quá trình đấu tranh chống tội phạm, của việc quản lý quá trình đó trên một
nền tảng thống nhất. Song dưới góc độ hẹp, trên phương diện lập pháp, tác giả
cũng đồng nhất với quan điểm khẳng định chính sách hình sự là một bộ phận
của chính sách pháp luật, trong đó bao gồm chính sách xây dựng PLHS.
- Quan điểm khác cho rằng chính sách hình sự liên quan đến các chính
sách khác như chính sách phòng ngừa tội phạm, chính sách tố tụng hình sự,
chính sách pháp luật thi hành án hình sự nên nghiên cứu về chính sách hình
sự phải bắt đầu từ việc nghiên cứu hệ thống pháp luật về đấu tranh chống tội
phạm. Chính sách hình sự là một bộ phận của chính sách xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Chính sách hình sự
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền là một phần của chính sách xã
hội nói chung, đồng thời là chính sách pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình

sự nói riêng và bao gồm tổng thể bốn chính sách (chính sách phòng ngừa tội
phạm, chính sách PLHS, chính sách pháp luật tố tụng hình sự, chính sách
pháp luật thi hành án hình sự). Nói cách khác: “chính sách hình sự trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền là những phương hướng có tính chất chỉ
đạo, chiến lược của nhà nước trong lĩnh vực tội phạm và hình phạt nhằm xây
dựng, hoàn thiện PLHS, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án
hình sự cũng như thực tiễn áp dụng chúng, đồng thời soạn thảo và triển khai
các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm… và suy cho cùng chính sách
hình sự là chính sách đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm biến các nguyên
tắc chung của nhà nước pháp quyền vào thực tế cuộc sống” [30, tr. 35].
Qua một số quan điểm trên cho thấy các nhà khoa học đã nghiên cứu


20

chính sách hình sự từ nhiều góc độ với cách nhìn nhận khác nhau. Mỗi quan
điểm đều thể hiện cơ sở khoa học, thực tiễn và tính đúng đắn của nó.
Chúng tôi cho rằng mục tiêu quan trọng nhất của chính sách pháp luật
trong bất kỳ nhà nước nào cũng là bảo vệ chế độ chính trị - xã hội hiện hành,
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội phù hợp với lợi
ích của giai cấp thống trị. Một trong những nhiệm vụ để thực hiện được mục
tiêu đó là đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bởi tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho giai cấp thống trị trong một xã hội nhất định, vì nó xâm hại
đến “điều kiện tồn tại” của giai cấp ấy, và “tội phạm là hành vi của cá nhân
riêng biệt đấu tranh chống lại mối quan hệ thống trị chứ không phải phát sinh
từ một ý muốn đơn thuần” [56, tr. 531]. Vì vậy nhiệm vụ đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm phải được xây dựng, triển khai trên cơ sở quan điểm
chính trị, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị xã hội. Từ đó, có thể hiểu:
Chính sách hình sự là chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, chứa
đựng các nguyên tắc, phương hướng, các hình thức và phương pháp đấu tranh

phòng ngừa và chống tội phạm, được thực hiện trên nền tảng pháp luật.
Trong hệ thống các biện pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm thì
chính sách hình sự giữ vị trí trung tâm bởi vì chính sách hình sự xác định
những giới hạn của hành vi phạm tội; tạo nên cơ sở của TNHS và quyết định
những mức độ trách nhiệm có thể đối với những tội phạm đã xảy ra, cũng
như xác định những điều kiện để không phải chịu TNHS. Chính sách hình sự
còn quy định giới hạn đối với hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm
đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, các tổ chức kinh tế, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
Là một hiện tượng xã hội đặc biệt, tội phạm có nguyên nhân và điều
kiện xã hội, thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm là nhiệm vụ của toàn xã hội, với nhiều
loại biện pháp khác nhau, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, tư
tưởng, đạo đức, truyền thống... Do đó, chính sách đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm phải là những định hướng tổng hợp liên quan đến nhiều chính


×