Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Vai trò của gia đình đối với sự phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở TP hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.15 KB, 193 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**********

HÀ VĂN TÁC

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TP. HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**********

HÀ VĂN TÁC

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TP. HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Chủ nghóa duy vật biện chứng
và chủ nghóa duy vật lòch sử
Mã số: 60.22.80.05


LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Đặng Hữu Toàn
2 . PGS.TS. Vũ Văn Gầu

TP. HỒ CHÍ MINH – 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án này là kết quả của quá trình tìm
tòi, nghiên cứu và phân tích các tài liệu của tôi. Các số liệu trong
luận án là trung thực. Công trình này chưa được công bố ở bất cứ
tài liệu nào. Nếu sai sự thật, tôi xin chòu hoàn toàn trách nhiệm
trước pháp luật.

Người cam kết

Hà Văn Tác


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………………………………………………………………………..1

Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH
TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC……………………………………………… 14

1.1. Lý luận chung về gia đình……………………………………………………………………….. 14
1.2. Nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình

công nghiệp hoá, hiện đại hóa ………………………………………………………………. 42
1.3. Vai trò của gia đình trong phát triển nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa……………………………………………………………............. 58
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM GIA ĐÌNH, THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ GIA
ĐÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA DO BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH
TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở TP. HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY……… ………………………………………………………………………………………...... 71

2.1. Đặc điểm gia đình TP. Hồ Chí Minh…………………………..………………….…. 71
2.1.1. Khái quát về TP. Hồ Chí Minh……………………………………….……. 71
2.1.2. Đặc điểm gia đình TP. Hồ Chí Minh………………………………..…….……. 73
2.2. Thực trạng phát huy vai trò gia đình trong phát triển nguồn
nhân lực ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay ……………………………………….…….. 78
2.2.1. Gia đình với việc thực hiện chức năng chăm sóc sức khoẻ
nguồn nhân lực………………………………………………………………………... 78
2.2.2. Gia đình với việc thực hiện chức năng nâng cao trình độ học
vấn cho các thành viên gia đình ................................................ 85
2.2.3. Gia đình với việc thực hiện chức năng phát hiện, bồi dưỡng
năng khiếu, đào tạo nhân tài……..……………………………………………...93
2.2.4. Gia đình với việc thực hiện chức năng đònh hướng, đào tạo
nghề nghiệp cho các thành viên gia đình………………………………..…96
2.2.5. Gia đình với việc thực hiện chức năng giáo dục đạo đức, tác
phong cho các thành viên gia đình ……………………………………..….102


2.3. Biến đổi gia đình và những thách thức đối với việc phát huy vai
trò gia đình trong phát triển nguồn nhân lực ở TP. Hồ Chí Minh
hiện nay …………………………………………………………………………………………………………. 107
2.3.1. Những biến đổi gia đình ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay …………… 107
2.3.2. Những thách thức đối với việc phát huy vai trò gia đình trong

phát triển nguồn nhân lực ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay ..........112
Chương 3. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở TP. HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ……………………………...128

3.1. Quan điêểm và phương hướng phát huy vai trò gia đình trong
phát triển nguồn nhân lực ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay………….128
3.1.1. Quan điêểm phát huy vai trò gia đình trong phát triển nguồn
nhân lực ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay………………………………………..…..128
3.1.2. Phương hướng phát huy vai trò gia đình trong phát triển nguồn
nhân lực ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay………………………………………….…137
3.2. Một số giải pháp cơ bản để phát huy vai trò gia đình trong phát
triển nguồn nhân ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay ……………………...… 140
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò gia đình trong phát triển nguồn
nhân lực .…………………………………………………………………….…………. 140
3.2.2. Gia tăng phát triển kinh tế gia đình…………………………………..… .144
3.2.3. Tăng cường phát triển văn hóa – xã hội ……………………………... 148
3.2.4. Đổi mới thể chế chính trò – xã hội Thành phố gắn với phát huy
vai trò gia đình……………………………………….……………………………….152
3.2.5. Tăng cường giáo dục, vận động mọi tầng lớp nhân dân Thành
phố tham gia xây dựng gia đình văn hóa………………………………...158
3.2.6. Tăng cường xây dựng mạng lưới dòch vụ; thực hiện chính sách
ưu tiên và trợ giúp xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp
tác quốc tế về gia đình…………………………………………………….……...160
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………………………………………………………...166
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN…………………………………………………………………………………………………………..….172
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………….….…174



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác đònh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghóa xã hội ở nước ta. Trên phạm vò toàn thế giới, sự phát triển
với tốc độ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại đã khiến cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam vừa có những thời cơ, thuận lợi, vừa phải đương đầu với những
thử thách, khó khăn. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi
chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, huy động mọi
nguồn lực cùng hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Nguồn lực quan trọng nhất đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tiến
trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nguồn nhân lực. Nguồn
nhân lực này được tạo ra từ các thiết chế xã hội hiện hành, trong đó thiết
chế có ảnh hưởng trực tiếp là gia đình. Bởi lẽ, với tư cách “tế bào của xã
hội”, “hạt nhân của xã hội” hay “xã hội thu nhỏ”, gia đình và việc “xây
dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, thật sự trở thành “tổ
ấm của mỗi người”, thành “tế bào lành mạnh của xã hội” chính là môi
trường quan trọng bậc nhất cho việc hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục
nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo
nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của gia đình trong phát triển
con người, phát triển nguồn nhân lực, các nhà sáng lập chủ nghóa MácLênin trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển học thuyết về


2

chủ nghóa xã hội khoa học, Chủ tòch Hồ Chí Minh trong suốt những

năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và Đảng ta trong những năm
tháng lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong
hơn 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa đã luôn nói tới vai trò quyết đònh của gia đình trong việc
phát triển nguồn lực con người – nguồn nhân lực cho công cuộc xây
dựng xã hội mới.
Có thể khẳng đònh, quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghóa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về gia đình
và vai trò của gia đình là cơ sở lý luận nền tảng, là phương pháp luận chủ
đạo để chúng ta xác đònh chủ trương, chính sách xây dựng gia đình “ấm
no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” và đưa ra những giải pháp hữu hiệu
cho việc phát huy vai trò của gia đình trong phát triển nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song,
để có thể vận dụng sáng tạo quan niệm, tư tưởng, quan điểm đó một cách
phù hợp với bối cảnh mới ở nước ta hiện nay, chúng ta cần phải có sự
nghiên cứu chuyên sâu với những nhạân thức mới, đúng đắn.

Trong thời đại ngày nay, cùng với sự nỗ lực về nhiều phương diện
của mỗi cá nhân, có thể khẳng đònh, gia đình, nhà trường và xã hội là
những tác nhân chủ yếu hình thành các phẩm chất, năng lực quy đònh bản
chất của người lao động, của nguồn nhân lực. Mỗi tác nhân này đều có
những ưu thế riêng của nó trong quá trình phát triển nguồn nhân lực, kể
từ khâu chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển thể lực đến phát hiện năng
khiếu, truyền thụ tri thức, nâng cao học vấn, bồi dưỡng nhân tài, hướng
nghiệp, dạy nghề, giáo dục đạo đức, tác phong, lối sống,…


3

Giữa các tác nhân gia đình, nhà trường và xã hội vừa có quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, vừa có sự độc lập tương đối của nó trong việc phát
triển nguồn nhân lực. Chính vì thế, sự kết hợp đồng bộ giữa các tác nhân
này sẽ tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực.
Ngược lại, nếu thiếu sự đồng bộ, đồng thuận giữa các tác nhân này có thể
sẽ dẫn đến sự phân lực, gây lãng phí xã hội, làm chậm quá trình phát
triển đất nước.
Kinh nghiệm thực tiễn của một số nước phát triển trên thế giới đã
cho chúng ta thấy chính sách đúng đắn để phát huy vai trò của gia đình
trong việc tổ chức quản lý và phát triển xã hội là một bí quyết quan trọng
dẫn đến thành công. Bởi lẽ, gia đình là một thiết chế xã hội có khả năng
rất lớn và hết sức đặc biệt trong quá trình hình thành và phát triển các
phẩm chất, năng lực hành động cho con người mà không một thiết chế xã
hội nào có thể thay thế được.
Thế nhưng, ở nước ta hiện nay, việc phát triển nguồn nhân lực cho
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chủ yếu dựa vào
ngành giáo dục và đào tạo, còn gia đình thì lại chưa được thực sự quan
tâm một cách đúng mức. Chúng ta không chỉ thiếu sự đònh hướng và chỉ
đạo chặt chẽ, mà còn thiếu cả các chính sách có hệ thống, mang tầm
chiến lược của Nhà nước nhằm tác động vào gia đình để giúp gia đình trở
thành một chủ thể tự giác trong việc phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu xã hội. Dường như, mọi hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho các
thành viên gia đình trở thành người hữu dụng chủ yếu vẫn do các gia
đình tiến hành một cách tự phát, tuỳ tiện theo kinh nghiệm của mình. Đã
có hiện tượng chạy theo những giá trò ảo, sai lệch trong việc đầu tư, chăm


4
sóc và giáo dục con cái trong một bộ phận gia đình hiện nay. Chẳng hạn,
họ cho con đi du học tự túc bằng mọi giá, bất chấp khả năng thực tế về

học tập của con; hay bằng mọi cách tạo áp lực buộc con theo học những
ngành thời thượng nhưng không phù hợp với năng lực, sở thích của con…
Một bộ phận không nhỏ, thậm chí có thể nói là nhiều gia đình chưa ý
thức được sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
sẽ cần những gì ở con cái họ và có lẽ cũng do đó mà họ chưa biết được
mình cần phải làm gì và làm như thế nào cho đúng trong việc đầu tư
chăm sóc, giáo dục con cái để con cái họ có được những phẩm chất, năng
lực cần thiết, đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
Thực tiễn những năm thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta đã cho thấy vấn đề nguồn nhân lực và phát
triển nguồn nhân lực vẫn còn nhiều bất cập về chất lượng và hiện đang là
một trong những vấn đề bức xúc, nan giải cho sự phát triển của Việt Nam
không chỉ trong những năm trước mắt, mà còn trong nhiều thập niên tới.
Việc nghiên cứu các khả năng, điều kiện, những vấn đề đặt ra
cũng như các phương hướng và giải pháp để phát huy vai trò của gia đình
trong việc phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là cách
để khai thác nguồn nội lực, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn xã hội vì sự
nghiệp phát triển đất nước.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Phát triển nguồn nhân
lực bảo đảm thực hiện thắng lợi tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi gia đình
và mỗi thành viên gia đình, của tất cả các đòa phương trong cả nước,


5
trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh – nơi có số dân đông và số lượng gia
đình nhiều vào bậc nhất so với cả nước - đóng vai trò hết sức quan trọng.

Cùng với tiến trình đổi mới của cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh

cũng đã trải qua hơn 20 năm đổi mới với nhiều thành tựu trong phát triển
kinh tế – xã hội nói chung, phát huy vai trò của gia đình trong việc phát
triển nguồn nhân lực nói riêng. Song, không phải vì thế mà việc nâng
cao và phát huy một cách có hiệu quả vai trò của gia đình đối với sự phát
triển nguồn nhân lực cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Thành phố này không còn những vấn đề bất cập, cần phải được
quan tâm nghiên cứu cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn để xác
đònh đúng đònh hướng và tìm ra những giải pháp mang tính khả thi, phù
hợp với thực tiễn phát triển của Thành phố này trước những yêu cầu mới.

Với tất cả những suy nghó trên, chúng tôi chọn vấn đề “Vai trò
của gia đình đối với sự phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở TP. Hồ Chí Minh” làm đề tài cho luận án
tiến só của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố cơ bản của
lực lượng sản xuất, yếu tố quyết đònh năng suất lao động xã hội và đại
diện cho năng lực xã hội. Do đó, bàn đến vò trí và vai trò của con người
trong sản xuất chính là đề cập đến nguồn nhân lực. Do tính chất quan
trọng đặc biệt này của nguồn nhân lực, của việc phát triển nguồn nhân
lực, trong những năm gần đây, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên
cứu về nguồn nhân lực để từ đó, đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân


6
lực nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Xung quanh vấn đề nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, đã có một số công
trình nghiên cứu tương đối quy mô, như: “Vấn đề con người trong sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Nghiên cứu xã hội học)” do
GS,TS. Phạm Minh Hạc (Chủ biên), Nxb Chính trò Quốc gia, Hà Nội,
1996; “ Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá” do
GS,TSKH. Vũ Hy Chương (Chủ biên), Nxb Chính trò Quốc gia, Hà Nội,
2002; “ Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo - kinh
nghiệm Đông Á” của tác giả Lê Thò Ái Lâm, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2003; “ Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS.
Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội, 2003; “Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam – lý luận và thực tiễn” do GS,TS. Nguyễn
Trọng Chuẩn, PGS,TS. Nguyễn Thế Nghóa và PGS,TS. Đặng Hữu Toàn
(Đồng chủ biên), Nxb Chính trò Quốc gia, Hà Nội, 2002; v.v..
Nhìn tổng thể, có thể nói, các công trình trên đây đều tập trung
làm rõ tầm quan trọng, tính tất yếu của việc phát triển nguồn nhân lực
trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời nêu
lên một cách khái quát những đặc điểm của nguồn nhân lực hiện nay ở
Việt Nam. Trong đó, nhiều công trình đã không chỉ nhấn mạnh các phẩm
chất đáng quý, những ưu điểm vốn có của con người Việt Nam, của
nguồn nhân lực, mà còn chỉ ra và phân tích một cách khá thấu đáo, sâu
sắc những hạn chế, yếu kém của con người Việt Nam, của nguồn nhân
lực, nhất là những hạn chế, yếu kém về năng lực, trình độ chuyên môn,


7
nghiệp vụ để từ đó, khẳng đònh cần đổi mới và phát triển giáo dục và đào
tạo, coi giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, là ngành đóng vai
trò quyết đònh trong việc phát triển nguồn nhân lực cho công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Song, trong những công trình này, các tác nhân khác có ảnh
hưởng lớn và trực tiếp đến sự phát triển con người, phát triển nguồn

nhân lực, đến số lượng, chất lượng cần có của nguồn nhân lực, như gia
đình thì lại chưa đề cập một cách chuyên sâu; và nếu có, như trong
công trình “Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”, thì vấn đề vai trò của gia đình trong phát triển nguồn nhân lực
cũng mới chỉ được đề cập đến một cách sơ lược, trên một phương diện
và theo một khía cạnh nào đó.
Ởû Việt Nam những năm gần đây cũng đã có một số công trình
nghiên cứu về gia đình. Các công trình này chủ yếu tập trung nghiên cứu
về giáo dục gia đình; về tình trạng bạo hành, ly hôn, về vai trò người phụ
nữ trong gia đình; về văn hoá, lối sống gia đình… Đặc biệt, gần đây nhất
là các công trình của Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ
nữ thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Các công trình này đã đề cập
đến gia đình một cách khá đầy đủ theo các phương diện đã nói trên.
Song, về đại thể có thể nói, vấn đề gia đình và vai trò của gia đình trong
phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước chủ yếu mới chỉ được xem xét từ góc độ xã hội học. Chúng ta có
thể kể đến các công trình, như: “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất
nước đổi mới” của GS. Lê Thi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; “Gia
đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hoá,


8
hiện đại hoá đất nước” của nhóm tác giả Đỗ Thò Bình, Lê Ngọc Văn,
Nguyễn Linh Khiếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; v.v..
Ngoài ra, về những vấn đề này, chúng ta còn có thể kể đến các
công trình, như: “Hôn nhân và gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh (nhận

diện và dự báo)” của tác giả Nguyễn Minh Hoà, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1998; “Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam” của
nhiều tác giả, do tác giả Tương Lai (Chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội, 1991; “Gia đình trong tấm gương xã hội học” của nhiều tác giả, do
tác giả Mai Quỳnh Nam (Chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002;
“Trẻ em - Gia đình - Xã hội” của nhiều tác giả, do tác giả Mai Quỳnh
Nam (Chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
Cùng với những công trình kể trên, ở Việt Nam trong những năm
gần đây cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vai trò của gia đình
đối với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
phát triển nguồn nhân lực. Các công trình này, khi tập trung nghiên cứu
về xây dựng gia đình văn hoá, về giáo dục gia đình; về tệ nạn bạo hành
trong gia đình và tình trạng gia tăng các vụ ly hôn; về vai trò người phụ
nữ trong gia đình; về văn hoá, lối sống gia đình… cũng đã ít nhiều xem
xét vai trò của gia đình đối với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và đô thò hoá; đối với vấn đề phát triển nguồn nhân lực
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đó chúng ta có thể
kể đến các công trình, như: “Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát
triển nhân cách trẻ em” của tác giả Võ Thò Cúc, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 1997; “Gia đình Việt Nam thời mở cửa” của tác giả Nguyễn Thò
Oanh, Nxb Trẻ, 1998; “Phát huy nguồn lực trí thức Việt Nam trong sự


9
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của TS. Đỗ Thò Thạch, Nxb Chính
trò Quốc gia, Hà Nội, 2005; “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của TS. Nguyễn Thanh, Nxb Chính
trò Quốc gia, Hà Nội, 2005.
Tuy nhiên, khi đề cập đến gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, các tác giả của những công trình đã kể trên chỉ đề
cập đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá như là bối cảnh làm chuyển biến
gia đình về cấu trúc, chức năng, chứ chưa đề cập đến những nhu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự đáp ứng của gia đình đối

với các nhu cầu đó ra sao. Thêm nữa, chưa có công trình nào trong số các
công trình đó vạch ra một cách đầy đủ, có hệ thống về những đóng góp
của gia đình cho việc phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay và sắp tới. Và,
hơn nữa, cũng chưa có công trình nào trong số các công trình đó đề xuất
và luận giải một cách thấu đáo phương hướng và các giải pháp để nâng
cao vai trò của gia đình trong phát triển nguồn nhân lực trên phạm vi cả
nước nói chung, ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Từ góc độ triết học, nghiên cứu về gia đình và xây dựng gia đình
trên phạm vi cả nước nói chung, ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
trong khuôn khổ của một Luận án Tiến só, ở nước ta trong những năm
gần đây, cũng đã được một số nghiên cứu sinh lựa chọn, thực hiện. Trong
số những Luận án Tiến só đã được bảo vệ về đề tài này, chúng ta có thể
kể đến Luận án của nghiên cứu sinh Nguyễn Tiến Vững (2005) và Luận
án của nghiên cứu sinh Phạm Lê Quang (2010).


10
Trong Luận án “Gia đình trong quá trình đô thò hoá ở Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay”, nghiên cứu sinh Nguyễn Tiến Vững đã đưa ra và
luậân giải sự biến đổi gia đình về quy mô, đặc điểm, vò trí và vai trò trước
những tác động của quá trình đô thò hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh trong
những năm đầu đổi mới và từ đó, đưa ra những giải pháp để xây dựng gia
đình bền vững, phù hợp và đáp ứng được quá trình đô thò hoá ngày một
gia tăng ở Thành phố này.
Còn trong Luận án “Xây dựng gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp đổi mới”, nghiên cứu sinh Phạm Lê Quang cũng đã đưa
ra và luận giải tính khả thi của một số giải pháp cho việc xây dựng gia
đình ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay trên cơ sở làm rõ lý luận chung
về gia đình và những yếu tố tác động đến gia đình ở Thành phố này trong

những năm đổi mới vừa qua.
Ngoài những Luận án kể trên, ở nước ta trong những năm gần đây,
chưa có một Luận án Tiến só triết học nào được thực hiện với đề tài “Vai
trò của gia đình đối với sự phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh”.

Như vậy, có thể nói, cho đến nay, vấn đề nghiên cứu trong đề tài
này vẫn còn là một vấn đề hoàn toàn mới, vừa có ý nghóa lý luận bức
thiết, vừa có ý nghóa thực tiễn thiết thực.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án này là làm rõ cơ sở lý luận về gia đình và vai
trò của gia đình đối với sự phát triển nguồn nhân lực; luận giải thực
trạng, các yếu tố ảnh hưởng và những vấn đề đang được đặt ra đối với
việc phát huy vai trò này của gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện


11
nay để trên cơ sở đó, xác đònh quan điểm, phương hướng và đề xuất một
số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung, Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ của luận án này là:
Thứ nhất, luận giải cơ sở lý luận về gia đình và vai trò của gia
đình đối với sự phát triển nguồn nhân lực qua việc phân tích nội hàm các
khái niệm: gia đình, chức năng gia đình, nguồn nhân lực, phát triển
nguồn nhân lực.
Thứ hai, phân tích thực trạng phát huy vai trò của gia đình đối với
việc phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, những yếu tố ảnh
hưởng và những vấn đề hiện đang được đặt ra.

Thứ ba, xác đònh quan điểm, phương hướng và đề xuất một số
giải pháp để nâng cao hơn nữa vai trò của gia đình đối với sự phát triển
nguồn nhân lực trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án này là quan niệm của các nhà sáng lập
chủ nghóa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về gia đình và vai trò của gia đình trong phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng gia đình và phát huy vai trò của gia đình trong phát triển nguồn
nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


12
Các phương pháp được sử dụng để thực hiện luận án này là: Phương
pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lòch sử, khái quát hoá lý luận và tổng
kết thực tiễn, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh và đối chiếu.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là những vấn đề lý luận và
thực tiễn xung quanh vai trò của gia đình, của nguồn nhân lực và phát
huy vai trò của gia đình trong phát triển nguồn nhân lực.
Phạm vi nghiên cứu của luận án này được giới hạn ở những kết quả
điều tra, khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng gia đình và phát huy vai
trò của gia đình trong phát triển nguồn nhân lực ở Thành phố Hồ Chí
Minh trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua.
6. Cái mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, trên cơ sở của lý thuyết tiếp cận hệ thống, luận án đã
trình bày một cách tương đối có hệ thống và luận giải một cách có căn cứ
các quan điểm lý luận về gia đình, khi đặt gia đình trong mối quan hệ với

phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ hai, khi xem xét gia đình với tư cách một thiết chế xã hội,
luận án đã chỉ ra tầm quan trọng, những khả năng to lớn của gia đình
trong phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, ở Việt Nam nói
chung.
Thứ ba, luận án đã khẳng đònh quan điểm, xác đònh phương hướng
và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy vai trò của gia
đình trong phát triển nguồn nhân lực cho tiến trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


13
7. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương diện khoa học, luận án đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận
và phương pháp luận cho việc nghiên cứu về gia đình và vai trò của gia
đình trong phát triển nguồn nhân lực nói chung, ở Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng.
Về phương diện thực tiễn, luận án đã làm rõ thực trạng biến đổi gia
đình và vai trò của gia đình trong phát triển nguồn nhân lực ở Thành phố
Hồ Chí Minh trong hơn 20 năm đổi mới, từ đó xác đònh đònh hướng và đề
xuất những giải pháp có tính khả thi đối với sự phát triển nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói
chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Nội dung và những kết quả đã
đạt được của luận án có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo
trong hoạch đònh chủ trương, chính sách xây dựng gia đình, phát triển
nguồn nhân lực ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, trên phạm vi cả
nước nói chung.
Luận án cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc
nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề có liên quan đến gia đình, đến

con người, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và vai trò quần chúng nhân dân trong lòch sử,…
8. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa
học đã công bố liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham
khảo, luận án gồm 3 chương, 8 tiết.


14
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH
TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1.1. Lý luận chung về gia đình

Gia đình, với các nhà sáng lập chủ nghóa Mác, là vấn đề mà
ngay từ đầu, đã được các ông dành cho một sự quan tâm đặc biệt.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của gia đình, nhất là với việc sản sinh ra
con người, chăm sóc, nuôi dưỡng, đào tạo và phát triển con người, qua
đó góp phần tạo ra nguồn lực xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển, các
ông đã dành không ít công sức để nghiên cứu, làm rõ vò trí, vai trò và
chức năng vốn có của gia đình trong đời sống xã hội. Mặc dù không
dành riêng một tác phẩm nào để chuyên bàn về gia đình, song trong
nhiều tác phẩm, kể cả trong những tác phẩm đầu tay, các ông đã dành
không ít trang để viết, để nói về gia đình.
Trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghóa Mác, gia đình là
tế bào của xã hội; gia đình tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản
xuất hàng hoá đến sản xuất ra đời sống văn hoá-tinh thần, từ việc tạo ra
con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người, phát triển nguồn lực xã
hội. Với quan niệm này, các ông đã xem xét gia đình với tư cách một xã

hội thu nhỏ, xem xét các hình thức lòch sử của gia đình, mối quan hệ giữa
gia đình với các thiết chế xã hội khác. Không chỉ thế, các ông còn nghiên
cứu gia đình trong quan hệ tính giao - vấn đề hôn nhân, và gia đình với tư
cách yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất trong lòch sử phát triển xã hội.


15
Trong một tác phẩm nổi tiếng – “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph.
Ăngghen đã cho rằng, quan hệ gia đình “tham dự ngay từ đầu vào quá
trình phát triển của lòch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là
quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái” [55, tr.41]. Với quan niệm
này, trong một tác phẩm mà có lẽ là duy nhất bàn về nguồn gốc của gia
đình trong mối quan hệ với chế độ tư hữu và nhà nước – “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Ph. Ăngghen còn cho rằng,
“những danh hiệu như cha con, anh em và chò em không phải chỉ đơn
thuần là những danh hiệu tôn kính, mà còn bao hàm những nghóa vụ
hoàn toàn rõ rệt và rất nghiêm túc của người ta đối với nhau và toàn bộ
những nghóa vụ đó hợp thành một bộ phận trọng yếu trong chế độ xã hội
của những người dân đó” [58, tr.56].
Như vậy, theo các nhà sáng lập chủ nghóa Mác, với tư cách tế bào
của xã hội, thành tố cấu thành lực lượng sản xuất, gia đình chính là cái
nôi nuôi dưỡng, bồi dưỡng và phát triển con người, ươm mầm tài năng và
qua đó, góp phần phát triển nguồn lực con người - nguồn nhân lực với tư
cách thành tố giữ vai trò quyết đònh đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và góp phần hoàn thiện cả quan hệ sản xuất.

Không chỉ thế, với quan niệm duy vật về lòch sử, khi xem xét về
gia đình với tư cách là tế bào của xã hội, thành tố cấu thành lực lượng
sản xuất và nghiên cứu mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, các nhà

sáng lập chủ nghóa Mác còn đặc biệt lưu ý rằng, mối quan hệ giữa gia
đình và xã hội, cũng như sự phát triển của mối quan hệ này, cần phải
được xem xét trên hai phương diện. Một mặt, là sự tác động của xã hội,


16
của đời sống xã hội đến sự hình thành và phát triển của gia đình, của
quan hệ gia đình, đến kết cấu, vò trí, vai trò và các chức năng của gia
đình trong đời sống xã hội. Mặt khác, là sự tác động của gia đình, của
quan hệ gia đình đến xã hội, đến đời sống xã hội. Và, khi cho rằng, nhân
tố quyết đònh trong lòch sử nhân loại, suy đến cùng, là sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống vật chất, các ông đã khẳng đònh vai trò quyết đònh của
các yếu tố kinh tế, xã hội, của đời sống kinh tế-xã hội đối với sự hình
thành và phát triển của gia đình.
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước”, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: Theo quan điểm duy vật, nhân tố
quyết đònh trong lòch sử, suy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời
sống trực tiếp (đời sống vật chất). Thế nhưng, bản thân sự sản xuất này
lại luôn bao gồm hai mặt. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực
phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những
vật phẩm tiêu dùng thiết yếu ấy; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con
người, là sự truyền nòi giống. Rằng, trong những trật tự xã hội mà ở đó,
các cộng đồng người của mỗi thời đại lòch sử nhất đònh, của mỗi quốc gia
nhất đònh đang sinh sống, một mặt, là do trình độ phát triển của lao động
và mặt khác, là do trình độ phát triển của gia đình [ Xem: 58, tr.44].
Khẳng đònh sự tồn tại và phát triển của xã hội luôn dựa trên hai cơ
sở nền tảng là tái sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra bản thân
con người, các nhà sáng lập chủ nghóa Mác còn cho rằng, việc tái sản
xuất ra con người, ra các thế hệ tương lai, một mặt, đáp ứng nhu cầu tất
yếu của xã hội, của sự phát triển xã hội; mặt khác, đáp ứng và thoả mãn

nhu cầu của các thành viên gia đình, bảo đảm niềm vui và hạnh phúc gia


17
đình và qua đó, bảo đảm cho chính nhu cầu phát triển gia đình. Do vậy,
theo các ông, chức năng tái sản xuất ra con người và cùng với nó là chức
năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái, tạo điều kiện để con cái và các thành
viên khác trong gia đình phát triển toàn diện, trởû thành những người lao
động có đủ những phẩm chất và năng lực mà xã hội đòi hỏi - đó là chức
năng hết sức quan trọng của gia đình. Chức năng này của gia đình, theo
Ph. Ăngghen, chỉ được chuyển giao cho xã hội khi các tư liệu sản xuất đã
chuyển thành tài sản chung của toàn xã hội, bởi khi đó, “gia đình cá thể
sẽ không còn là đơn vò kinh tế của xã hội nữa” và do vậy, “việc nuôi dạy
con cái trở thành công việc chung của xã hội” [58, tr.118]. Nghóa là, theo
Ph. Ăngghen, chỉ khi nào xã hội cộng sản chủ nghóa mà ở đó, chế độ gia
đình không còn lệ thuộc vào quan hệ sở hữu, không còn bò quan hệ sở
hữu chi phối nữa, được thiết lập, thì khi đó, chức năng nuôi dạy con cái,
phát triển con người mới không còn là chức năng của gia đình nữa, mới
trở thành chức năng của xã hội, còn trong xã hội xã hội chủ nghóa, chức
năng đó vẫn là chức năng quan trọng, không thể thay thế của gia đình.

Nhấn mạnh chức năng tái sản xuất ra con người, nuôi dưỡng, giáo
dục và phát triển nhân cách con người, phát triển nguồn lực xã hội của
gia đình, các nhà sáng lập chủ nghóa Mác còn khẳng đònh một chức năng
khác cũng hết sức quan trọng của gia đình – đó là chức năng tái sản xuất
ra của cải vật chất và những sản phẩm tinh thần cho xã hội, cho gia đình.
Theo các ông, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, gia đình có
thể trở thành một đơn vò kinh tế cơ sở, hoạt động độc lập và tự chủ, hoặc
tham gia với những mức độ nào đó vào các hoạt động kinh tế -xã hội của
xã hội. Để duy trì và phát triển gia đình, ngày càng nâng cao đời sống



18
gia đình, trong bất cứ điều kiện nào, gia đình cũng phải đảm bảo thoả
mãn cả nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho mỗi thành viên gia đình.
Thông qua đó, gia đình tham dự vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật
chất và những sản phẩm tinh thần cho xã hội. Không chỉ thế, khi trở
thành một đơn vò tiêu dùng, với những nhu cầu ngày càng cao và đa dạng
về của cải vật chất lẫn sản phẩm tinh thần, gia đình đã gián tiếp trở thành
yếu tố thúc đẩy tiến trình sản xuất vật chất và tinh thần của cả xã hội
phát triển. Thêm nữa, với chức năng tổ chức đời sống gia đình, quản lý
mọi hoạt động gia đình, bất cứ gia đình nào cũng cần đến việc xây dựng
môi trường văn hoá gia đình, bảo đảm sự cân bằng về tâm – sinh lý, thoả
mãn các nhu cầu tình cảm giữa các thành viên gia đình để củng cố sự
bền vững của gia đình và tạo điều kiện cho gia đình phát triển. Thông
qua đó, gia đình đã góp phần tạo nền tảng cho sự ổn đònh và phát triển
của xã hội.
Coi gia đình là một tế bào của xã hội, là thiết chế cơ sở đầu tiên
cho sự hình thành xã hội, xã hội được hình thành bởi nhiều gia đình, các
nhà sáng lập chủ nghóa Mác còn cho rằng, gia đình tồn tại ổn đònh, bền
vững và phát triển thì xã hội cũng tồn tại ổn đònh, bền vững và phát triển.
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình là thiết chế cơ sở đặc
thù, là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Bằng các hoạt động tổ chức đời
sống gia đình, mỗi cá nhân, mỗi gia đình đều có thể tiếp nhận, chòu sự
tác động và có thể phản ứng lại sự tác động của xã hội, của các tổ chức
và thiết chế xã hội khác, cũng như các chính sách xã hội do nhà nước ban
hành. Sự đồng thuận hay không đồng thuận với những tác động đó, gia
đình đã góp phần tạo nên sự đồng thuận hay không đồng thuận của cả



19
cộng đồng xã hội và qua đó, góp phần tạo nên sự ổn đònh hay không ổn
đònh, phát triển hay không phát triển của xã hội. Là một thiết chế xã hội,
gia đình luôn có tính độc lập tương đối của nó so với các thiết chế xã hội
khác, với xã hội. Gia đình có thể duy trì, bảo tồn và phát triển nhiều yếu
tố truyền thống trong quan hệ gia đình, trong đó có cả những yếu tố tiến
bộ, tích cực lẫn những yếu tố lạc hậu, tiêu cực. Với quan niệm này, khi
nhắc lại quan niệm của C.Mác về “sự giống nhau giữa thiết chế gia đình
với những hệ thống chính trò, pháp luật, tôn giáo và triết học”, trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Ph.
Ăngghen đã khẳng đònh rằng, mọi thiết chế xã hội khác đều có thể thay
đổi theo những điều kiện kinh tế khách quan, nhưng “chỉ khi nào gia
đình đã thay đổi hoàn toàn thì những hệ thống ấy mới hoàn toàn thay
đổi” [58, tr.57].
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ
nghóa Mác, giữa gia đình và xã hội luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng,
luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau; sự hình thành và phát triển của gia
đình luôn chòu sự quy đònh của tiến trình hình thành và phát triển xã hội,
của đời sống kinh tế- xã hội, song gia đình, sự hình thành và phát triển
của gia đình cũng có sự tác động trở lại đối với sự hình thành và phát
triển của xã hội, của đời sống kinh tế – xã hội. Với tư cách thiết chế cơ
sở đặc thù trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội và là một tế bào của
xã hội, là xã hội thu nhỏ, gia đình đã trở thành một thành tố không thể
thiếu và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội nói chung,
thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế – xã hội nói riêng. Với chức năng
hết sức quan trọng là tái sản xuất ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục


20
con cái, phát triển nhân cách con người, gia đình đã trở thành thành tố

góp phần trực tiếp và tham gia một cách tích cực, chủ động vào việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực – nguồn lực xã hội cho sự phát triển
xã hội và qua đó, thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy
cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng phát triển.
Là người đầu tiên đưa chủ nghóa Mác – Lênin vào Việt Nam, Chủ
tòch Hồ Chí Minh, ngay từ đầu, đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề gia đình,
tới việc xây dựng gia đình Việt Nam mới. Theo Người, “Gia đình có
nghóa cũ và mới, nghóa hẹp và nghóa rộng. “Gia” là nhà. “Đình” là sân.
Theo nghóa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp hòi trong cái nhà, cái sân.
Nghóa là chỉ lo cho cha mẹ, vợ con trong nhà mình ấm no, yên ổn, ngoài
ra ai nghèo khổ mặc ai. Như thế là ích kỷ, không tốt. Theo nghóa mới thì
gia đình rộng rãi hơn. Ví dụ, những người lao động trong nhà máy, trong
một cơ quan, trong một hợp tác xã… đều phải đoàn kết yêu thương nhau
như anh em một nhà” [67, tr.258]. Không chỉ xác đònh gia đình theo đúng
nghóa của nó, Người còn luôn khẳng đònh vai trò lớn lao của gia đình đối
với sự phát triển của xã hội. Người nhấn mạnh, việc chúng ta “Rất quan
tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của
xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghóa xã hội mà phải chú
ý hạt nhân cho tốt” [65, tr.523].
Đánh giá cao vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội,
Chủ tòch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu chúng ta phải quan tâm tới đời sống
của mỗi gia đình, của mỗi thành viên trong gia đình, trước hết là phụ nữ
và trẻ em. Với phụ nữ, Người yêu cầu phải giải phóng phụ nữ, giảm bớt


×