Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.13 KB, 115 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BĐTV
CNH-HĐH
DAPT
ĐTPT
Quỹ HTPT
KT-XH
NHPT
NHPTVN
NHTM
NSNN
ODA
TCTD
TDXK
TDĐT
TPCP
WTO

Bảo đảm tiền vay
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Dự án phát triển kinh tế/Dự án phát triển
Đầu tư phát triển
Quỹ hỗ trợ phát triển
Kinh tế - xã hội
Ngân hàng Phát triển
Ngân hàng Phát triển Việt Nam
Ngân hàng thương mại


Ngân sách Nhà nước
Hỗ trợ phát triển chính thức - Official Development Aids
Tổ chức tín dụng
Tín dụng xuất khẩu
Tín dụng đầu tư
Trái phiếu Chính phủ
Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ


4

MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết và lý do lựa chọn đề tài

Hoạt động tín dụng đầu tư (hay tín dụng đầu tư phát triển) của Nhà
nước đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Chính sách tín dụng
đầu tư của Nhà nước là một trong những chính sách tín dụng được thực hiện
khá phổ biến ở các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, thông qua việc

đẩy mạnh huy động các nguồn vốn và tập trung tài trợ có hiệu quả cho các dự
án đầu tư phù hợp với mục tiêu phát triển và thứ tự ưu tiên của Nhà nước
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển của quốc gia.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ hỗ trợ phát triển) là
một tổ chức tín dụng được thành lập để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư
và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Trong những năm qua, chính sách tín
dụng đầu tư của Nhà nước đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, đóng
góp hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất cho các ngành then chốt,
cũng như trong việc góp phần xoá đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa
các vùng miền.
Tính đến nay, Ngân hàng Phát triển Việt Nam đang quản lý cho vay
trên 3.970 dự án với số vốn theo hợp đồng tín dụng gần 146.000 tỷ đồng
(trong đó dư nợ tín dụng đầu tư đạt gần 86.000 tỷ đồng và dư nợ tín dụng xuất
khẩu 60.000 tỷ đồng), trong đó dư nợ các dự án nhóm A chiếm khoảng 45%.
Tổng dư nợ tín dụng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam giai đoạn 2006-2008
chiếm tỷ lệ trung bình 12% tín dụng toàn thị trường và tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp-xây dựng với tỷ lệ bình quân 78%/năm.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Ngân hàng Phát


5

triển Việt Nam trên cả nước nói chung và tại Sở giao dịch I nói riêng còn bộc
lộ những hạn chế nhất định. Hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam chưa thực sự đáp ứng được nhu
cầu ngày càng cao cho ĐTPT đối với các dự án thuộc phạm vi quản lý của Sở
giao dịch I.
Vì vậy, đề tài "Đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại
Sở giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam" được chọn nhằm phân tích,

đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam, góp phần cùng sự hoàn thiện
hoạt động của hệ thống Ngân hàng phát triển Việt Nam nói chung; đồng thời
thể hiện được vai trò công cụ tài chính tích cực của Sở giao dịch I - Ngân
hàng Phát triển Việt Nam nói riêng đối với công cuộc đổi mới và phát triển
kinh tế - xã hội.
2.

Mục đích nghiên cứu

Khái quát cơ sở lý luận khoa học về tín dụng đầu tư của Nhà nước được
thực hiện qua hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà
nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động tín
dụng đầu tư của Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2009.


6

4.


Phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình nghiên cứu, phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử được sử dụng, kết hợp sử dụng các phương pháp khác như
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, tổng hợp để phân tích thực
trạng hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng
Phát triển Việt Nam
Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư
của Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Phát triển Việt Nam.


7

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC

1.1.

Tín dụng đầu tư của Nhà nước
1

Khái niệm tín dụng đầu tư của Nhà nước

 Tín dụng:
“Tín dụng” xuất phát từ tiếng Latinh là Creditium có nghĩa là sự tin

tưởng, tín nhiệm; tiếng Anh là credit. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời
một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang
người sử dụng, sau một thời gian nhất định hoàn trả lại với một lượng lớn hơn.
Khái niệm tín dụng trên đây được biểu hiện qua 3 đặc điểm cơ bản: (i)
Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người
khác; (ii) Sự chuyển giao nói trên mang tính chất tạm thời, trong phạm vi một
thời hạn nhất định; (iii) Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người
sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị tăng thêm gọi là lợi tức.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng, tuy
nhiên nó vẫn giữ nguyên được những bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng.
Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc
có hoàn trả cả gốc và lãi theo một thời gian nhất định, giữa một bên là ngân
hàng và một bên là các chủ thể khác trong xã hội (cá nhân, các tổ chức kinh
tế, tổ chức chính trị xã hội, TCTD, các ngân hàng khác).
 Dự án phát triển kinh tế: [6]
Dự án là một tập hợp hoạt động đầu tư, các biện pháp về chính sách, tổ
chức và hoạt động khác được trù tính để thực hiện một mục tiêu (hoặc một
nhóm mục tiêu) phát triển nhất định trong một thời gian nhất định. Dự án phát


8

triển kinh tế (dự án phát triển - DAPT) là dự án trực tiếp tạo ra sản phẩm
chiến lược, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của ngành, vùng, thúc đẩy quá trình
thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc cơ cấu thu nhập của nhiều bộ phận dân cư. DAPT
thường có các đặc điểm sau đây:
- DAPT là những dự án lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của quốc gia: Các DAPT nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế của
quốc gia. DAPT có quy mô lớn, thời gian vận hành dài. Tại nhiều nước đang
phát triển, DAPT do Chính phủ quyết định và thực hiện, vì vậy nó mang tính

chất dự án công. Một số dự án do các tập đoàn kinh tế của Nhà nước hoặc tư
nhân thực hiện có sự hỗ trợ của Nhà nước. DAPT thực hiện thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế của quốc gia như chiến lược công nghiệp hoá (phát
triển các ngành công nghiệp, khu công nghiệp, đường giao thông...), phát
triển nông nghiệp và nông thôn (kiên cố hóa kênh mương, giao thông nông
thôn…), chiến lược xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu, chiến lược giảm
đói nghèo, bảo vệ môi trường…
- DAPT nhằm tới hai mục tiêu: Hiệu quả tài chính và hiệu quả KT-XH:
Các DAPT phải tạo ra thu nhập bù đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Do đó, các
dự án này phải được thiết kế trên cơ sở tính toán được hiệu quả tài chính trực
tiếp. Khác với dự án thương mại, DAPT phải thực hiện các mục tiêu xã hội
như phát triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế…Chủ đầu tư thường là
Nhà nước (hoặc các cơ quan phát triển) nên việc thực hiện đa mục tiêu là tất
yếu đối với DAPT. Các mục tiêu trong một số trường hợp lại mâu thuẫn với
nhau, hoặc làm giảm độ lớn của nhau. Vì vậy chủ đầu tư phải xác định nhóm
mục tiêu cơ bản, có tính thống nhất cao.
- DAPT nhận hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước: Do tầm quan trọng đặc biệt
đối với phát triển kinh tế, DAPT thường nhận hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước,


9

như được ngân sách cấp vốn, được vay ưu đãi, vay không cần tài sản đảm
bảo, được Chính phủ bảo lãnh (miễn phí) khi vay vốn, được đảm bảo vị thế
độc quyền trong thời gian nhất định:
Thứ nhất, sản phẩm của dự án áp dụng giá độc quyền (có thể cao hoặc
thấp hơn giá thị trường) để đảm bảo dự án có lãi, hoặc để các doanh nghiệp sử
dụng sản phẩm của dự án có chi phí đầu vào thấp. Thứ hai, được sử dụng
nguồn tài nguyên quý hiếm của quốc gia mà nhiều dự án thông thường khác
không được phép sử dụng. Thứ ba, vay với lãi suất thấp và thời gian dài, có

thể ân hạn. Đầu tư theo DAPT có quy mô lớn, Nhà nước chỉ cấp vốn một
phần, còn lại là vay các tổ chức tài chính phát triển. Lãi suất cho vay thấp thể
hiện hỗ trợ của Nhà nước cho các DAPT. Thứ tư, áp dụng tỷ giá chính thức
khác với tỷ giá phản ánh sự thiếu hụt ngoại tệ. Tỷ giá chính thức (do cơ quan
quản lý tiền tệ công bố) thường thấp hơn tỷ giá trên thị trường (áp dụng cho
các dự án thương mại). Chính sách này phản ánh sự ưu đãi của Nhà nước đối
với DAPT, thường phải sử dụng nhiều ngoại tệ để nhập thiết bị, công nghệ.
Thứ năm, được miễn thuế hoặc áp dụng mức thuế thấp. Những trợ cấp trên đã
chuyển giá thị trường thành giá ngầm (bù lỗ, kiểm soát giá, lãi suất và tỷ giá,
xác định tiền lương, trợ cấp). Điều này làm cho DAPT có lợi thế so sánh với
các dự án khác, cho phép thực hiện hiệu quả xã hội (mà sẽ làm giảm hiệu quả
tài chính) hoặc chống đỡ rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên những ưu đãi này đã gây khó
khăn trong việc đánh giá hiệu quả tài chính cũng như xã hội của dự án.
 Tín dụng đầu tư của Nhà nước:
Tín dụng đầu tư (hay tín dụng đầu tư phát triển) của Nhà nước là sự hỗ
trợ của Nhà nước thông qua hình thức tín dụng để tài trợ cho các dự án ĐTPT
thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế có tác động
trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền


10

vững được Nhà nước khuyến khích. Thông qua các mối quan hệ vay-trả, hoạt
động TDĐT của Nhà nước chính là một hình thức nhằm đáp ứng các nguồn
vốn cho ĐTPT; đồng thời, TDĐT của Nhà nước còn có tác dụng nâng cao
hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn cho ĐTPT. TDĐT
của Nhà nước là một công cụ của Chính phủ nhằm thực hiện mục tiêu phát
triển KT-XH trong từng thời kỳ nhất định theo định hướng của Nhà nước [8].
Cùng với tín dụng xuất khẩu của Nhà nước (cho vay ngắn hạn xuất
khẩu), TDĐT của Nhà nước là một trong hai chính sách lớn của Nhà nước.

Nguồn vốn TDĐT của Nhà nước ngoài NSNN cấp hàng năm còn được huy
động bằng nhiều hình thức khác nhau như phát hành trái phiếu, huy động tiền
gửi, vốn vay từ các tổ chức…, các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
2

Đặc điểm tín dụng đầu tư của Nhà nước

TDĐT của Nhà nước là hình thức tín dụng đặc biệt, không nhằm mục
đích kinh tế đơn thuần mà nó có những đặc điểm cơ bản sau:
Tổ chức tài chính làm nhiệm vụ TDĐT của Nhà nước là hệ thống cơ
quan chuyên môn của Nhà nước, hoạt động như một ngân hàng nhưng theo cơ
chế quản lý riêng, không chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước.
Về đối tượng: TDĐT của Nhà nước chỉ tập trung vào các dự án ĐTPT
thuộc một số ngành, lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh
tế quốc dân cả nước, hoặc một vùng và theo từng thời kỳ.
Nguyên tắc: chỉ tài trợ cho các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp,
có hiệu quả về KT-XH, phù hợp với quy hoạch và các mục tiêu ưu tiên trong
chiến lược phát triển KT-XH của quốc gia trong từng thời kỳ. Đồng thời, thực
hiện theo nguyên tắc không cạnh tranh với NHTM, không phân biệt các thành
phần kinh tế, phù hợp với nguyên tắc thị trường và các thông lệ quốc tế.


11

Về chủ thể: một chủ thể trong quan hệ TDĐT của Nhà nước luôn là
Nhà nước (NHPT - tổ chức được Nhà nước giao thực hiện), còn trong các
hình thức tín dụng khác thì không nhất thiết phải có chủ thể là Nhà nước.
Về quy mô, thời hạn: Do tập trung tài trợ cho các dự án ĐTPT nên hoạt
động TDĐT của Nhà nước thường có quy mô vốn lớn, thời hạn dài, thậm chí
có thể dài tới vài chục năm hoặc lâu hơn.

Các ưu đãi khác: cùng với lãi suất ưu đãi, trong hoạt động TDĐT của
Nhà nước, các điều kiện đảm bảo tiền vay cũng như các điều kiện tín dụng
khác thường thông thoáng hơn.
Hoạt động TDĐT của Nhà nước không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm
phục vụ cho yêu cầu quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Theo đó,
lãi suất cho vay thường là lãi suất ưu đãi do Nhà nước điều tiết phù hợp với
yêu cầu, đặc điểm cụ thể của đất nước, chủ trương khuyến khích đầu tư, phát
triển xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và theo thông lệ quốc tế.
Như vậy, TDĐT của Nhà nước là công cụ tài chính của Nhà nước
nhằm điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế tham gia đầu tư qua đó thực hiện các mục tiêu KT-XH của đất
nước. Sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế, chính trị và xã hội là bản chất
của TDĐT của Nhà nước.
Do bản chất và đặc thù riêng có của mình, TDĐT của Nhà nước có
nhiều điểm khác biệt so với tín dụng của các NHTM. Một số điểm khác biệt
căn bản được cụ thể hóa trong bảng sau:


12

So sánh TDĐT của Nhà nước và TDĐT của NHTM
Tiêu chí
Luật
chỉnh

TDĐT của NHTM

điều

Luật các Tổ chức tín dụng


Mục đích

Tìm kiếm lợi nhuận

Đối tượng

Không giới hạn, trong khuôn
khổ pháp luật cho phép

Thời hạn

Phần lớn là trung hạn

Lãi suất

Theo lãi suất thị trường

Bảo
đảm Phần lớn bắt buộc phải có tài
tiền vay
sản bảo đảm hoặc bảo lãnh

Hoạt động theo tiêu chí,
chiến lược, chính sách của
từng Ngân hàng, trong
khuôn khổ pháp luật

Hoạt động


3

TDĐT của Nhà nước
Luật riêng về TDĐT của Nhà
nước, một phần nhỏ chịu sự
điều tiết của Luật các TCTD
Không vì mục tiêu lợi nhuận,
chủ yếu vì mục tiêu phát triển
Bị giới hạn theo danh mục
được Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ quy định
Dài hạn
Ưu đãi (thấp hơn lãi suất thị
trường)
Không cần tài sản đảm bảo
hoặc đảm bảo bằng tài sản
hình thành sau đầu tư hoặc
giá trị tài sản đảm bảo thấp
hơn nhiều so với giá trị khoản
vay
Hoạt động gắn bó mật thiết
với hoạt động của Chính phủ
và các Bộ, ngành, theo định
hướng phát triển của Chính
phủ

Vai trò tín dụng đầu tư của Nhà nước đối với nền kinh
tế

 Thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH trong tài trợ dài hạn, thiết lập

một nền tảng vững chắc cho nền kinh tế:
Bên cạnh mục tiêu hiệu quả tài chính, phát triển kinh tế đòi hỏi phải
thực hiện đồng bộ các mục tiêu KT-XH như thay đổi cơ cấu kinh tế, xóa đói
giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các
vùng miền… nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Việc đầu


13

tư thực hiện nhiều mục tiêu lồng ghép như vậy, có thể phải chấp nhận mục
tiêu sinh lời trực tiếp thấp so với các cuộc đầu tư khác.
Ngay cả khi thị trường đã có thể thoả mãn nhu cầu tín dụng dài hạn, thì
kênh tài trợ vốn dài hạn của chính sách TDĐT của Nhà nước vẫn còn cần
thiết, vì DAPT có khả năng sinh lời thấp, hoặc rủi ro cao (hoặc DAPT có ảnh
hưởng sâu rộng đến mức khó có thể tính toán được những kết quả mà chúng
tạo ra theo bất kỳ một định nghĩa thông thường nào về “mức độ rủi ro”), đặc
biệt là dự án trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và vùng nông thôn rộng
lớn cần nhiều vốn; hơn nữa có thể vẫn còn một số loại đối tượng đi vay có
những DAPT có nhiều triển vọng khả thi nhưng thiếu tài sản thế chấp, không
đáp ứng được đòi hỏi của các NHTM. Những dự án thuộc các loại này nếu
hoàn toàn sử dụng vốn NSNN thì Nhà nước sẽ không thể đáp ứng nổi và các
doanh nghiệp cũng không đầu tư nếu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước
thông qua chính sách TDĐT. Tới lượt mình, khi các DAPT phát huy hiệu quả,
thì một nền tảng vững chắc cho nền kinh tế cũng được thiết lập.
 Giảm bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước cho đầu tư và nâng cao
hiệu quả đầu tư:
Thay vì cấp phát vốn NSNN cho các DAPT, Chính phủ sử dụng TDĐT
của Nhà nước với những ưu đãi nhất định nhằm khuyến khích các khu vực tư
nhân tham gia vào những dự án, việc bao cấp về đầu tư theo đó cũng sẽ giảm
đáng kể. Hơn nữa, Chính phủ có thể thực hiện được những dự án trong chiến

lược phát triển của mình đồng thời có thể ràng buộc chúng phải tuân thủ theo
những nguyên tắc tài chính. Mặt khác, dưới sự giám sát các khoản tài trợ theo
nguyên tắc ngân hàng buộc các nhà đầu tư phải chịu áp lực về hiệu quả của
dự án để có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi theo cam kết. Thêm vào đó,
TDĐT của Nhà nước buộc chủ đầu tư phải có một phần vốn chủ sở hữu nhất


14

định tham gia đầu tư dự án làm cho các chủ đầu tư phải quan tâm nhiều đến
hiệu quả của dự án, sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Bên cạnh đó, cơ chế TDĐT của Nhà nước làm cho khả năng điều tiết
nền kinh tế của Nhà nước tăng lên nhờ quy mô nguồn vốn dành cho ĐTPT
được bảo toàn và phát triển khi các khoản cho vay được thu hồi.
 Là công cụ quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách
tiền tệ… TDĐT của Nhà nước đã trở thành một công cụ đắc lực, hữu hiệu của
Nhà nước để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH-HĐH đất nước, thông qua việc cung cấp tín dụng ưu đãi để
phát triển các ngành, vùng, lĩnh vực KT-XH cần ưu tiên phát triển và cần có
sự hỗ trợ của Nhà nước.
Việc sử dụng nguồn vốn NSNN thông qua cơ chế cấp phát làm cho
Nhà nước sẽ phải chịu nhiều áp lực trong việc huy động nguồn vốn và tính
hiệu quả của việc sử dụng vốn ngân sách thông qua cơ chế này có khá nhiều
bất cập. Nếu như vấn đề này được giải quyết bằng cơ chế tín dụng thì hiệu
quả từ việc sử dụng nguồn vốn sẽ tăng lên và cải thiện vấn đề thâm hụt ngân
sách, qua đó các nguy cơ về lạm phát tiềm ẩn sẽ giảm thiểu. Thường các tổ
chức tài chính và phát triển song phương hay đa phương sẵn sàng ưu tiên cho
các NHPT - tổ chức thực hiện chính sách TDĐT của Nhà nước, huy động vốn
với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường. Thông qua nguồn vốn dài hạn và chi

phí thấp được huy động này có thể giúp Nhà nước chủ động trong điều tiết vĩ
mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia.
Mặt khác, việc thực hiện chính sách TDĐT của Nhà nước thông qua
một tổ chức tài chính trung gian chuyên biệt sẽ tách bạch tín dụng chính sách
và tín dụng thương mại. Điều này có tác dụng khá tích cực trong việc hạn chế


15

rủi ro của các NHTM, vì chúng không còn bị buộc cung cấp quá sức các
khoản tín dụng dài hạn xét theo những tiêu chí đặc biệt.
Ngoài ra, giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng và được
Đảng, Nhà nước rất quan tâm. Một trong những đối tượng được vay vốn
TDĐT của Nhà nước là các dự án đầu tư tạo thêm được nhiều chỗ làm việc
mới. Khi thực hiện ĐTPT sản xuất, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy
sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế...
còn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã hội.
1.2.

Ngân hàng Phát triển - tổ chức tài chính tiêu biểu thực hiện
chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước
4

Ngân hàng Phát triển

Trong từng giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia đều thành lập các tổ chức
tài chính chính sách, được coi là công cụ đặc biệt quan trọng của Chính phủ
để thực hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp. Các tổ chức
tài trợ cho các DAPT dài hạn thường có chung tên gọi là “Các tổ chức Tài
chính phát triển” hay “Các định chế tài chính phát triển” (DFIs)


[9],

tên gọi cụ

thể có thể khác nhau nhưng phần lớn đều được gọi là Ngân hàng và Ngân
hàng phát triển là tổ chức tiêu biểu thuộc loại này ở các nước đang phát triển.
Tác giả Phan Thị Thu Hà, trong cuốn giáo trình Ngân hàng Phát triển
đưa ra khái niệm: “Ngân hàng phát triển là tổ chức tín dụng mà hoạt động
chủ yếu là tài trợ trung và dài hạn cho các dự án phát triển”. [6]
NHPT ra đời dựa trên nhu cầu của xã hội về các tổ chức tài chính hỗ
trợ cho phát triển kinh tế đối với các mục tiêu mà NHTM chưa thực hiện
được. Mục tiêu của nó là nhằm cung cấp tín dụng cho các lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, lĩnh vực xuất nhập khẩu và lĩnh vực phát triển nông thôn. Tại
các nước đang phát triển, vai trò của Ngân hàng này rất rõ vì mục tiêu chủ


16

yếu của nó là tập trung hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ xuất khẩu để thúc đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, còn đối
với các nước phát triển thì vai trò của Ngân hàng này ít đậm nét hơn do nó đã
hoàn thành về cơ bản vai trò lịch sử của mình, nền kinh tế đã phát triển ở trình
độ cao tương đối đồng đều, nhu cầu và mức độ hỗ trợ từ Nhà nước không cao.
Như vậy, có thể khái quát về Ngân hàng Phát triển:
- NHPT đều được thành lập bởi một Luật riêng, không hoạt động dưới
một khung luật chung về chuyên ngành ngân hàng; thuộc sở hữu Chính phủ
hoặc Chính phủ nắm giữ lượng vốn lớn (phần lớn là do Chính phủ sở hữu)
nhằm đảm bảo hoạt động của NHPT theo đúng mục tiêu đề ra đáp ứng yêu
cầu ĐTPT của quốc gia.

- NHPT cấp vốn dài hạn cho các dự án: trong khi các tổ chức khác
không muốn, không thể hoặc không đủ khả năng đảm đương được chức năng
này, thì NHPT sẽ sử dụng nguồn vốn dài hạn của mình để tài trợ đầu tư dự án.
Điều này cũng mang ý nghĩa, chức năng cho vay này của NHPT đồng nghĩa
với việc hỗ trợ cho các dự án có mức rủi ro cao hơn bình thường.
- NHPT phục vụ một số loại đối tượng dự án nhất định, theo mục tiêu,
định hướng ĐTPT của Nhà nước trong từng thời kỳ.
- NHPT có nhiệm vụ chính là tìm kiếm, thẩm định, xúc tiến, tài trợ,
thực hiện và giám sát các dự án đầu tư phù hợp với mục tiêu phát triển và thứ
tự ưu tiên đầu tư của quốc gia.
5

Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Phát triển
1.2.1.1. Huy động và quản lý vốn

Một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng hiện nay là huy
động vốn. Tuy nhiên, đối với NHPT, vấn đề đặt ra là làm sao để huy động


17

được vốn trung và dài hạn với lãi suất bình quân thấp trong các điều kiện cạnh
tranh giữa các tổ chức tín dụng gia tăng, ổn định vĩ mô kém bền vững, khả
năng tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư thấp... [6]
 Yêu cầu đối với nguồn vốn:
Nguồn vốn của ngân hàng phải đảm bảo mối liên hệ về kỳ hạn và lãi
suất. Quy mô các nguồn liên quan tới quy mô của các dự án mà ngân hàng tài
trợ và quy mô tăng trưởng của ngân hàng. Lãi suất và kỳ hạn của nguồn bị tác
động bởi kỳ hạn và khả năng sinh lời của dự án được tài trợ. Với hoạt động
chủ yếu là tài trợ các dự án dài hạn có khả năng sinh lời thấp hoặc rủi ro cao,

yêu cầu đặt ra đối với NHPT là phải có nguồn vốn hỗn hợp với lãi suất thấp,
thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi ro. Để thực hiện được yêu cầu trên đòi
hỏi phải kết hợp nỗ lực của ngân hàng và các điều kiện kinh tế, pháp luật phù
hợp.
 Các hình thức huy động:
- Huy động tiền gửi trên thị trường: Ngân hàng huy động tiền gửi ngắn,
trung và dài hạn, trong đó trung dài hạn là chủ yếu thống qua mở tài khoản
thanh toán phục vụ cho các dự án hoặc các doanh nghiệp vay theo dự án. Các
khoản tiền gửi của dân cư chủ yếu là tiền tiết kiệm trung và dài hạn, lãi suất
cao và thời hạn dài. Đồng tiền huy động có thể là nội tệ, ngoại tệ; lãi suất huy
động cố định, hoặc có điều chỉnh... Các nguồn vốn huy động tuy ít đa dạng
song các ngân hàng khuyến khích các nguồn trung và dài hạn bằng cách tăng
tính thanh khoản của các khoản tiền gửi, đảm bảo mức sinh lời hấp dẫn so với
tiền gửi có thời hạn ngắn hơn.
- Ngân hàng phát hành giấy nợ trung và dài hạn: Thông thường, trái
phiếu NHPT phát hành là TPCP hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Do
vậy nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước muốn mua trái phiếu của


18

NHPT vì có tính an toàn cao, dễ chuyển đổi, lãi suất hấp dẫn.
- Huy động các quỹ của Nhà nước (tài trợ của Nhà nước cho DAPT):
Nhà nước thường tài trợ cho DAPT thông quan NHPT để phục vụ chính sách
phát triển của Nhà nước. Một phần thu NSNN dành cho NHPT, viện trợ từ
bên ngoài, hoặc phát TPCP được chuyển cho NHPT.
- Huy động các khoản tài trợ từ các tổ chức khác: Vì mục tiêu KT-XH
trong hoạt động của NHPT có thể phù hợp với mục tiêu hoạt động của nhiều
tổ chức, nên ngân hàng có thể huy động các nguồn tài trợ của các tổ chức này
cho cùng một dự án.

- Vay nước ngoài (song phương, đa phương hoặc các tổ chức tài chính
phát triển): NHPT tìm kiếm các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính có
mục tiêu cho vay ưu đãi đối với các DAPT, ví dụ như WB, NHPT khu vực,
NHPT của các nước, hoặc các quỹ dành cho phát triển của Chính phủ tại các
nước phát triển. Trong nhiều trường hợp, Chính phủ là người đi vay và NHPT
là tổ chức được giao cho vay lại.
- Vốn và quỹ của ngân hàng: Vốn được cấp từ Nhà nước hoặc từ các cơ
quan phát triển, các tổ chức tài chính phát triển, vốn cổ phần. Các quỹ bao
gồm quỹ tích luỹ, quỹ dự phòng tổn thất... Đối với NHPT trong giai đoạn đầu,
vốn chủ sở hữu và các quỹ từ Nhà nước chiếm tỷ trọng rất lớn (>50% tổng
nguồn). Tỷ lệ này giảm dần cùng với quá trình ngân hàng mở rộng huy động
tiền gửi và vay của các tổ chức tài chính.
 Quản lý nguồn vốn; Quản lý kỳ hạn và chi phí của nguồn:
Tìm kiếm và thực hiện tốt các biện pháp gia tăng quy mô nguồn vốn
với lãi suất thấp, kỳ hạn dài và ổn định là điều kiện sống còn của NHPT.
Chiến lược nguồn vốn của ngân hàng là khai thác triệt để các nguồn hỗ trợ từ
Chính phủ, các tổ chức tài chính, tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư.


19

NHPT cho vay trung, dài hạn là chủ yếu (từ 10 - 30 năm), trong khi
nguồn vốn huy động thường có kỳ hạn ngắn hơn, ngân hàng phải thực hiện
một kỹ thuật quan trọng là chuyển hoán các nguồn tiền, các kỳ hạn ngắn hơn
sang kỳ hạn dài hơn. Do đó quản lý nguồn vốn bao gồm:
- Tính toán chi phí huy động nhằm đảm bảo nguyên tắc kinh doanh có
lãi hoặc ít nhất là đảm bảo hoàn vốn và bù đắp chi phí. Do hoạt động chủ yếu
của NHPT là tìm kiến dự án, thẩm định hiệu quả của dự án, sau đó mới tìm
nguồn tài trợ thích hợp nên chi phí nguồn bị giới hạn bởi khả năng sinh lời
của dự án. Các dự án khác nhau cần tính toán mức chi phí nguồn khác nhau

cũng như kỳ hạn nguồn khác nhau.
- Quản lý thanh khoản: Với đặc điểm của NHPT, quản lý thanh khoản
của ngân hàng mang đặc trưng là quản lý nợ với nội dung chính là xác định
thị trường nợ của ngân hàng trong mối tương quan cạnh tranh với các ngân
hàng khác.
1.2.1.2. Sử dụng vốn
NHPT thực hiện mục tiêu kinh doanh thông qua sử dụng vốn, hình
thành các khoản mục tài sản của NHPT.

 Các loại tài sản:
Ngân quỹ: bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi Ngân hàng trung ương
và các ngân hàng khác. Ngân quỹ của NHPT thường chiếm tỷ trọng nhỏ.
Tài trợ ngắn hạn: Quy mô tài trợ ngắn hạn nhỏ, chủ yếu trong các dự án
phát triển mà do ngân hàng tài trợ trung và dài hạn.
Tài trợ trung và dài hạn (tài trợ theo dự án): Là hoạt động quan trọng
của NHPT, phản ánh mục tiêu và nội dung hoạt động chính của ngân hàng.


20

Tài trợ theo dự án có thể chia theo các tiêu thức khác nhau:
+ Tài trợ theo dự án đã được chỉ định trước của chủ tài trợ;
+ Tài trợ theo dự án do ngân hàng tìm kiếm, khai thác;
+ Tài trợ theo dự án với nguồn vốn ưu đãi;
+ Tài trợ theo dự án với nguồn vốn thị trường;
+ Tài trợ độc lập hoặc đồng tài trợ.
Tài trợ các dự án trong kế hoạch của Chính phủ và dự án tìm kiếm luôn
được ngân hàng quan tâm đặc biệt.
Các tài sản khác như đầu tư trực tiếp vào các ngành kinh tế, cho thuê.
 Quản lý tài sản:

- Xác định ngân quỹ của ngân hàng trong mối quan hệ với nhu cầu
thanh khoản trong trung và dài hạn;
- Quản lý rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái;
- Quản lý các khoản cho vay và tính sinh lời của tài sản.
1.2.1.3. Các hoạt động khác:
NHPT cung cấp dịch vụ bảo lãnh, tư vấn đầu tư, thanh toán... Là ngân
hàng chuyên doanh nên các hoạt động khác của ngân hàng như dịch vụ thẻ,
cho vay tiêu dùng... ít đa dạng hơn so với NHTM.
6

Hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Ngân hàng
Phát triển
1.2.1.4. Các hình thức tín dụng đầu tư của Nhà nước

Tín dụng đầu tư của Nhà nước bao gồm các hình thức: Cho vay đầu tư,
bảo lãnh TDĐT và hỗ trợ sau đầu tư. Hình thức hỗ trợ sau đầu tư chưa có tiền
lệ trên thế giới, chỉ tồn tại duy nhất ở Việt Nam.
Cho vay đầu tư: Là việc NHPT cho các chủ đầu tư vay vốn để thực


21

hiện đầu tư dự án.
Nguồn vốn để cho vay đầu tư bao gồm: Nguồn vốn do NSNN cấp;
Nguồn vốn huy động: phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi, vốn vay các tổ
chức... Các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật: nguồn góp vốn ban
đầu của các tổ chức, nguồn tài trợ từ thiện.
Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở mức rủi ro của dự án và mức
độ ưu tiên của Chính phủ đối với ngành nghề/lĩnh vực mà dự án đầu tư. Lãi
suất cho vay thường thấp hơn lãi suất thị trường.

Thời hạn cho vay thường dài và số vốn cho vay lớn. Việc trả nợ của dự
án thực hiện trong nhiều kỳ và kéo dài trong nhiều năm. Vốn TDĐT của Nhà
nước thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng các nguồn vốn tham gia đầu tư nhưng
không phải là đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn đầu tư; các chủ đầu tư phải huy
động thêm từ các nguồn vốn khác để đầu tư dự án.
Điều kiện về đảm bảo tiền vay thường đơn giản và thông thoáng hơn so
với tín dụng của NHTM. Tùy thuộc nhu cầu vốn đầu tư, đồng tiền cho vay có
thể là đồng nội tệ hoặc ngoại tệ.
Bảo lãnh: Là việc NHPT (tổ chức bảo lãnh) cam kết với TCTD cho vay
vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên vay. Trường hợp bên vay không trả
hoặc trả không đủ nợ khi đến hạn, tổ chức bảo lãnh sẽ trả nợ thay cho bên vay.
Thời hạn bảo lãnh, số vốn bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh được xác
định tương tự như đối với cho vay đầu tư trên cơ sở thỏa thuận của các bên.
Tùy thuộc vào mức độ rủi ro của dự án, bên đi vay (chủ đầu tư) có thể phải có
tài sản bảo đảm bảo lãnh.
Trường hợp tổ chức bảo lãnh phải trả nợ thay cho bên vay thì sau khi
trả nợ thay, tổ chức bảo lãnh được quyền tiếp nhận khoản tín dụng đó và bên


22

vay phải nhận nợ với tổ chức bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh khi đó được quyền
thực hiện các biện pháp để thu hồi vốn theo thỏa thuận ban đầu đã ký và quy
định của pháp luật.
Hỗ trợ sau đầu tư: Là việc NHPT hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu
tư vay vốn của các TCTD để đầu tư dự án, sau khi dự án đã hoàn thành đưa vào
sử dụng và trả được nợ vay. Đây là hình thức trợ cấp bằng tiền cho các doanh
nghiệp, không có ràng buộc về trách nhiệm giữa doanh nghiệp và NHPT.
Nguồn vốn thực hiện cấp hỗ trợ sau đầu tư được NSNN cấp; cơ quan
thực thi chịu trách nhiệm thẩm tra hồ sơ dự án đảm bảo đúng quy định, đã

hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng và đã trả được nợ vay cho các TCTD.
1.2.1.5. Quy trình thực hiện tín dụng đầu tư của Nhà
nước
Quy trình thực hiện TDĐT của Nhà nước thông thường theo trình tự
các bước gồm: Tiếp nhận hồ sơ dự án và thẩm định (bao gồm thẩm định năng
lực chủ đầu tư và thẩm định dự án) → Chấp thuận tài trợ → Ký kết hợp đồng
tín dụng/hợp đồng thế chấp → Giải ngân và giám sát tín dụng → Thu hồi
nợ/điều chỉnh dự án/xử lý rủi ro → Kết thúc tài trợ/Thanh lý hợp đồng.

1.2.1.6. Chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước tại
Ngân hàng Phát triển
Chính sách của Chính phủ về TDĐT của Nhà nước bao gồm chính sách
trực tiếp, cụ thể về TDĐT như huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn, đối
tượng cho vay, lãi suất, thời hạn cho vay, bảo đảm tiền vay...và các chính


23

sách có liên quan như chính sách về quản lý đầu tư và xây dựng, chính sách
về đấu thầu, xử lý rủi ro...
Nhà nước thường có hỗ trợ trực tiếp cho ngân hàng (cung cấp các
nguồn vốn ưu đãi, cấp bù lãi suất, bảo lãnh cho các khoản đi vay và cho
vay...). Sự hỗ trợ này khá quan trọng, cho phép ngân hàng thực hiện được các
mục tiêu KT-XH.
Nhiều nước có Luật về NHPT và có quy định riêng cho ngân hàng này,
trở thành khung pháp lý để điều chỉnh và kiểm soát hoạt động của NHPT nói
chung và hoạt động TDĐT của Nhà nước nói riêng. Các NHPT thành công
đều dựa vào việc xây dựng mối quan hệ giữa Chính phủ và NHPT sao cho
đảm bảo là Chính phủ có hỗ trợ cho NHPT đồng thời các quyết định cho vay
của NHPT đều dựa trên tính hiệu quả tài chính của dự án.

1.3.

Đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước
7

Quan niệm về đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư của
Nhà nước

Quan niệm về đẩy mạnh hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước được
thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, làm tăng quy mô hoạt động TDĐT của Nhà nước: thể hiện
qua tăng trưởng doanh số cho vay hàng năm. Thứ hai, nâng cao chất lượng
TDĐT của Nhà nước, là việc đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách
hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo cho
các dự án được tài trợ phát huy hiệu quả và hoàn trả nợ vay đầy đủ, đúng hạn
hay hạn chế thấp nhất rủi ro về đồng vốn, phù hợp và phục vụ sự phát triển
KT-XH. Thứ ba, TDĐT của Nhà nước phải phát huy được tối đa vai trò của
mình đối với nền kinh tế.


24

8

Các chỉ tiêu phản ánh sự đẩy mạnh hoạt động tín dụng
đầu tư của Nhà nước

Hoạt động tín dụng của ngân hàng thường theo đuổi các mục tiêu về
quy mô; về thị phần (so với toàn ngành hoặc so với đối thủ cạnh tranh); mục
tiêu về chất lượng hoạt động và mục tiêu sinh lời. Những mục tiêu này cũng

có thể được xem là tiêu chí đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng thông
qua mức độ đạt được các mục tiêu đó. Tuy nhiên, hoạt động TDĐT của Nhà
nước nhằm mục tiêu chính là phục vụ phát triển kinh tế, không vì mục tiêu lợi
nhuận nên mục tiêu sinh lời không được xem là tiêu chí đánh giá. Các tiêu chí
đánh giá hoạt động TDĐT của Nhà nước gồm:
- Quy mô hoạt động: Quy mô hoạt động cho vay thể hiện qua (i) doanh
số cho vay hàng năm, (ii) tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay, (iii) tốc độ
tăng trưởng doanh số dư nợ. Ngoài ra, quy mô còn thể hiện ở chỉ tiêu mức
vốn cho vay/dự án hàng năm.
- Thị phần: Thị phần cho vay của một ngân hàng thường được đánh giá
trên cơ sở so sánh với toàn ngành hoặc so với đối thủ cạnh tranh. Hoạt động
TDĐT của Nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi đối tượng theo quy định của
Chính phủ và đối tượng này cũng không được ổn định nên không thể đánh giá
thị phần TDĐT của Nhà nước trên một địa bàn như thị phần cho vay của các
NHTM. Tuy nhiên, việc so sánh về doanh số TDĐT của Nhà nước với mức
ĐTPT và tổng nguồn vốn tín dụng cho ĐTPT trên địa bàn sẽ thấy được mức
độ đáp ứng của nguồn vốn TDĐT của Nhà nước trong việc ĐTPT trên địa bàn
- Chất lượng hoạt động: Chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân
hàng nói chung được thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn. Ngoài ra, phân loại dư nợ
theo ngành nghề sẽ thể hiện tính đa dạng trong hoạt động và khả năng phân
tán rủi ro của các khoản cho vay, thu nhập từ hoạt động TDĐT.


25

9

Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng đầu tư
của Nhà nước


Hoạt động TDĐT của Nhà nước chịu tác động của 3 nhân tố cơ bản,
gồm: (i) Chính sách của Chính phủ về TDĐT của Nhà nước, (ii) Nhân tố về
phía tổ chức thực hiện chính sách (Ngân hàng Phát triển), (iii) Nhân tố về
phía doanh nghiệp (chủ đầu tư).
1.3.1.1. Chính sách của Chính phủ về tín dụng đầu tư
của Nhà nước
Tín dụng đầu tư của Nhà nước là hình thức tín dụng khá đặc thù chịu
sự điều chỉnh của Luật riêng về chính sách TDĐT của Nhà nước và bị tác
động một phần về quản lý hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước.
Chính sách TDĐT của Nhà nước sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với tình
hình chính trị, pháp luật, kinh tế - xã hội và điều kiện quốc tế... nên nhân tố
chính sách của Chính phủ về TDĐT của Nhà nước được xem là nhân tố tổng
hợp của các nhân tố về chính trị, pháp luật, KT-XH và điều kiện quốc tế.
Chính sách về TDĐT của Nhà nước bao gồm chính sách trực tiếp, cụ
thể về TDĐT và hệ thống các chính sách có liên quan như chính sách về quản
lý đầu tư và xây dựng, chính sách về đấu thầu, xử lý rủi ro... Chính sách
TDĐT của Nhà nước được quy định đúng đắn, phù hợp với quy luật khách
quan và thực tiễn cuộc sống, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và ổn định...
sẽ là hanh lang pháp lý vững chắc cho hoạt động TDĐT của Nhà nước được
thực thi có hiệu quả, chất lượng, góp phần đáp ứng được yêu cầu ĐTPT của
đất nước và ngược lại.
Chính sách TDĐT của Nhà nước thể hiện qua những quy định cụ thể về
đối tượng, lãi suất, thời gian cho vay, mức vốn cho vay, các điều kiện bảo
đảm tiền vay và nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn... Đây là những nhân tố


×