Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của doanh nghiệp.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.83 KB, 57 trang )

Chuyên đề thực tập
Giới thiệu chung về đề tài.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Với mỗi công ty thì để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty
cần có vốn để hoạt động. Vốn là một nhân tố sản xuất quan trọng sống còn, quyết
định đến sự thành bại của công ty. Vốn càng lớn thì tiềm lực của công ty càng lớn, nó
tạo điều kiện cho công ty dễ dàng hơn trong các quyết định đầu tư, trong các dự án
đầu tư mới như tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới…
Với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội thì với vị trí là
một công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực xây lắp điện và cung ứng các thiết bị
ngành điện thì đó là một vấn đề rất quan trọng. Vì công ty mới được thành lập và đi
vào hoạt động được bảy năm nên công ty gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động như
thị trường của công ty còn khá nhỏ bé, trong công ty các kế hoạch sản xuất, kế hoạch
chung cho cả công ty còn chưa có hay đơn thuần đó chỉ là những bản kế hoạch được
xây dựng trong ngắn hạn chưa có được sự nghiên cứu tỷ mỉ… Hay vấn đề nhân sự
trong công ty khi mà công ty chưa có được đội ngũ nhân viên có trình độ đáp ứng
nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh… Nhưng đó chưa phải là vấn đề khó khăn
nhất của công ty khi mà vấn đề khó khăn nhất của công ty chính là khả năng huy
động vốn cho các hoạt động của mình. Vì nguồn vốn của công ty còn eo hẹp do vậy
mà khả năng mở rộng thị trường bị hạn chế, khả năng trang bị máy móc thiết bị cũng
bị giới hạn, chưa có được nguồn kinh phí cho công tác xây dựng kế hoạch… Sở dĩ
công ty gặp nhiều khó khăn như vậy là do những nguyên nhân sau.
Vì công ty mới đi vào hoạt động lại là công ty có quy mô nhỏ do vậy mà doanh
thu và lợi nhuận của công ty còn nhỏ điều này đã hạn chế khả năng tích luỹ vốn của
công ty. Vì công ty muốn tích luỹ vốn từ nội bộ doanh nghiệp thì cần phải có được
lợi nhuận lớn để có thể tích luỹ vốn. Trong khi đó thì lợi nhuận của công ty không
phải chỉ được dùng vào việc tích luỹ vốn mà còn được dùng để chia cổ tức cho các cổ
đông, lập các quỹ dự phòng… do vậy mà khả năng tích luỹ vốn từ phần lợi nhuận để
lại của công ty là bị hạn chế.
Mặc dù công ty cũng có các kênh huy động vốn khác như đi vay tín dụng thương
mại từ các đối tác. Mặc dù đây là một kênh huy động vốn hiệu quả nhưng nó lại bị


Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
1
hạn chế vì phụ thuộc vào quy mô vốn của công ty nên phần vốn mà công ty có thể
huy động được từ đây vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động.
Một kênh huy động vốn khác mà công ty đã tiếp cận là vay tín dụng ngân hàng.
Đây là một kênh huy động vốn có tiềm năng khi mà lượng vốn vay từ đây có thể có
số lượng lớn nhưng nó lại chịu nhiều rằng buộc khi mà muốn vay được tiền từ ngân
hàng hay các tổ chức tài chính thì phải đáp ứng được các điều kiện rằng buộc như có
tài sản thế chấp hay hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải ổn định và có
hiệu quả. Do vậy mà kênh huy động vốn này công ty tuy đã tiếp cận nhưng vẫn còn
có nhiều rào cản.
Đó là những kênh huy động vốn mà công ty hiện nay đang tiếp cận. Mặc dù từ
những kênh huy động vốn này mà công ty đã huy động được một số lượng vốn nhất
định nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho các hoạt động trong công ty.
Qua tìm hiểu tại công ty và các công ty khác em thấy rằng công ty còn có thể tiếp
cận được với nhiều kênh huy động vốn khác hay là mở rộng kênh huy động vốn hiện
tại. Do vậy mà em đi vào nghiên cứu các kênh huy động vốn khác mà công ty còn
chưa tiếp cận nhằm tìm ra được kênh huy động vốn phù hợp với công ty.
2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài.
Vì đề tài của tôi là nghiên cứu về các kênh khai thác huy động vốn mà công ty
hiện đang tiếp cận cũng như những kênh huy động mà công ty vẫn còn bỏ ngỏ chưa
tiếp cận vì vậy mà mục đích nghiên cứu chủ yếu của đề tài này là tìm hiểu làm rõ
những kênh huy động vốn mà công ty hiện đang tiếp cận. Để từ đó đi sâu phân tích
những thuận lợi của các kênh huy động vốn này. Vai trò của từng kênh trong hoạt
hoạt động khai thác vốn của công ty nói chung, xem trong các kênh huy động vốn đó
thì kênh nào là quan trọng nhất, huy động được nhiều vốn nhất để từ đó sẽ tìm ra
được những bài học kinh nghiệm từ kênh huy động vốn đó và thêm vào đó còn tìm
hiểu những khó khăn, nhược điểm của những kênh huy động hiện tại, xem các kênh
huy động vốn hiện nay có những khó khăn gì trong việc huy động để từ đó tìm ra

những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó để từ đó mà nâng cao được hiệu
quả huy động vốn của các kênh huy động vốn cũng như là của hoạt động huy động
huy động vốn nói chung của công ty. Thêm vào đó ngoài việc tìm hiểu nghiên cứu
những kênh huy động vốn mà công ty đang áp dụng thì tôi còn đi vào tìm hiểu nghiên
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
2
Chuyên đề thực tập
cứu những kênh huy động vốn khác mà công ty vẫn còn chưa áp dụng tìm hiểu
những ưu điểm và nhược điểm của từng kênh huy động vốn cũng như là tìm hiểu
kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác trong việc áp dụng những kênh huy động
vốn mà doanh nghiệp chưa áp dụng từ đó phân tích xem với điều kiện hiện tại của
công ty thì nên áp dụng kênh huy động vốn nào là hợp lý nhất, phù hợp với công ty
nhất. Có như vậy thì sau khi nghiên cứu xong đề tài mới có thể đề xuất với công ty
phương án huy động vốn từ kênh mới là hiệu quả nhất, phù hợp nhất với công ty.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này là nó có những ý nghĩa sau đây. Thứ nhất
là mong tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ việc khai thác, huy động vốn của
các công ty vừa và nhỏ để từ đó mà có thể tìm cách áp dụng những bài học kinh
nghiệm đó vào công ty, xem kinh nghiệm nào là phù hợp với công ty nhất, là khả thi
với công ty nhất, tránh thực trạng là cứ thấy một hoặc một số công ty khác áp dụng
thành công một kênh huy động vốn mới, tạo ra được nhiều vốn cho công ty thì các
công ty khác theo sau thấy thế mà áp dụng khi không có sự tìm hiểu nghiên cứu. Điều
này là rất nguy hiểm vì điều kiện của các công ty là khác nhau, hoạt động trong
những điều kiện khác nhau, trình độ của mỗi công ty là khác nhau cả về trình độ con
người cũng như là trình độ công nghệ. Từ đó sẽ dẫn đến thất bại gây thiệt hại cho
công ty. Vì vậy mà cần phải có những nghiên cứu tìm hiểu phân tích trước khi áp
dụng. Thứ hai là tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu của các kênh huy động vốn
hiện tại mà công ty đang áp dụng đề từ đó có những giải pháp để khác phục hay phát
huy những điểm yếu điểm mạnh đó. Vì nhiều khi việc mở ra một kênh huy động vốn
mới đối với công ty là chưa cần thiết khi mà ta chưa khai thác hết tiềm năng các kênh

huy động vốn hiện tại điều đó sẽ gây lãng phí cho công ty vì vậy mà ta phải xem xét
kỹ càng các kênh huy động vốn hiện tại của công ty đang áp dụng xem xét tìm hiểu
những kênh huy động vốn này liệu đã thực sự khai thác hết tiềm năng hay chưa. Nếu
thấy tiềm năng của kênh huy động vốn vẫn còn thì tại sao không tiếp tục khai thác,
hoặc tìm hiểu xem tại sao ta chưa khai thác hết tiềm năng để từ đó đề ra những giải
pháp để khai thác hết tiềm năng của những kênh huy động vốn này. Còn nếu sau khi
xem xét thấy rằng các kênh huy động vốn hiện tại ta đã khai thác hết tiềm năng rồi
không còn có thể mở rộng hơn được nữa thì từ đó ta mới có phương án cân nhắc xem
xét đến việc mở ra một kênh huy động vốn mới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
3
Trong bài nghiên cứu này thì do tôi đang thực hiện nghiên cứu để áp dụng cho
một công ty vừa và nhỏ do vậy mà đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở đây sẽ là các
phương pháp huy động vốn ở các công ty vừa và nhỏ. Bao gồm các kênh huy động
vốn mà họ áp dụng, giải pháp để họ có thể thực hiện đối với từng kênh huy động
vốn… Thêm vào đó cũng có thể tìm hiểu phương pháp huy động vốn của một số
công ty lớn. Vì khi nghiên cứu phương pháp huy động vốn của các công ty vừa và
nhỏ có cùng điều kiện về quy mô như của công ty mình thì từ đó sẽ dễ dàng hơn cho
việc áp dụng các kinh nghiệm của những công ty này vào cho công ty mình, nó sẽ
phù hợp hơn nhiều so với việc áp dụng kinh nghiệm từ các công ty lớn. Còn việc
nghiên cứu những kênh huy động vốn của các công ty lớn cũng như những giải pháp
mà họ áp dụng để thực hiện ở đây chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với công ty.
Phạm vi nghiên cứu ở đây là các công ty vừa và nhỏ trong khu vực thành phố Hà
Nội. Vì hiện nay công ty đang hoạt động chủ yếu ở thị trường Hà Nội và một số tỉnh
thành phía bắc, thêm vào đó thì do khó khăn trong quá trình nghiên cứu mà tôi chỉ tập
trung nghiên cứu các công ty vừa và nhỏ trong phạm vi thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Ở đây do đề tài nghiên cứu là tìm hiểu về những phương thức huy động vốn, các

kênh huy động vốn mà các công ty vừa và nhỏ áp dụng do vậy mà phương pháp
nghiên cứu chủ yếu của tôi là.
Phân tích những kênh huy động vốn mà công ty hiện nay đang áp dụng để từ đó
tìm ra những thuận lợi khó khăn của những kênh huy động vốn này. Và còn phân tích
những kênh huy động vốn khác mà công ty chưa áp dụng tìm ra những khó khăn
thuận lợi của những kênh huy động vốn này.
Từ những phân tích đó mà có những đánh giá về những kênh huy động huy động
vốn này xem các kênh huy động vốn này có ưu điểm và nhược điểm gì để từ đó có
thể áp dụng vào công ty hay không.
Thêm vào đó còn sử dụng phương pháp điều tra thống kê những kinh nghiệm của
các công ty vừa và nhỏ khác.
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được.
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
4
Chuyên đề thực tập
Với đề tài nghiên cứu này thì tôi mong đợi kết quả dự kiến đạt được sẽ là tìm ra
được một, một số kênh huy động vốn mới phù hợp với công ty trách nhiệm hữu hạn
thương mại kỹ thuật điện Hà Nội. Và từ đó đề xuất những giải pháp hợp lý để có thể
áp dụng thành công các kênh huy động vốn mới này.
6. Bố cục đề tài.
Bài viết được chia thành ba phần.
Phần một: Giới thiệu chung về đề tài.
Phần hai: Nội dung đề tài
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về vốn trong hoạt động của doanh
nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp.
Chương III: Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của doanh
nghiệp.
Phần ba: Kết luận và kiến nghị.

Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
5
Nội dung đề tài.
Chương I
Những vấn đề lý luận chung về vốn trong hoạt
động của doanh nghiệp.
1. Khái niệm và phân loại vốn.
Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay
không chỉ bao gồm giá trị của tiền nói chung mà vốn ở đây còn bao gồm cả vật chất
như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu… Nếu hiểu theo nghĩa rộng
hơn thì vốn ở đay còn có thể bao gồm cả vốn con người theo đó thì vai trò của con
người ngày càng trở lên quan trọng đặc biệt là khi chúng ta sắp bước vào nền kinh tế
tri thức một nền kinh tế phát triển thì theo đó chất xám con người là một nguồn vốn
vô cùng quan trọng và quý giá nhiều khi vốn bằng tiền tệ cũng chưa sánh được so với
nguồn vốn con người, vốn tri thức.
Nhưng trong đề tài này thì tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu phân tích về vồn theo nghĩa
hẹp là vốn tiền tệ và vật chất. Vì vậy hiểu theo nghĩa hẹp một cách đơn giản nhất thì
vốn là toàn bộ giá trị của tiền và vật chất được ứng ra ban đầu và quá trình tiếp theo
để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhưng như trên đã nói thì ở đây vốn cũng có rất nhiều loại bao gồm vốn vật chất
và vốn tri thức. Hay như bên trong doanh nghiệp thì vốn cũng có bao gồm hai loại
vốn chính là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Hoặc cũng có thể phân thành vốn cố định
và vốn lưu động.
Theo cách phân loại về nguồn hình thành thì bao gồm.
Vốn chủ sở hữu là lượng vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình hình
thành doanh nghiệp và được tích luỹ dần trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh mà thuộc quyền sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu này
được dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bản thân
bên trong vốn chủ sở hữu cũng bao gồm nhiều loại như khấu hao, lợi nhuận để lại,

quỹ dự phòng…
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
6
Chuyên đề thực tập
Theo đó thì lợi nhuận để lại là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ đi chi phí và các
khoản khác như phần nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay là phần lợi nhuận dùng để
chia cổ tức cho các cổ đông. Phần lợi nhuận để lại này được doanh nghiệp giữ lại
dùng để tiếp tục đầu tư vào quá trính sản xuất kinh doanh trong chu kỳ tiếp theo của
quá trình sản xuất, nhằm làm tăng lượng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây cũng
là một phần vốn rất quan trọng của doanh nghiệp.
Khấu hao là phần giá trị của tài sản cố định mà doanh nghiệp đã đầu tư trong quá
trình sản xuất nó là nhà xưởng máy móc, thiết bị, công cụ dụng cụ… phần khấu hao
này chính là lượng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
Còn quỹ dự phòng đây cũng chính là một phần của khoản lợi nhuận để lại của
doanh nghiệp nhưng phần vốn này không được dùng để đầu tư trực tiếp vào quá trình
sản xuất mà thay vào đó nó được dùng trong những trường hợp đặc biệt như khi có sự
sụt giá hay việc kinh doanh bị thua lỗ thì phần quỹ dự phòng này được dùng để bù
đắp những thiệt hại do thua lỗ hay do trượt giá gây ra.
Vốn đi vay là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ bên ngoài để phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh. Vì không một doanh nghiệp nào có thể hoạt dọng với 100%
lượng vốn tự có của mình được mà bao giờ họ cũng có những khoản vốn đi vay để
phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đi vay này bao gồm rất nhiều nguồn khác
nhau như vốn vay tín dụng ngân hàng là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ các tổ
chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước và phải chịu lãi suất đi vay. Hay vốn vay
tín dụng thương mại là lượng vốn mà doanh nghiệp vay của các đối tác kinh doanh
như là mua nguyên vật liệu chịu mà chưa thanh toán ngay cho bên đối tác mà hẹn
thanh toán sau có thể là sau mỗi chu kỳ kinh doanh hay sau khi bán được hàng… Hay
là vốn vay từ phát hành cổ phiếu đây cũng là một hình thức đi vay khác của doanh

nghiệp nhưng đây là vay một cách gián tiếp bằng cách phát hành cổ phiếu vì vậy ở
đây doanh nghiệp không chỉ vay của các tổ chức tín dụng tài chính mà còn vay của
các đối tác, quần chúng nhân dân các nhà đầu tư chứng khoán. Vì khi phát hành cổ
phiếu ra thị trường chứng khoán thì cổ phiếu đó sẽ không chỉ được nhân dân mua,
những nhà đầu tư chứng khoán mua mà nó còn có thể được các tổ chức tài chính hay
là các đối tác mua. Vốn có được từ việc phát hành trái phiếu theo đó thì lượng vốn mà
doanh nghiệp có được là thông qua việc phát hành trái phiếu vay nợ ra thị trường vốn
để thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư. Hay là vốn có được từ liên doanh, liên kết theo
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
7
đó thì doanh nghiệp sẽ có vốn khi tiến hành liên doanh liên kết với bên ngoài. Với
hình thức liên doanh liên kết này thì vừa có vốn để hoạt động lại vừa có thể tham gia
được vào thị trường mới hay là giảm thiểu rủi ro của doanh nghiệp khi thất bại sẽ
không phải chịu tất cả thua lỗ mà có doanh nghiệp khác cùng chia sẻ.
Phân loại theo tính chất hoạt động thì có vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định là lượng vốn ứng ra ban đầu để đầu tư vào tài sản cố định như nhà
xưởng, máy móc… nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Vốn cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, được khấu
hao vào từng sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước để đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản lưu
thông nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra bình thường.
2. Sự cần thiết phải huy động vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Có thể nói vốn đối với từng doanh nghiệp là rất quan trọng nó quyết định đến sự
hoạt động suôn sẻ của doanh nghiệp.Mặc dù để có thể để doanh nghiệp hoạt động một
cách suôn sẻ thì cần phải có nhiều yếu tố cùng tham gia vào trong đó vốn là quan
trọng, nó được coi như là máu đối với mỗi doanh nghiệp, vì chỉ khi có vốn doanh
nghiệp mới có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được. Có vốn doanh
nghiệp mới có thể thực hiện các hợp đồng, ký kết các hợp đồng kinh doanh liên kết,
có vốn thì doanh nghiệp mới có thể mua sắm trang thiết bị, thay thế các trang thiết bị

cũ, đổi mới công nghệ sản xuất, trả lương cho công nhân… Theo đó thì vốn có vai trò
quan trọng đối với các hoạt động sau.
2.1. Đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư là hoạt động rất quan trọng thông qua hoạt động đầu tư mà
doanh nghiệp có thể tăng trưởng và phát triển. Đầu tư ở đây có thể là đầu tư vào một
dự án kinh doanh mới hay là đầu tư vào mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng nhà
xưởng… Nhưng để có thể tiến hành hoạt động đầu tư thì doanh nghiệp cần phải có
vốn. Vốn như là dòng máu mang dinh dưỡng đến nuôi cơ thể vậy. Hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp như là hoạt động nhằm làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp, làm
tăng quy mô của doanh nghiệp nhờ có hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể lớn
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
8
Chuyên đề thực tập
mạnh, có thể tham gia được vào nhiều các lĩnh vực kinh doanh khác nhau… Nhưng
quyết định đầu tư còn phụ thuộc vào vốn mà doanh nghiệp có. Theo đó thì vốn có
những vai trò sau.
Quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động sẽ quyết định đến khả
năng đầu tư vào dự án kinh doanh của công ty, quyết định đến quy mô của dự án kinh
doanh hay phạm vi của dự án. Vì khi công ty muốn quyết định đầu tư vào một hoạt
động mới hay một dự án kinh doanh mới thì yêu cầu đầu tiên mà doanh nghiệp cần
cân nhắc là lượng vốn cần phải có để đầu tư vào dự án, quy mô của vốn sẽ quyết định
đến quy mô của dự án vì ta không thể đầu tư vào một dự án lớn khi mà ta không có đủ
vốn cần thiết, nếu như ta cố tình đầu tư thì trong quá trình hoạt động sẽ liên tục xảy ra
tình trạng thiếu vốn từ đó sẽ dẫn đến tình trạng dự án sẽ không thể hoạt động suôn sẻ,
ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án thậm chí nó còn gây thiệt hại tới doanh nghiệp.
Vì vậy khi quyết định đầu tư thì công ty bao giờ cũng cân nhắc tới yếu tố vốn. Thêm
vào đó quy mô vốn cũng ảnh hưởng tới phạm vi của dự án. Vốn càng lớn thì dự án
đầu tư sẽ có phạm vi càng rộng và ngược lại nếu mà quy mô vốn nhỏ thì phạm vi
hoạt động của dự án sẽ thu hẹp từ đó mà ảnh hưởng tới sự thành công của dự án đầu

tư. Vì khi mà dự án có quy mô lớn nó sẽ đem đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp có
thể thu được doanh thu và lợi nhuận lớn từ đó sẽ làm cho doanh nghiệp tăng trưởng
nhanh hơn, tiềm lực của doanh nghiệp cũng có thể được tăng lên nhưng ngược lại khi
quy mô vốn nhỏ dẫn đến quy mô dự án nhỏ không đủ bao phủ thị trường nó sẽ hạn
chế khả năng của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khác tham gia vào
thị trường từ đó sẽ có sự cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp. Quy mô vốn cũng sẽ
quyết định đến độ dài của dự án đầu tư. Vì có nhiều dự án đầu tư không thể chỉ có
đầu tư trong một kỳ sản xuất mà nó còn có thể được đầu tư qua nhiều kỳ kinh doanh.
Vì vậy cần phải có lượng vốn lớn, dự án càng lâu thì lượng vốn yêu cầu cần có để đầu
tư càng lớn. Nói tóm lại thì quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động
có vai trò quyết định đến các dự án đầu tư. Doanh nghiệp nào có quy mô vốn càng lớn
thì dự án đầu tư càng có quy mô phạm vi lớn và ngược lại.
Tiềm lực vốn mà doanh nghiệp có sẽ quyết định đến khả năng đầu tư của doanh
nghiệp như để có thể tham gia vào một lĩnh vực kinh doanh mới hay là mở rộng thị
trường hoạt động hiện có thì cần có vốn để có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị
trường. Để có thể tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới thì doanh nghiệp cần phải
tiến hành nhiều công việc như là mua sắm trang thiết bị, tuyển dụng nhân công hay là
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
9
tiến hành khảo sát thị trường nhưng để có thể làm được những việc đó thì doanh
nghiệp cần có vốn để mua sắm máy móc thiết bị hay thuê nhân công… Đấy là trường
hợp doanh nghiệp muốn tự mình tham gia thị trường mới. Hoặc doanh nghiệp có thể
tiến hành liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để cùng tham gia vào thị
trường mới, nhưng cho dù là doanh nghiệp liên doanh này hiện đang hoạt động ở thị
trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập hay là doanh nghiệp ở thị trường khác thì
khi tiến hành liên doanh liên kết thì doanh nghiệp cũng cần phải có vốn đối ứng để
tham gia vào liên doanh, vì nếu không có vốn đối ứng chúng ta sẽ không thể tiến hành
liên doanh được, quy mô vốn góp của mỗi bên sẽ quyết định đến vai trò của doanh
nghiệp trong liên doanh này, doanh nghiệp có quy mô vốn càng lớn thì càng có vai trò

quyết định, vai trò lớn. Vì vậy mà tiềm lực vốn của doanh nghiệp sẽ quyết định đến
khả năng tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới của doanh nghiệp. Thêm vào đó thì
khi doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào thì luôn muốn mở rộng thị
trường hoạt động của mình vì khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô của
doanh nghiệp càng lớn lên, sức mạnh của doanh nghiệp càng được củng cố… nhưng
để có thể mở rộng thị trường, tăng doanh thu và lợi nhuận thì doanh nghiệp cần phải
có đầu tư vào hoạt động xúc tiến thị trường, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên
cứu để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành và chi phí sản xuất để có
thể cạnh tranh. Vì vậy nếu có tiềm lực vốn lớn doanh nghiệp sẽ có thể có ưu thế trong
cạnh tranh trên thị trường nhờ có vốn mà doanh nghiệp có thể đi trước đầu tư vào
công nghệ mới để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường.
Nói chung thì với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cho dù đó là đầu tư vào dự
án kinh doanh hay là đầu tư để tham gia lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc mở rộng thị
trường thì yếu tố vốn là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại của hoạt động
đầu tư.
2.2. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn cũng có vai trò
quyết định đến, vì hoạt động sản xuất kinh doanh muốn được diễn ra thì cần phải có
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công nhân… Vì vậy cần có vốn để đầu tư vào
những nhân tố sản xuất đó. Đồng thời vốn cũng có vai trò quyết định hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
10
Chuyên đề thực tập
Vòng quay của vốn sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty
nếu vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì điều đó chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty có hiệu quả vì vòng quay của vốn ở đây chính là nói lên vòng quay
của sản phẩm khi mà vốn được thu hồi càng nhanh chứng tỏ rằng sản phẩm được sản
xuất ra không bị tồn kho mà được tiêu thụ trên thị trường nhờ đó mà vốn không bị ứ

đọng mà luôn được luân chuyển nhờ đó sẽ tạo ra được nhiều doanh thu và lợi nhuận
cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhưng ngược lại khi mà vòng quay của vốn chậm thì nó sẽ phần nào nói lên
thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nó sẽ nói lên những khó khăn trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi mà sản phẩm sản xuất ra bị tồn kho không
tiêu thụ được. Nhưng vòng quay của vốn dài hay ngắn cũng tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố như lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đặc tính của sản phẩm. Vì có nhiều lĩnh vực
hoạt động mà cần có đầu tư lớn mà vốn thu hồi có thể kéo dài qua nhiều chu kỳ kinh
doanh như ngành xây dựng… thì cần phải đầu tư nhiều mà quá trình xây dựng lại diễn
ra dài ngày lên vòng quay vốn của ngành sẽ dài hơn nhưng cũng có những ngành mà
trong một chu kỳ sản xuất thì vốn được chu chuyển nhiều lần đặc biệt trong những
ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm nên trong những ngành này vốn có
vòng quay càng ngắn thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty càng cao. Nhưng
nói chung dù trong ngành nào thì nếu có vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì càng có
hiệu quả.
Quy mô của vốn cũng sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì nếu có
quy mô vốn lớn, tiềm lực vốn mạnh thì doanh nghiệp càng có nhiều điều kiện để trang
bị máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nhờ đó mà có thể nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm nhờ đó sẽ tạo được ưu thế cạnh
tranh trên thị trường cho doanh nghiệp trước các doanh nghiệp khác. Nhờ có vốn mà
doanh nghiệp cũng có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị trường, quảng bá sản
phẩm rộng rãi hơn trên thị trường… Vì khi mà có sản phẩm chất lượng tốt và giá cả
hấp dẫn rồi thì vẫn chưa đủ mà thêm vào đó thì khâu xúc tiến thị trường là rất quan
trọng nó quyết định đến sự thành công của sản phẩm nó sẽ góp phần làm cho mọi
người biết về sản phẩm để có thể mua sản phẩm. Nhưng để làm được những việc như
tăng chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, xúc tiến thị trường thì cần phải có vốn.
Nhìn chung thì vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là rất quan
trọng ngoài yếu tố con người ra thì vốn là rất quan trọng nó quyết định đến hiệu quả
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A

11
hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, nói lên sự hiệu quả trong hoạt động của
doanh nghiệp.
2.3. Đối với việc tăng tài sản của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp cũng chính là lượng vốn mà doanh nghiệp có, ở đây tài
sản chính là biểu hiện về mặt vật chất của vốn. Số lượng tài sản mà doanh nghiệp có
cũng nói lên được tiềm lực của doanh nghiệp, nói lên quy mô của doanh nghiệp và
trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mà việc tăng tài sản
của doanh nghiệp luôn được doanh nghiệp tiến hành qua các kỳ sản xuất kinh doanh,
nó được tiến hành thường xuyên liên tục trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng việc tăng tài
sản của mỗi doanh nghiệp cũng cần phải có vốn vì tài sản ở đây là trang thiết bị máy
móc nhà xưởng… đều cần có vốn.
Nguồn vốn sẽ quyết định đến khả năng mua sắm tài sản mới của công ty. Việc
mua sắm tài sản mới sẽ góp phần làm tăng tài sản của công ty nhưng để có thể mua
được tài sản mới thì công ty cần có được một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp một
khi muốn mua sắm thêm tài sản mới để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của
công ty, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì điều đầu tiên là phải cân nhắc tới
số lượng vốn mà doanh nghiệp hiện có và có thể huy động để mua sắm, việc mua sắm
tài sản mới này cũng như là một dự án đầu tư vậy do vậy mà yếu tố vốn có vai trò
quyết định đến việc đầu tư mua sắm tài sản mới.
Việc mua sắm tài sản để thay thế các tài sản cũ hỏng không thể dùng được nữa
cũng thường được diễn ra trong mỗi doanh nghiệp điều này cũng làm ảnh hưởng tới
nguồn vốn của doanh nghiệp vì việc mua sắm tài sản để thay thế này cũng cần có vốn
để tiến hành.
Nói tóm lại dù hoạt động nào trong doanh nghiệp thì cũng cần có vốn để hoạt
động, vốn như là dòng máu trong cơ thể để cho công ty có thể hoạt động được suôn
sẻ. Vốn có vai trò quan trọng quyết định đến mọi hoạt động trong doanh nghiệp từ
hoạt động đầu tư mua sắm tài sản mới hay là đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh mới
cũng như các hoạt động thường xuyên là hoạt động sản xuất kinh doanh.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.

Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
12
Chuyên đề thực tập
Việc huy động vốn trong doanh nghiệp cũng có những khó khăn, thuận lợi nhất
định. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm mà việc huy động vốn trong doanh nghiệp có thể
được tiến hành thuận lợi hay không. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới khả
năng huy động vốn cho doanh nghiệp. Đó là những nhân tố sau.
Quy mô của doanh nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới
khả năng huy động vốn của doanh nghiệp vì thứ nhất nếu quy mô của doanh nghiệp
lớn thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn so với doanh nghiệp
có quy mô nhỏ vì khi doanh nghiệp có quy mô lớn điều đo đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp làm ăn với quy mô lớn doanh thu hàng năm sẽ lớn từ đó dẫn đến việc lợi
nhuận để lại sẽ lớn làm cho lượng vốn tíchluỹ qua các năm sẽ lớn hơn trái lại khi mà
quy mô doanh nghiệp nhỏ thì ta không thể mong chờ có được một mức doanh thu và
lợi nhuận cao để có được tích luỹ vốn lớn đưa vào đầu tư được. Từ đó mà khả năng
huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của những doanh nghiệp lớn luon có ưu thế
so với các doanh nghiệp nhỏ khác. Mặt khác là doanh nghiệp có quy mô lớn điều đó
cũng đồng nghĩa với việc giá trị tài sản mà doanh nghiệp có sẽ lớn hơn so với các
công ty vừa và nhỏ đây là một thuận lợi lớn cho các công ty lớn khi đi vay tín dụng
ngân hàng vì khi đi vay tín dụng ngân hàng thì bao giờ ngân hàng cũng căn cứ vào giá
trị tài sản mà công ty có để cho vay vốn, ta không thể vay vốn với số lượng lớn khi
mà phần giá trị tài sản của công ty nhỏ bé. Vì vậy mỗi khi đi vay tín dụng ngân hàng
các công ty lớn với giá trị tài sản lớn của mình có thể đem ra thế chấp đêểvay được số
lượng vốn lớn cần thiết để cung cấp vốn cho những hoạt động đầu tư của mình nhưng
tráilại với các công ty vừa và nhỏ thì việc vay tín dụng ngân hàng một khối lượng vốn
lớn là không dễ dàng khi mà giá trị tài sản mà công ty có chưa nhiều nên chưa thể tạo
được lòng tin đối với ngân hàng để cho vay. Một điểm mạnh nữa của những doanh
nghiệp có quy mô lớn là doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì thường hoạt động trong
nhiều lĩnh vực, hoạt động lâu trên thị trường nên có được lòng tin của khách hàng và

các đối tác nên họ có thể tiến hành vay tín dụng thương mại từ các đối tác cũng trở
lên dễ dàng. Họ có thể thoả thuận với bên đối tác kể cả bên cung cấp và bên phân phối
cho vay những khoản vay tín dụng thương mại một cách dễ dàng hơn điều đó sẽ tạo
lợi thế cho họ trong việc huy động vốn. Một doanh nghiệp có quy mô vốn lớn cũng có
thuận lợi hơn các công ty vừa và nhỏ khác trong việc vay vốn từ kênh huy động vốn
phát hành cổ phiếu hay trái phiếu vì muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ra thị
trường thì điều đầu tiên cần phải đáp ứng được là quy mô vốn của doanh nghiệp phải
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
13
đủ lớn để có thể phát hành trái phiếu nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp. Khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì cũng đảm bảo lòng tin đối với những
nhà đâầutư khi mà các công ty lớn định phát hành trái phiếu, rõ ràng khi phải lựa chọn
giữa hai loại trái phiếu thứ nhất là của một công ty vừa và nhỏ và một bên là của một
công ty lớn thì chúng ta thường có xu hướng chọn trai phiếu của doanh nghiệp có quy
mô lớn tất nhiên sự lựa chọn này còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như là uy tín của
doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động của doanh
nghiệp… Với doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì nguồn quỹ dự phòng mà công ty
có chắc chắn cũng sẽ lớn điều đó thuận lợi cho doanh nghiệp khi muốn huy động vốn
từ nguồn này khi mà doanh nghiệp thiếu vốn họ có thể tạm thời dùng nguồn vốn của
quỹ dự phòng này để bù đắp vào chỗ thiếu và đến cuối kỳ sẽ hoàn trả vào.
Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới khả năng huy động vôn của doanh nghiệp
chính là lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
mà có tỷ suất lợi nhuận cao, thị trường lớn và ổn định thì khả năng huy động vốn
cũng sẽ cao hơn. Đúng vậy khi mà hai doanh nghiệp có cùng quy mô thì yếu tố lĩnh
vực hoạt động sẽ quyết định đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp rõ ràng là
công ty nào đang hoạt động trong những ngành mà có lợi nhuận cao, những ngành
hấp dẫn thì sẽ thu hút được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm từ đó mà dẫn đến khả năng
huy động vốn cũng sẽ cao hơn còn trái lại doanh nghiệp doanh nghiệp nào hoạt động
trong lĩnh vực mà lợi nhuận thấp, chi phí cao thì việc thu hút vốn, thu hút các nhà đầu

tư thường là khó khăn hơn. Thêm vào đó thì việc hoạt động trong những lĩnh vực kinh
doanh mới là một ưu thế lớn cho các doanh nghiệp khi thu hút đầu tư, vì khi một
ngành mới xuất hiện chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia vào nên thị trường còn rất lớn
do vậy mà doanh nghiệp sẽ dễ dàng chiếmlĩnh thị trường từ đó mà có được doanh thu
và lợi nhuận lớn, dễ dàng huy động vốn từ nội bộ. Đến khi các công ty khác bắt đầu
quan tâm vào lĩnh vực mới này thì doanh nghiệp đã nắm chắc được thị trường từ đó
tạo được ưu thế trước các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh, dễ dàng thu hút các
nhà đầu tư đầu tư vào doanh nghiệp hay tiến hành liên doanh góp vốn với doanh
nghiệp… lĩnh vực hoạt động ở đây cũng liên quan đến thị trường hoạt động và những
nhà cung ứng đối tác cho doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà một lĩnh vực hoạt động có thị
trường rộng lớn, tiềm năng thì khả năng thu hút vốn đầu tư vào đó là cao hơn rất
nhiều khi mà ta hoạt động trong một ngành mà thị trường nhỏ hẹp không thu hút được
sự quan tâm của những nhà đầu tư nên khả năng thu hút vốn đầu tư rất hạn chế. Còn
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
14
Chuyên đề thực tập
việc các nhà cung ứng đối tác cũng quan trọng vì nó quyết định đến các khoản vay tín
dụng thương mại của doanh nghiệp.
Một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp
chính là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi mà doanh nghiệp đang
hoạt động tốt, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp sẽ thuận lợi hơn rất nhiều đối với những doanh nghiệp làm ăn đình đốn. Khi
mà doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả điều đó đồng nghĩa với
việc vòng quay của vốn được rút ngắn, vốn không bị ứ đọng làm cho vốn liên tục
được đầu tư tiếp tục làm tăng giá trị đồng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng
đồng nghĩa với việc doanh thu và lợi nhuân của công ty sẽ lớn làm cho phần lợi nhuận
để lại của công ty lớn thi fsẽ dạo được nhiều tích luỹ hơn cho doanh nghiệp, tao lên số
lượng vốn chủ sở hữu được gia tăng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao thì uy tín
của doanh nghiệp càng lớn càng thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm, chú ý từ đó

sẽ dễ dàng hơn khi mà kêu gọi các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, khi mà hiệu quả sản
xuất kinh doanh cao thì việc đi vay tín dụng ngân hàng và vay tín dụng thương mại
cũng trở lên dễ dàng hơn vì khi sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao tạo được lòng
tin đối với những nhà cho vay từ đó mà dễ dàng huy động vốn vào để đầu tư vào
những dự án kinh doanh của mình. Còn trái lại khi mà sản xuất kinh doanh không đạt
hiệu quả, vốn bị ứ đọng không lưu thông được thì doanh nghiệp khó có khả năng huy
động vốn lớn vì không thu hút được sự quan tâm của những nhà đầu tư, không tạo
được niềm tin về khả năng thanh toán tới những nhà cho vay do vậy mà khó khăn hơn
khi đi vay.
Uy tín của doanh nghiệp cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà doanh nghiệp có được uy tín trên thị
trường tạo được niềm tin đối với khách hàng và đối tác, các nhà đầu tư thì doanh
nghiệp sẽ dễ dàng hơn khi thu hút đầu tư thu hút vốn. Uy tín của doanh nghiệp nhiều
khi còn quan trọng hơn cả hiệu quả sản xuất kinh doanh hay quy mô của doanh
nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư vì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là sự
biểu hiện tại những thời điểm nhất định, không doanh nghiệp nào là có thể hoạt động
sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao trong suốt thời gian dài cả, nhưng uy tín của
doanh nghiệp thì khác nó được xây dựng qua nhiều giai đoạn, phải được tạo dựng rất
lâu vì vậy mà uy tín của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp huy
động vốn. Khi mà doanh nghiệp có uy tín lớn thì việc phát hành trái phiếu hay cổ
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
15
phiếu ra thị trường tài chính thì sẽ được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà đầu tư
trước những doanh nghiệp khác chưa có uy tín, hay uy tín còn chưa nhiều. Uy tín của
doanh nghiệp như là một tài sản vô hình, nó được xây dựng qua thời gian, qua quá
trình hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường, nó như là thương hiệu của doanh
nghiệp trên thị trường.
Một nhân tố nữa ảnh hưởng tớikhả năng huy động vốn của doanh nghiệp chính là
tình hình thị trường. Rõ ràng khi mà thị trường ổn định không có biến động, khủng

hoảng thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ tốt hơn nhiều khi mà tình hình
thị trường biến động hay trở lên xấu đi. Khi mà tình hình thị trường phát triển ổn định
thì các nhà đầu tư sẽ mở rộng đầu tư quan tâm nhiều đến lĩnh vực kinh doanh của
doanh nghiệp cũng như bản thân doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp sẽ dễ dàng huy
động vốn từ các nhà đầu tư, kêu gọi vốn từ thị trường, vay vốn của các đối tác, nhưng
mà khi thị trường diễn biến xấu đi, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp từ đó các nhà đầu tư
sẽ thu hẹp đầu tư dẫn đến việc huy động vốn của doanh nghiệp sẽ không thể được
diễn ra một cách dễ dàng khi mà doanh nghiệp cũng sẽ phải thu hẹp hoạt động, doanh
thu và lợi nhuận giảm xuống là cho nguồn vốn nội bộ cũng sẽ giảm theo khiến cho
khả năng huy động vốn bị ảnh hưởng.
Một nhân tố nữa ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp đó là cớ
chế chính sách của nhà nước. Khi mà nhà nước có chính sách thông thoáng, khuyến
khích các doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp
cận thị trường vốn. Vì rõ ràng dù doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hay nhỏ, hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh nào… thì đều hoạt động trong khuôn khổ cơ chế chính sách
của nhà nước vì vậy mà cơ chế chính sách của nhà nước là yếu tố rất quan trọng giúp
cho doanh nghiệp có thể phát triển được hay không. Mỗi một cơ chế chính sách mà
nhà nước đưa ra đều có ảnh hưởng nhất định tới doanh nghiệp. Khi mà chính sách đó
đưa ra hợp lý, phù hợp với thị trường, phù hợp với tiến trình phát triển thì sẽ tạo điều
kiện cho doanh nghiệp phát triển, khuyến khích được các doanh nghiệp phát triển.
Đặc biệt là những chính sách về thị trường tài chính và tiền tệ, chính sách về thuế thu
nhập doanh nghiệp… nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới doanh nghiệp, khi mà chính sách
này phù hợp nó sẽ khuyến khích được doanh nghiệp phát triển, tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp có thể huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh
nghiệp. Nhưng khi mà những chính sách này đưa ra không phù hợp, hạn chế thị
trường, hạn chế khả năng phát triển của doanh nghiệp thì nó sẽ làm cho doanh nghiệp
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
16
Chuyên đề thực tập

không thể phát triển được khiến cho khả năng huy động vốn của doanh nghiệp bị hạn
chế, doanh nghiệp không thể phát triển được.
Nói tóm lại có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp. Nó có thể là nhân tố khách quan hay chủ quan nhưng cho dù nó là từ phía nào
thì tuỳ vào từng điều kiện cụ thể mà có tác động khác nhau tới khả năng huy động
vốn của doanh nghiệp, có thể nó tạo thuận lợi trong lúc này nhưng lại gây khó khăn
trong lúc khác vấn đề là doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với từng điều kiện
nhất định, tận dụng những thuận lợi mà các nhân tố này mang lại vào doanh nghiệp,
tuỳ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp mà có giải pháp huy động vốn cho hiệu
quả.
4. Các tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp.
Có rất nhiều tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp nhưng trong bài
viết này tôi xin nêu ra hai tiêu chí để đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp đó là.
Khả năng thanh toán hiện hành là mối quan hệ giữa tài sản lưu động doanh nghiệp
đối với nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng đảm bảo thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động của công ty. Những biện pháp cơ bản nhằm
cải thiện chỉ tiêu này phải nhằm vào việc gia tăng nguồn vốn ổn định (vốn chủ sở hữu
và nợ dài hạn) thay cho các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, đây chỉ là chỉ tiêu phản
ánh một cách khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và mang tính chất hình thức.
Bởi vì, một khi tài sản của công ty lớn hơn nợ ngắn hạn cũng chưa chắc tài sản lưu
động của công ty đủ đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngăn hạn nếu như tài sản
này luân chuyên chậm, chăng hạn như tồn kho ứ đọng không tiêu thụ được, các khoản
phải thu ứ đọng không thu tiền được. Vì vậy khi phân tích khả năng thanh toán ngắn
hạn trên cơ sở đảm bảo của tài sản lưu động ta cần phân tích chất lượng của các yếu
tố tài sản lưu động của công ty qua các chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân, vòng quay hàng
tồn kho.
Khả năng thanh toán hiện hành = TSLĐ
Nợ ngắn hạn
Giá trị khả năng thanh toán hiện hành phải ≥ 1, nếu không thì doanh nghiệp không
có khả năng thanh toán, hệ số này phụ thuộc vào đặc tính của mỗi ngành. Giá trị tối

Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
17
ưu của tỷ số khả năng thanh toán hiện hành theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế
là từ 2 – 2,5.
Khả năng thanh toán nhanh là tỷ lệ được tính bằng cách chia các tài sản quay
vòng nhanh cho tổng nợ ngắn hạn. Nó cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn
hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Tồn kho
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng doanh nghiệp có thể thanh toán ngay các khoản
nợ ngắn hạn, căn cứ vào những tài sản lưu động có khả năng chuyển thành tiền một
cách nhanh chóng. Không có cơ sở để yêu cầu chỉ tiêu này phải lớn hơn 1 vì trong
các khoản nợ ngắn hạn, có những khoản đã và sẽ đến hạn ngay thì mới có nhu cầu
thanh toán nhanh, những khoản chưa đến hạn chưa có nhu cầu thanh toán ngay.
5. Các kênh huy động vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận.
5.1. Kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp.
Có rất nhiều kênh huy động vốn cho doanh nghiệp nó có thể là từ nội bộ doanh
nghiệp hay là đi vay bên ngoài nhưng cho dù nó có nguồn gốc ở đâu thì doanh nghiệp
đều phải có những giải pháp để huy động sao cho hiệu quả. Trong đó kênh huy động
vốn từ nội bộ doanh nghiệp là một kênh huy động vốn mà được các doanh nghiệp
thường xuyên áp dụng. Trong kênh huy động vốn này nó bao gồm các nguồn sau đây.
5.1.1. Lợi nhuận để lại của công ty.
Lợi nhuận để lại chính là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ sản xuất, sau khi đã trừ đi phần chi phí sản
xuất, thuế thu nhập doanh nghiệp, phần chia cổ tức… Đây là một trong các nguồn
vốn nội bộ quan trọng nhất. Lợi nhuận để lại dùng để tái đầu tư vào việc thay thế và
đầu tư mới vào máy móc thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại,
tuy nhiên để có nguồn vốn này các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Lợi nhuận

để lại của doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
18
Chuyên đề thực tập
nhuận để lại của doanh nghiệp có thể là lợi nhuận gộp, lợi nhuận trước thuế, lợi
nhuận sau thuế và lợi nhuận để lại.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận để lại là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và
khá hấp dẫn của các doanh nghiệp vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự
phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận để lại
sẽ làm giảm bớt tiền lãi cổ phần (cổ tức) của các cổ đông nhưng bù lại họ có quyền
sở hữu cổ phần tăng lên của công ty.
Chính vì vậy mà việc huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của công ty có
những ưu điểm sau đây.
Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ lợi nhuận để lại của công ty là việc huy động
vốn từ phần lợi nhuận để lại của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt
được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn lợi nhuận
để lại này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ
đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ
không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho
việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho
phát hành cổ phiếu…
Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có
phần vốn từ nguồn lợi nhuận để lại này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay
từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn
nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp,
những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng
buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu
những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ…
Ưu điểm thứ ba của nguồn vốn này là nó làm tăng vốn chủ sở của doanh nghiệp vì

phần vốn từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp này là thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp, nên khi doanh nghiệp quyết định đưa nó vào đầu tư cho quá trình sản xuất có
sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, tăng tài sản cho doanh nghiệp nhờ đó
sẽ làm tăng quyền sở hữu cổ phần của công ty với những công ty là công ty cổ phần.
Nhưng bên cạnh những ưu điểm đó thì nguồn vốn được huy động từ lợi nhuận để
lại cũng có những nhược điểm nhất định đó là.
Thứ nhất là do phần lợi nhuận để lại này hay là nguồn vốn huy động từ nguồn này
phụ thuộc rất nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
19
vậy mà khi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không tốt thì
nguồn vốn huy động sẽ không nhiều. Bên cạnh đó nó còn phụ thuộc vào quy mô của
doanh nghiệp. Vì khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì doanh thu và lợi nhuận sẽ
lớn vì vậy nguồn vốn huy động được sẽ lớn còn ngược lại khi mà quy mô doanh
nghiệp nhỏ thì nguồn vốn huy động từ nguồn này là không nhiều.
Thứ hai là nó sẽ làm giảm lãi cổ phần chia cho các cổ đông. Vì khi mà ta quyết
định dùng phần lợi nhuận để lại này để tái đầu tư vào quá trình tiếp theo nó sẽ ảnh
hưởng tới lãi cổ phần của các cổ đông, phần lợi nhuận này càng được huy động nhiều
vào đầu tư sẽ càng làm giảm lãi cổ phần của các cổ đông nên có thể sẽ gặp phải sự
phản đối của các cổ đông.
5.1.2. Vốn dự phòng.
Đây là phần vốn chủ sở hữu được tích luỹ từ lợi nhuận để chi trả các khoản thua
lỗ có thể của doanh nghiệp hoặc dự phòng giảm giá tồn kho, dự phòng nợ phải thu
khó đòi…
Việc huy động vốn từ nguồn quỹ dự phòng này có những ưu điểm sau.
Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ quỹ dự phòng của công ty là việc huy động
vốn từ phần quỹ dự phòng của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được
chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn quỹ dự phòng này
mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm

giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không
phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát
hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành
cổ phiếu…
Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có
phần vốn từ nguồn quỹ dự phòng này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ
bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn
nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp,
những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng
buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu
những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ…
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
20
Chuyên đề thực tập
Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm như là khối lượng huy động được từ
nguồn này phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp vì doanh nghiệp có quy mô càng
lớn thì quỹ dự phòng sẽ nhiều trong khi với những doanh nghiệp nhỏ thì nguồn vốn
này có thể không nhiều.
Một nhược điểm nữa là khi dùng quỹ dự phòng vào làm vốn kinh doanh khi xảy
ra giảm giá hoặc kinh doanh thua lỗ ta sẽ không có nguồn để bù đắp.
5.1.3. Khấu hao.
Khấu hao là việc sử dụng tài sản cố định vào quá trình sản xuất, việc tính khấu
hao tuỳ thuộc vào từng công ty. Trong đó có nhiều cách tính khấu hao như.
Khấu hao đều là hình thức khấu hao bằng cách phân bổ chi phí mua sắm theo thời
gian sử dụng tài sản cố định. Chi phí khấu hao được xác định bằng cách chia giá trị
sổ sách của tài sản cho thời gian sử dụng tài sản cố định. Cách khấu hao này tạo ra
chi phí khấu hao cố định và bình quân theo thời gian.
Khấu hao nhanh có thể giúp cho doanh nghiệp sớm khôi phục tài sản cố định.
Theo phương pháp này, doanh nghiệp sẽ trích khấu hao nhiều vào các năm đầu sử

dụng tài sản, sau đó chi phí khấu hao giảm dần cho những năm kế tiếp.
Với đặc tính đó thì việc huy động vốn từ nguồn khấu hao có những ưu điểm sau.
Thứ nhất việc tính khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp sớm thu hồi được tài
sản cố định. Vì khi doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nhanh thì giá trị tài
sản cố định trong những năm đầu của quá trình sản xuất nhờ vậy mà trong thời gian
ngắn thì doanh nghiệp có thể thu hồi được lượng vốn đã bỏ ra để mua sắm tài sản cố
định, mặt khác khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được những thiệt hại
do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra. Nhất là đối với máy móc thiết bị và
công nghệ sản xuất khi mà hiện nay khoa học công nghệ thay đổi diễn ra từng ngày
thì máy móc thiết bị rất nhanh bị lạc hậu, lỗi thời và mất giá trị do vậy mà việc tính
khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp không những thu hồi được tài sản cố định
sớm mà còn tránh được những rủi ro từ việc thay đổi công nghệ gây ra.
Một ưu điểm nữa của phương thức huy động vốn từ nguồn khấu hao này là tiết
kiệm đầu tư thay thế tài sản hao mòn và đầu tư mới khác. Vì khi tài sản để lâu thì
không thể tránh được những hao mòn do cả vô hình và hao mòn hữu hình gây ra vì
vậy mà khi ta huy động vốn từ nguồn khấu hao tức là khấu hao nhanh sẽ giúp rút
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
21
ngắn thời gian thu hồi vốn, giảm được những hao mòn vô ích do thời gian gây ra nhờ
vậy mà tiết kiệm được khoản tiền đầu tư bù đắp những hao mòn.
Bên cạnh những ưu điểm đó thì phương thức huy động vốn này cũng có những
nhược điểm nhất định. Đó là việc tính khấu hao quá nhanh sẽ làm cho giá thành sản
phẩm tăng lên làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì khi tính khấu hao quá
nhanh tức là phần giá trị của tài sản cố định khi chuyển hoá vào giá thành sản phẩm
sẽ tăng lên do vậy mà làm tăng giá thành sản phẩm từ đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh
về giá cho sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó mà sẽ ảnh hưởng tới thì trường và
doanh thu của doanh nghiệp.
5.1.4. Tăng vốn.
Tăng vốn là việc tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bằng cách huy động vốn

từ các cổ đông cũ và mới. Việc tăng vốn này của doanh nghiệp không thể diễn ra
thường xuyên được vì ta không thể lúc nào cũng kêu gọi các cổ đông đóng góp thêm
vốn như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các cổ đông trong công ty. Mặt khác
khi huy động thêm vốn mới từ các cổ đông mới cũng sẽ gặp phải khó khăn khi mà
thêm cổ đông điều đó đồng nghĩa với việc làm giảm cổ tức của các cổ đông cũ.
Tuy nhiên việc huy động vốn từ việc huy đông vốn góp của các cổ đông có những
ưu điểm sau.
Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ việc huy động vốn của các cổ đông cũ và
mới của công ty là việc huy động vốn từ nguồn này của công ty sẽ làm giảm chi phí
cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn
từ nguồn huy động thêm này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ
các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải
đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác
như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu
hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu…
Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có
phần vốn từ nguồn huy động sự góp vốn của các cổ đông này sẽ làm giảm tương ứng
phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên
ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện
rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ…
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
22
Chuyên đề thực tập
nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta
cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ…
Ưu điểm thứ ba của nguồn vốn này là nó làm tăng vốn chủ sở của doanh nghiệp vì
phần vốn từ tăng vốn này là vốn của doanh nghiệp do vậy mà nó làm tăng vốn chủ sở
hữu.
Tuy nhiên nó có những nhược điểm sau.

Không phải lúc nào cũng có thể huy động được vì việc huy động vốn từ các cổ
đông mới không phải là dễ dàng nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố thứ nhất là cần
phải có sự đồng ý của các cổ đông hiên thời của công ty. Rõ ràng khi mà kêu gọi
thêm cổ đông mới gia nhập vào công ty thì sẽ có sự tranh chấp về quyền lợi giữa các
cổ đông cũ và mới khi mà phải xác định phương thức chia cổ tức cho các cổ đông cũ
và mới sao cho hợp lý, bên cạnh đó còn có sự xung đột về quyền lãnh đạo trong công
ty giữa các cổ đông vì vậy mà việc kêu gọi thêm các cổ đông mới vào công ty cần có
sự nhất trí của các cổ đông cũ. Thêm vào đó là việc muốn kêu gọi cổ đông mới gia
nhập vào công ty thì ngoài sự đồng ý của hội đồng cổ đông ra còn có điều kiện nữa là
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải tốt. Khi mà công ty có kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt thì mới có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư,
họ mới có thể tham gia vào công ty. Ngược lại khi mà công ty hoạt động không tốt thì
không dễ để kêu gọi đầu tư.
Một nhược điểm khác của phương thức này là việc tăng vốn bằng việc kêu gọi cổ
đông mới vào sẽ làm giảm lãi cổ tức chia cho các cổ đông. Thêm vào đó là việc kêu
gọi các cổ đông cũ đóng góp thêm vốn không phải lúc nào cũng làm được ngay cả
khi công ty đang hoạt đông tốt và có nhu cầu mở rộng.
5.2. Kênh huy động vốn từ bên ngoài.
Ngoài kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp thì kênh huy động vốn từ bên
ngoài doanh nghiệp là rất quan trọng vì khi mà nguồn vốn từ nội bộ đã bị hạn chế, bó
hẹp không thể phát triển thêm được nữa thì kênh huy động vốn từ bên ngoài này là
lối thoát tốt cho mỗi doanh nghiệp khi mà muốn huy động thêm vốn đầu tư vào các
dự án đầu tư của mình theo đó thì kênh huy động vốn bên ngoài này bao gồm các
kênh chủ yếu sau đây.
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
23
5.2.1. Phát hành cổ phiếu.
Là việc doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
để huy động vốn từ thị trường tài chính. Việc phát hành cổ phiếu này có thể là doanh

nghiệp mới phát hành lần đầu lên thị trường chứng khoán hoặc là phát hành thêm cổ
phiếu.
Khi mà nhu cầu vốn của doanh nghiệp không được đáp ứng bởi nguồn vốn nội bộ,
doanh nghiệp có thể thu hút nguồn vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Điều này sẽ
làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Có ba loại cổ phiếu: cổ phiếu có tên, cổ phiếu ưu tiên và cổ phiếu phổ thông. Phát
hành cổ phiếu sẽ làm giảm sở hữu của các cổ đông hiện tại của công ty cổ phần, do
vậy việc phát hành cổ phiếu phải được sự đồng ý của các cổ đông.
Việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn có những ưu điểm như là.
Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán sẽ huy động được lượng vốn
lớn. Vì khi mà doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán
sẽ thu hút được các nhà đầu tư quan tâm mua cổ phiếu của công ty do vậy mà lượng
vốn thu được từ việc phát hành cổ phiếu là tương đối lớn.
Một ưu điểm nữa của việc phát hành cổ phiếu lá nó sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu
cho doanh nghiệp. Vì khi mà doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra bên ngoài cũng gần
như việc doanh nghiệp kêu gọi thêm các cổ đông mới góp vốn vào công ty chỉ có
điều kháclà những người nắm giữ cổ phiếu này không nằm trong ban lãnh đạo công
ty. Nhờ có lượng vốn lớn này mà doanh nghiệp sở hữu thêm được một lượng vốn lớn
do vậy mà vốn chủ sở hữu của công ty được tăng lên. Việc phát hành cổ phiếu này
vừa làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty vừa giúp cho doanh nghiệp có được vốn để
đầu tư vào các dự án kinh doanh hay mua sắm tài sản cố định mới… Vừa làm giảm
tranh chấp về quyền lãnh đạo khi mà những nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu này không
nằm trong ban lãnh đạo công ty.
Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm sau.
Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán dù là phát hành mới hay là
phát hành thêm thì nó đều gây tốn kém và mất thời gian. Vì khi muốn phát hành cổ
phiếu thì công ty phải tiến hành những khâu chuẩn bị nhất định, tiến hành xin giấy
phép với nhà chức trách và cũng phải tiến hành khảo sát thị trường, xem phản ứng
của các nhà đầu tư với cổ phiếu của công ty. Do vậy mà nó sẽ gây tốn kém cho công
Nguyễn Mạnh Dũng

lớp: kế hoạch 45A
24
Chuyên đề thực tập
ty. Thêm vào đó nó cũng phải tiến hành lâu dài vì ta không thể tiến hành nhanh chóng
được.
Một nhược điểm nữa là nó sẽ làm giảm giá trị thị trường của cổ phiếu của công ty
với những công ty đã tham gia thị trường chứng khoán thì khi mà phát hành thêm cổ
phiếu cũng có nghĩa là làm tăng lượng cung cổ phiếu của công ty nó sẽ rất dễ dẫn đến
làm cho các cổ phiếu cũ và những cổ phiếu mới lên sàn bị giảm giá từ đó mà dẫn đến
làm cho uy tín của doanh nghiệp bị suy giảm nếu như tình trạng đó kéo dài.
Việc phát hành cổ phiếu dù là mới hay là phát hành thêm cũng làm giảm sở hữu
của các cổ đông cũ của công ty. Vì khi phát hành cổ phiếu ở đây cũng chính là phần
sở hữu của các cổ đông trong công ty giảm xuống và nhường quyền sở hữu đó cho
các cổ đông khác.
Việc phát hành cổ phiếu thì thường có quy định về mặt pháp lý. Vì nhà nước cần
có những chế tài quản lý để tránh những tình trạng các công ty phát hành quá nhiều
cổ phiếu trong khi lượng vốn chủ sở hữu không đủ nó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp
phải rủi ro khi đầu tư. Vì vậy việc phát hành cổ phiếu này không phải lúc nào công ty
cũng có thể tiến hành được.
5.2.2. Góp vốn hiện vật.
Là việc tăng vốn cho doanh nghiệp bằng việc tăng lượng vốn bằng hiện vật nhờ
sự đóng góp của các cổ đông hoặc đối tác. Đó là việc góp vốn bằng hiện vật như là
nhà xưởng, máy móc thiết bị… Nó cho phép doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu sử dụng
vốn tức là làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp nhưng nó không mang lại
phương tiện tiền tệ cho doanh nghiệp.
Việc góp vốn hiện vật này có ưu điểm là làm tăng tài sản cố định của doanh
nghiệp mà doanh nghiệp không phải bỏ vốn ra mua. Vì khi mà việc góp vốn bằng
hiện vật này là nhà góp vốn đem những tài sản của mình góp vào công ty, và công ty
sẽ đánh giá xem phần tài sản đó đáng giá bao nhiêu để từ đó ghi nhận cho người góp
vốn. Việc góp vốn bằng hiện vật không những làm tăng tài sản cố định của doanh

nghiệp mà nó còn làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên cũng có những nhược điểm là việc góp vốn bằng hiện vật này không
làm tăng được vốn lưu động cho doanh nghiệp.
Nguyễn Mạnh Dũng
lớp: kế hoạch 45A
25

×