SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi thấy:
môn hóa học trong trường phổ thông là môn khó, nếu không có những bài giảng
và phương pháp hợp lí, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm cho HS thụ động
trong việc tiếp thu, cảm nhận. Để môn học không còn mang tính đặc thù khó
hiểu tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy - học môn hóa học ở trường
THPT bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học”
với mục đích làm cho môn hóa học ngày càng dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với
đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Hiện nay đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hóa
học, ngày càng lạnh nhạt với các giá trị thực tiễn của hóa học. Do đó tôi chọn đề
tài trên là nhằm giúp học sinh của mình hiểu được các hiện tượng tự nhiên,
tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học
trong các câu ca dao-tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong
thực tiễn đời sống hàng ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không
gây nhàm chán , xa lạ lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng
thú trong môn học. Đó là mục đích thôi thúc tôi tìm tòi, nghiên cứu sáng kiến
trên.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
• Các phương pháp dạy học tích cực.
• Các bài dạy trong chương trình THPT.
• Tình hình thực tiễn ở địa phương.
• Học sinh bậc trung học phổ thông, đặc biệt là học sinh trường THPT Đồng
Xoài (nơi tôi trực tiếp giảng dạy).
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 1
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Tìm tòi các câu hỏi thực tiễn, các câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, các
câu ca dao mang hàm ý khoa học hóa học, các bài tập thực tiễn…Hệ thống lại
và trình bày từng vấn đề cụ thể, cách áp dụng vào từng bài học cụ thể.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trong quá trình học tập, giảng dạy và nghiên cứu kiến thức này tôi tập trung
giải quyết các vấn đề sau:
- Một là nghiên cứu kĩ lý thuyết trong sách giáo khoa.
- Hai là nghiên cứu tình hình thực tiễn ở địa phương để đưa ra những câu hỏi sát
với thực tế giúp học sinh dễ nhận thấy và nắm được vấn đề.
- Ba là nghiên cứu khả năng tiếp thu của học sinh trường THPT Đồng Xoài để
có những cách trình bày thật dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Bốn là vận dụng phương pháp giải bài tập vào thực tiễn giảng dạy của mình,
học tập của học sinh, cũng như thu thập ý kiến phản hồi từ học sinh và đồng
nghiệp, rút kinh nghiệm sữa chữa, bổ sung, hoàn thiện hơn.
B: ĐẶT VẤN ĐỀ
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều
coi là chiến lược của dân tộc mình .Vì thế đại hội lần IX, Đảng cộng sản Việt
Nam trong nghị quyết ghi rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của
một dân tộc, một quốc gia phải nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó.
Nêu về tầm quan trọng của giáo dục cho thế hệ trẻ nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói:“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần công lớn công học tập của các em”.
Trước khi Người ra đi, trong di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh có dặn: “Phải
giáo dục thế hệ trẻ để cho họ trở thành người vừa hồng vừa chuyên”.
Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển
như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo
dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà
còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang
tính giáo dục, vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng hướng
thiện khoa học.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 2
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Phân môn hoá học trong trường trung học phổ thông giữ một vai trò
quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích
của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho
học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học,
giờ thực hành... của hoá học. Học hoá để hiểu, giải thích được các vấn đề thực
tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hoá của các chất
bằng các phương trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở
phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hoá học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến
đời sống, tinh thần của con người...
Để đạt được mục đích của học hoá học trong trường phổ thông nói
chung,thì giáo viên dạy hoá học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do
vậy, ngoài những hiểu biết về hoá học, người giáo viên dạy hoá học còn phải
có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hoá học
của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng
kiến kinh nghiệm (SKKN) này, tôi có đề cập đến một khía cạnh “Nâng cao
hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực
tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích góp phần sao cho học sinh hóa
học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học… Để
hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”.
III/ THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1/Thực trạng:
Trước tình hình học hoá học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và
đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để
đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi
trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng đồng
trên toàn thế giới, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập
nhật và mới mẽ,đảm bảo: tính khoa học – hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và
giáo dục kỹ thuật tổng hợp;tính hệ thống sư phạm.
Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những
quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến thức không đồng nhất .
* Thực tế giảng dạy cho thấy:
Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nếu
không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò
dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận.Đã có hiện tượng
một số bộ phận học sinh không muốn học hoá học,ngày càng lạnh nhạt với giá
trị thực tiễn của hoá học.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 3
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục: Chưa đặt
ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt
cùng một cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không
ít. Do phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm
nhận, truyền thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh
chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức hoá học.
2/ Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên để việc giảng dạy môn hoá học
đạt hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp
trong các bài giảng hoá học:
Một trong những điểm tôi đã làm là “Nâng cao hiệu quả dạy và học
môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học”. Có những vấn đề hoá học có thể giúp học sinh giải thích những hiện
tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những
dụng ý khoa học hoá học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trư ớc để
lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những
kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích
thích tính chủ động,sáng tạo, hứng thú trong môn học;làm cho hoá học không
khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp.
Trong phạm vi đề tài “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học
bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” tôi
không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề có trong thực tiễn mà chỉ nêu lên
một vài suy nghĩ, đề suất của cá nhân coi đó là kinh nghiệm qua một số ví dụ
minh hoạ, với mong muốn góp phần tạo ra và phát triển phương pháp dạy hoá
học hiệu quả cao hơn qua các bài giảng hoá học.
C: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học, tôi đã thấy rằng: “Nâng cao hiệu
quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có
liên quan đến bài học”sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê; học sinh hiểu
được vai trò và ý nghĩa thực tiễn trong học hoá học.Để thực hiện được, người
giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm
hiểu,tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng đối tượng học
sinh ở thành thị, nông thôn …; đôi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của
đối
tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có khôi hài nhưng sâu
sắc,vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá học. Tuy nhiên, thời gian
giành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời sống
không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống ”.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 4
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
I/ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
“Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các
hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách:
1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày, thường sau
khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào
những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt
gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng
đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các
phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có
thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn
bài học.Giáo viên có thể giải thích để giải toả tính tò mò của học sinh.Mặc dù
vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.
3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho
lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất
ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng
ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá
trình học tập.
4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua
các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi
làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích.Vì muốn giải được bài toán hoá đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động,
hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua
những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ
thời gian nào trong suốt tiết học.Hướng này có thể góp phần tạo không khí học
tập thoải mái.Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá.
6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh
đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình …sau khi đã học bài giảng. Cách
nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm
cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt
gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả
năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn.
7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên
hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho
học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập
theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với
thực tiễn hàng ngày.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 5
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
8. Ngoài việc giải thích những hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống
trong các tiết học hằng ngày, GV có thể đưa vào thành một chuyên đề để bồi
dưỡng HS giỏi và đưa các câu hỏi giải thích những hiện tượng thực tiễn liên
quan đến hóa học vào các buổi ngoại khóa, các cuộc thi kiến thức ở trường
nhằm tạo sự hứng thú, niềm say mê, thích tìm tòi khám phá của các em đối với
bộ môn hóa học vốn được cho khô khan.
II/ CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1/ Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương
tiện, nhiều cách như: Bằng lời giải thích, hình ảnh, đoạn phim, …có thể tiến
hành dạy trong hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu…Điều
này cần phụ thuộc vào điều kiện ở mỗi trường, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và
phong cách dạy khác nhau để huy động tối đa.Vì hiệu quả giáo dục với nội
dung đề tài này, có những kinh nghiệm có thể áp dụng cho người này nhưng có
những phong cách không thể áp dụng cho giáo viên khác.Vì phong cách dạy
“nó như tính cách của mỗi con người không thể ai cũng giống ai” nhưng
đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình. Mỗi giáo viên
khi giải thích các hiện tượng trong thực tiễn liên quan đến bài học cần lựa chọn
cách giải thích ngắn gọn ,dễ hiểu theo từng đối tượng học sinh để gây được
hứng thú đối với HS.
2/Một số ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng trong thực
tiễn Trong số hàng nghìn, hàng vạn hiện tượng, tình huống thực tiễn có thể áp
dụng:
a/ Một số ví dụ áp dụng trong các bài học:
* Ví dụ 1:Tại sao sau những cơn mưa có sấm chớp, đường xá, khu phố,
rừng cây … bầu trời xanh cũng như sạch quang, mát mẻ, trong lành hơn?
Do trong không khí có 20% O2 nên khi có sấm chớp tạo điều kiện:
3O 2
→ 2O3
Tạo ra một lượng nhỏ O3,O3 có khả năng sát trùng:
O3
→ O2 + O& (sát trùng)
Nên ngoài những hạt mưa cuốn theo bụi thì O3 là tác nhân làm môi trường sạch
sẽ và cảm giác tươi, mát.
* Ví dụ 2: Vai trò của Ozon trong đời sống và công nghiệp như thế nào?
Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các chất độc như:
Phenol, hợp chất Xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây
bệnh…có trong nước thải và Ozon có thể tác dụng với các ion kim loại (sắt,
thiếc, chì, mangan…) Biến nước thải thành nước sạch vô hại.
Trên tầng cao khí quyển 10 − 30km quanh Trái đất, Ozon tồn tại thành
một tầng khí quyển riêng, có khả năng hấp thụ tia tử ngoại phát ra từ mặt trời.
Vì các tia tử ngoại làm cho người, động thực vật bị đột biến gen, gây bệnh nan
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 6
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
y …Gần đây do công nghiệp phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động
cơ phản lực … thải vào khí quyển một lượng bụi và khí ô nhiểm, thì Ozon lại
góp phần oxi hoá chất gây ô nhiểm,cũng chính vì vậy tầng Ozon bị mỏng
dần.Trong vòng 50 năm gần đây lượng Ozon mỏng đi khoảng 1%, có một số
nơi tầng Ozon bị thủng và gây ra không ít hiện tượng như: bảo, lũ lụt, cháy
rừng, bệnh nan y…
Áp dụng: Đây là vấn đề có liên quan đế giáo dục môi trường và qua bài
học, học sinh hiểu được tầm quan trọng của Ozon, vừa có ý thức bảo vệ môi
trường và kích thích sự tìm hiểu về vấn đề này. Giáo viên có thể lựa chọn một
trong 2 VD trên đưa vào bài giảng về phần Oxi (lớp 10 ).
* Ví dụ 3: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn
(NaCl)?
Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc
đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100 oC.
Do nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời
gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ
mềm hơn và xanh hơn.
Áp dụng: Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không
để ý và nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong
mỗi buổi nấu ăn, góp phần tạo thêm kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực.
Có thể đưa hiện tượng này vào trong bài: Kim loại kiềm và một số muối quan
trọng của kim loại kiềm ( ở lớp 12.)
* Ví dụ 4: Vì sao cồn có thể sát khuẩn?
Cồn là dung dịch Ancol etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu rất cao,
có thể xuyên qua màng tế bào tiến sâu vào trong gây đông tụ protein làm cho tế
bào bị chết (Do protein là cơ sở sự sống của tế bào).
Thực tế thấy rằng chỉ có cồn 75% là có khả năng sát trùng tốt nhất, vì
nếu cồn > 75% thì nồng độ cồn quá cao làm choprotein bị đông tụ nhiều, làm
protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng hình thành một lớp vỏ cứng ngăn
không cho cồn thấm vào nên vi khuẩn không bị chết. Nếu cồn quá loãng (<
75%) thì hiệu quả sát trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế, cồn được sử dụng đại trà khi tiêm, rửa vết thương
… nhưng có ít người quan tâm tại sao lại dùng cồn?Trong khi học, nếu học
sinh được biết sẽ rất tốt cho cuộc sống.Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào
trong các tiết dạy về bài Ancol etylic (ở lớp 11 ).
* Ví dụ 5:Vì sao lại không dùng xăng pha chì nữa?
Xăng pha chì là thêm Tetraetyl chì có tác dụng tiết kiệm 30% xăng dầu
khi sử dụng. Nhưng khí cháy trong động cơ, chì oxit bám vào các ống xả, thành
xi lanh nên thực tế xăng còn hoà tan thêm vào Dibrom etan thì chì oxit sẽ bị
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 7
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
chuyển thành Chì bromua (PbBr2), dễ bay hơi, thoát ra khỏi xi lanh, ống xả,
thải vào không khí làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Vì chì sẽ ở trong môi trường khí, tồn tại trong thực vật, động vật nên khi
tiếp xúc với khí thải, động thực vật bị bệnhsẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khoẻ con người.Ngoài ra hơi Brom bay ra gây nguy hiểm tới đường hô hấp,
làm bỏng da. Hiện nay, nước ta đã không sử dụng xăng pha chì.
Áp dụng: Hiện nay, nước ta không còn sử dụng xăng pha chì nữa, nhưng
không ít một bộ phận học sinh và nhân dân không hiểu vì sao. Nên thông qua
bài học liên quan, giáo viên có thể làm rõ tại sao.Vấn đề này có thể xen trong
tiết dạy về dầu mỏ (ở lớp 11 ).
*Ví dụ 6: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”,câu này mang hàm
ý của khoa học hoá học như thế nào?
Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn tại
phương trình điện ly:
CaCO3
→ Ca 2+ + CO32− (*)
Khi nước chảy sẽ cuốn theo các ion Ca 2+ , CO32− , theo nguyên lý chuyển
dịch cân bằng hoá học thì cân bằng(*) chuyển dịch theo phía chống lại sự giảm
nồng độ Ca 2+ , CO32− (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn
dần.
Có thể giải thích bổ sung thêm nguyên nhân khác: Vì trong nước có lẫn
khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng: CaCO3 + CO2 + H 2O → Ca ( HCO3 ) 2 . Khi nước
chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần.
* Ví dụ 7: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ với những hình dạng
phong phú đa dạng như thế nào?
Trong đá, thông thường chủ yếu là CaCO3, khi trời mưa, trong không khí
có CO2 tạo môi trường axit làm tan được đá vôi, những giọt nước mưa rơi
xuống như vô vàn mũi dao nhọn, sắc khắc vào đá những đường nét khác nhau
CaCO3 + CO2 + H 2O → Ca( HCO3 ) 2
Và xuất hiện quá trình điện ly:
Ca ( HCO3 ) 2 → Ca 2+ + 2 HCO3−
CaCO3
→ Ca 2+ + CO33−
– Theo thời gian dần tạo ra các hang động khi nước có Ca(HCO3)2ở đất đá do
áp suất nhiệt độ đột nhiên thấp nên khi giọt nước nhỏ từ từ có tồn tại phương
trình:
Ca( HCO3 ) 2
→ CaCO3 ↓ + CO2 ↑ + H 2O
Như vậy lớp CaCO3 lưu lại ngày càng nhiều, dày gọi đó là nhũ có màu, hình
thù đa dạng.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 8
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy trong các hang động núi đá
(VD7) ; Ở những phiến đá có dòng chảy đi qua(VD6) Nếu không để ý, trong
xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít.Góp phần hiểu được dụng ý của khoa học
của câu tục ngữ, làm cho hoá học trở nên gần gủi, có hồn văn hơn.Giáo viên có
thể lựa chọn một trong hai VD để xen vấn đề này vào trong khi dạy đến phần
về muối CaCO3(ở lớp 12).
* Ví dụ 8: Cao dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng
đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao
sau này.
Do trong không khí có ~ 80% khí N 2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia
lửa điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
o
3000 C
N 2 + O2 →
2 NO
2 NO + O2 → 2 NO2
Sau đó:
Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa:
4 NO2 + O2 + 2 H 2O → 4 HNO3
HNO3 → H + + NO3−
Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6−7 kg N cho mỗi mẫu
đất.Ngày nay, người ta đã điều chế Ure[(NH2)2CO] từ không khí để chủ động
bón cho cây trồng.Trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân
bón và nhiệm vụ của nghành công nghiệp hoá chất “hướng về không khí đòi
lương thực” là càng lớn.
Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ
trong đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân đạm (ở lớp 11 ).
Tạo cho học sinh khu vực làm nông nghiệp có thể tiện kiểm nghiệm trong đời
sống, tự quan sát.
* Ví dụ 9: Tại sao nước máy lại có mùi clo?
Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo vào nước có tác dụng sát trùng do
clo tan 1 phần (gây mùi) và phản ứng 1 phần với nước:
H 2O + Cl2
→ HCl + HClO
Hợp chất HClO không bền có tính oxi hoá mạnh:
&
HClO
→ HCl + O
Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn.
* Ví dụ 10 : Cloramin là chất gì mà sát trùng được nguồn nước?
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 9
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Cloramin là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ
giải phóng cho ra khí Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO.
H 2O + Cl2
→ HCl + HClO
HClO có tính oxy hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim
trong vi sinh vật, làm cho vi sinh vật chết.
Cloramin không gây độc hại cho người dùng nước đã được khử trùng bằng chất
này.
* Ví dụ 11: Vì sao nước biển lại mặn?
Các con sông, suối, …Các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại
dương và hoà tan mọi vật thể có thể hoà tan. Do quá trình bay hơi, các nguyên
tố, hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, vị mặn của
nước biển chủ yếu do NaCl gây nên. Trong nước biển có khoảng hơn 80
nguyên tố, các halogen có nhiều trong nước biển, nguyên tố Br có trong nước
biển tới 99% tổng lượng tồn tại và chiếm 0,065% trong nước biển.
Áp dụng: GV có thể lựa chọn một trong 3 VD (9,10,11) để đưa vào bài:
clo (ở lớp 10 )
* Ví dụ 12: Tại sao khi nấu, xào thịt, đậu phụ không nên cho muối ăn
(chứa NaCl) vào quá sớm?
Vì trong đậu, thịt chứa protein (protit), vốn có tính keo khi gặp những
chất điện ly mạnh, sẽ bị ngưng tụ thành những “óc đậu” khi nấu, xào nếu như
cho muối ăn vào sớm, gây khó khăn cho thẩm thấu vào đậu, thịt và bị đông tụ
cứng lại không có lợi cho tiêu hoá…
* Ví dụ 13: Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi
nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại?
Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi
là sự đông tụ.Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun
nóng sẽ bị kết tủa.
Áp dụng: Giáo viên có thể chọn một trong 2 VD 12,13 để xen vào bài
giảng của phần về protit (lớp 12). Đây cũng là vấn đề thiết thực bắt gặp trong
cuộc sống và phục vụ thiết yếu trong việc chế biến thực phẩm.
* Ví dụ 14: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới
đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này?
Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có
chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2.Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học :
t
Ca ( HCO3 ) 2
→ 2CaCO3 ↓ + CO2 ↑ + H 2O
o
t
Mg ( HCO3 ) 2
→ 2MgCO3 ↓ + CO2 ↑ + H 2O
o
CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 10
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu,
đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau
mạnh là sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về nước cứng(ở lớp 12 ).
Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh hiểu
bản chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, học sinh có thể ứng dụng
trong đời gia đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm
tự làm
được.
* Ví dụ 15: Sherlock Homes đã phát hiện ra cách lấy dấu vân tay của tội
phạm lưu trên các vật ở hiện trường như thế nào chỉ sau một vài phút thí
nghiệm?
Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó
đem phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iod,
dùng đèn cồn để đun nóng phần đáy ống nghiệm.Đợi cho khí màu tím thoát ra
(I2) từ ống nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu).
Nếu bạn cất tờ giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện
tượng như trên.
Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ
lưu lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi
gặp hơi Iod cho màu nâu (chú ý hơi Iodrất độc không được ngửi).
Áp dụng: Đây là câu chuyện nêu lên ứng dụng của hoá học trong đời
sống, giúp học sinh hiểu biết nhiều hơn. Giáo viên có thể xen vào trong các bài
giảng về chất béo (ở lớp 12 ).
* Ví dụ 16: Vì sao tay một người dính cồn iod cầm bánh mì thì có chấm
xanh trên bánh?
Do cồn iod là hỗn hợp tan của Iod và Ancol etylic (C 2H5OH),Iod gặp
tinh bột tạo ra phức màu xanh dương.
Điều này cũng có thể giải thích khi bôi cồn iod lên phía trong quả chuối
xanh lại cũng có hiện tượng tương tự (do trong chuối xanh có tinh bột
(C6H10O5)n). Nhưng nếu là chuối chín thì không thấy hiện tượng này (do chuối
chín chuyển tinh bột thành đường Glucozo(C6H12O6).Người ta sử dụng tinh bột
để nhận biết iod và ngược lại.
* Ví dụ 17: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt?
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của
người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội
chuyển hoá một lượng tinh bột theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ,
glucozơ gây ngọt theo sơ đồ:
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 11
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Amilaza , H O
Mantaza , H O
→ C12 H 22O11
→ C6 H12O6
( C6 H10O5 ) n
2
TB
2
Mantozo
Glucozo
* Ví dụ 18:Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?
Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình
quang hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.
as
6nCO2 + 5nH 2O
→(C6 H10O5 ) n + 6nO2 ↑
clorophin
Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang
hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O 2 và thải ra khí CO2 làm cho
phòng thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2.
Áp dụng: GV có thể lựa chọn một trong ba VD 16,17,18 để đưa vào
trong bài dạy về tinh bột (ở lớp 12)
* Ví dụ 19: Dấm ăn là gì?Có ích gì?
Trong dấm ăn có vị chua vì có 3-5% là Axit axetic (CH3COOH). Dấm ăn
có tác dụng tạo vị chua và có tác dụng làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn và
tiêu hoá tốt, có khả năng tiêu độc, sát khuẩn.
Áp dụng: Dấm ăn là một thứ gia vị rất gần gũi trong đời sống, giáo viên
có thể xen vào trong bài giảng về axit axetic (ở lớp 11 ) để học sinh liên hệ
trong thực tế, hiểu biết về vai trò của dấm ăn đối với con người.
* Ví dụ 20: Vì sao không nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn?
Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số loại axit sẽ kết
hợp với axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric làm cho dạ dày đầy
hơi.
Một số loại hoa quả có hàm lượng Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp
với dịch vị, chất xơ và protein trong thức ăn, dễ tạo thành những hạt rắn, khó
tiêu hóa. Những hạt này hình thành sỏi ở dạ dày, ruột.
Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1−3 giờ.
*Ví dụ 21: Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đường sẽ thấy có kết tủa?
Trong sữa có thành phần protein gọi là Cazein. Khi vắt chanh vào sữa
làm tăng độ chua, tức làm giảm pH của dung dịch sữa tới pH đúng với điểm
đẳng điện của cazein thì chất này sẽ kết tủa.
Khi làm phomat, người ta cũng tách Cazein theo nguyên tắc tương tự và
cho lên men tiếp.
* Ví dụ 22: Vì sao nước rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì
chuyển sang màu đỏ?
Có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu
của dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi.
Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này.Trong chanh
có 7% axit citric.Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 12
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
đổi màu nước rau.Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa
chất kiềm canxi.
* Ví dụ 23: Vì sao sau khi ăn trái cây thì không nên đánh răng ngay?
Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới
được đánh răng. Tại sao vậy? Vì chất chua (axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết
hợp với những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các
kẽ răng và gây tổn thương lợi. Bởi vậy phải đợi đến khi lượng nước bọt trung
hòa axit trong trái cây, nhất là táo, cam, nho, chanh.
Ta đã biết thức ăn vào dạ dày phải lưu giữ lại từ 1−2 giờ. Nếu sau bữa
ăn, ta ăn ngay trái cây sẽ làm tăng thêm sự lưu trệ trong dạ dày.
* Ví dụ 24: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?
Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH).
Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
2 HCOOH + Ca (OH ) 2 → ( HCOO ) 2 Ca + 2H 2O
Áp dụng: Giáo viên có thể lựa chọn một trong 5 VD
(VD20,21,22,23,24) để đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (ở
lớp 11 ).
* Ví dụ 25: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO) hoặc nhiều khí
thiên nhiên(CH4…)và không có oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt?
Trong các giếng đào đặc biệt nhiều ở vùng đồng bằng thường có khí độc
CO, CH4… và không có O2. Mà người dân chúng ta hay có thói quen xuống
giếng thau giếng hoặc vì lấy gầu múc nước… Đã có nhiều trường hợp bị tử
vong một lúc nhiều mạng người vì gặp phải giếng có khí độc (CO) gây đông
máu, CH4…và không có O2 gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng
chết.Để tránh, tốt nhất không nên xuống các giếng đào, nếu có xuống phải đeo
bình oxi. Còn muốn biết có khí độc(CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên(CH 4…) và
không có O2 chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt … thả xuống nếu nó chết thì
chứng tỏ có khí độc.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng hay xảy ra, giáo viên nên đưa vào bài
giảng để nhắc nhở học sinh, cộng đồng …tránh những cái chết thương tâm.
Vấn đề này có thể xen vào bài dạy Cacbon hay hidrocacbon no (ở lớp 11 ).
* Ví dụ 26: Vì sao có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa
đen? Để dây bạc trắng sáng trở lại, người ta sẽ ngâm vào nước tiểu?
Người bị cảm trong cơ thể thường sinh ra những hợp chất dạng
sunfua(S2−) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có
ái lực mạnh với Ag nên xảy ra phản ứng tạo Bạc sunfua (Ag 2S) kết tủa màu
đen. Do đó loại được chất độc ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây bạc chuyển
thành màu đen.
Ag + − S − → Ag 2 S ↓
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 13
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ xảy ra phản ứng:
+
Ag 2 S + 4 NH 3 → 2 Ag ( NH 3 ) 2 + S 2−
Nên Ag2S bị hoà tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.
* Ví dụ 27: Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì
sao dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi?
Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua
(Ag2S) màu đen.
4 Ag + O2 + 2 H 2 S → 2 Ag 2 S ↓ +2 H 2O
Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion
Ag . Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít
nước cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn
lâu bị ôi thiu.
Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của bạc. Giáo viên có thể đưa
một trong 2 VD 26,27 vào bài về kim loại (ở lớp 12 ).
* Ví dụ 28: Teflon là chất gì?
Teflon có tên thay thế là: Poli(tetrafloetilen)[(−CF 2−CF2−)n]. Đó là loại
polime nhiệt dẻo, có tính bền cao với các dung môi và hóa chất. Nó độ bền
nhiệt cao, có độ bền kéo cao và có hệ số ma sát rất nhỏ. Teflon bền với môi
trường hơn cả Au và Pt, không dẫn điện.
Do có các đặc tính quý đó, teflon được dùng để chế tạo những chi tiết
máy dễ bị mài mòn mà không phải bôi mỡ (vì độ ma sát nhỏ), vỏ cách điện,
tráng phủ lên chảo, nồi,… để chống dính.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài polime (ở lớp 12 )
* Ví dụ 29: Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?
Do than đá tác dụng với khí O2 trong không khí tạo ra khí CO2, phản ứng
tỏa nhiệt.
+
C + O2 → CO2 ↑
∆H < 0
Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than
thì than tự bốc cháy.
* Ví dụ 30: Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu
than củi?
Do than củi xốp có tính hấp phụ mùi , nên hấp phụ được mùi khét của
cơm làm cho cơm đỡ mùi khê.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa một trong 2 VD 29,30 này vào bài C (lớp
11) , VD 30 còn có thể đưa vào bài Oxi lớp 10.
* Ví dụ 31: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết? Trong nông nghiệp,
đất đèn dùng để làm gì?
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 14
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua (CaC 2), khi tác dụng với
nước sinh ra khí axetilen và canxi hidroxit.
CaC2 + 2 H 2O → C2 H 2 ↑ +Ca (OH ) 2 (∆H < 0)
Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra andehit axetic (CH 3CHO). Các
chất này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm chết cá.
Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích
quả xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dấm dứa,
chuối, cà chua,… vào dịp cuối mùa đông, đầu mùa xuân.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Axetilen (ở lớp 11)
* Ví dụ 32: Vì sao trong công nghiệp thực phẩm, muối (NH 4)2CO3 được
dùng làm bột nở?
(NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc nướng
bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy thành các chất khí và hơi nên làm cho bánh
xốp và nở hơn.
0
t
( NH 4 ) 2 CO3
→ 2 NH 3 ↑ +CO2 ↑ + H 2O ↑
Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài muối cacbonat (ở
lớp 12).
* Ví dụ 33: Vài kỷ lục trong thế giới kim loại
• Kim loại có khối lượng riêng lớn nhất: Osmi (Os) với D = 22,7g/cm3.
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao nhất: Vonfram (W) với tnc = 34100C.
• Kim loại nhẹ nhất: Liti (Li) với D = 0,53g/cm3.
• Kim loại dẻo nhất: Vàng (Au)
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất: thủy ngân (Hg) với t nc =
−390C.
• Kim loại dẫn điện, dẫn nhiệt tốt nhất: Bạc (Ag)
• Kim loại được con người sử dụng làm công cụ sớm nhất: Đồng (Cu)
• Kim loại có trữ lượng lớn nhất: Nhôm (Al), chiếm 7% về khối lượng vỏ
trái đất.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Đại cương về kim loại (ở lớp
12).
* Ví dụ 34: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng
chổi quét mà nên rắc bột S lên trên?
Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là
một chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét
thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho quá
trình thu gom khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy
ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay
hơi.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 15
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Hg + S → HgS ↓
Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài học liên quan
đến Lưu huỳnh , hoặc tính chất hóa học của kim loại (ở lớp 12)
* Ví dụ 35: Nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế? Còn dây đồng
lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà?
Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của
nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là…… Do đó,
nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột
điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về
mặt kinh tế.Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh
hưởng lớn lắm.Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng đồng.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Tính chất vật lý
của kim loại (ở lớp 12)
* Ví dụ 36: Vì sao để bảo vệ vỏ tàu biển bằng thép, người ta gắn các tấm
kẽm vào phía ngoài vỏ tàu ở phần chìm trong nước biển?
Khi thép và kẽm cùng ở trong nước biển thì sẽ xuất hiện cặp pin hóa học
và có sự ăn mòn điện hóa.
Kẽm là cực âm, thép là cực dương và nước biển là dung dịch điện li.
Trong quá trình ăn mòn điện hóa thì kẽm sẽ bị ăn mòn. Do đó, vỏ tàu biển
được bảo vệ. Đây là phương pháp bảo vệ kim loại bằng phương pháp điện hóa.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong bài dạy liên quan
đến sự ăn mòn kim loại (lớp 12)
b/Một số VD có thể đưa vào chương trình bồi dưỡng HS giỏi hay các cuộc
thi kiến thức, các buổi ngoại khóa ở trường:
* Ví dụ 01: Làm thế nào để khắc được thuỷ tinh?
Muốn khắc thuỷ tinh, người ta nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra
cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ…cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi
nhỏ dung dịch HF vào thuỷ tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạo đi lớp sáp.
SiO2 + 4 HF → SiF4 ↑ +2 H 2O
Nếu không có dung dịch HF, ta có thay bằng dung dịch H2SO4 đặc và bột
CaF2(màu trắng).Nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùng
vật nhọn tạo hình, chữ… cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi rắc bột CaF 2
vào chổ cần khắc, cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứng
đặt lên trên khu vực khắc, sau 1 thời gian thuỷ tinh cũng sẽ bị ăm mòn những
nơi cạo lớp sáp.
CaF2 + 2 H 2 SO4 → Ca ( HSO4 ) 2 + 2 HF (dùng bìa cứng che)
Do:
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 16
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
SiO2 + 4 HF → SiF4 ↑ +2 H 2O
Áp dụng: Đây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh
doanh và sản xuất thuỷ tinh .Không những cung cấp cho học sinh phương pháp
khắc thuỷ tinh mà còn giải thích hiện tượng đó.Thậm chí đây là cơ sở cho việc
học nghề, khơi dậy niềm đam mê học tập và khám phá.
* Ví dụ 2: Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu?
“Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể (xương
động vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ tạo 1 phần thành khí
PH3(Photphin) khi có lẫn một chút khí P2H4 (Diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy
ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong không khí
P2 H 4
2 PH 3 + 4O2
→ P2O5 + 3H 2O
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa
càng tăng nên tính chất kịch tính.
Áp dụng: giải thích được hiện tượng trong đời sống “Ma trơi”.Tránh tình
trạng mê tín dị đoan,làm cho cuộc sống lành mạnh.
* Ví dụ 3: Tại sao phải ăn muối có Iod?
Ăn muối để bổ sung hàm lượng Iodcho cơ thể, trong cơ thể một người
trưởng thành có chứa 20 – 50mg Iod chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu
Iod trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến
đần độn, phụ nữ thiếu Iod dẫn dến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi
ngày phải đảm bảo cho cơ thể tiếp xúc với < 150 mcrogam Iod.
Áp dụng: vấn đề liên quan đến Iod giúp học sinh hiểu được vai trò tại
sao toàn dân phải ăn muối Iod. Giúp các em tự nhận thấy tầm quan trọng của
muối Iod, tăng tính hiểu biết hơn.
* Ví dụ 4: Vải khác nhau có giá trị khác nhau nên phân biệt như thế nào?
Căn cứ vào bản chất của các chất liệu làm nên vải, ta có thể nhận biết
cách đơn giản sau:
1/ Nếu vải làm bằng sợi bông: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu
vàng, có mùi như đốt giấy và tro có màu xám đậm.
2/ Nếu vải làm bằng sợi tơ tằm: Khi đốt sợi vải cháy chậm hơn vải sợi
bông, có mùi khét như đốt tóc, sợi tơ co cục, màu nâu đen, lấy tay bóp thì tan.
3/ Nếu vải làm bằng lông cừu (len lông cừu): Khi đốt bắt cháy không
nhanh, bốc khói, có mùi khét như đốt tóc và tạo thành những bọt phồng, rồi
vón cục có màu đen hơi óng ánh, giòn, bóp tan ngay.
4/ Nếu vải làm bằng sợi viscozơ: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa
màu vàng, có mùi như đốt giấy và tro có màu xám nhưng rất ít.
5/ Nếu vải làm bằng sợi axetat: Khi đốt sợi vải bắt cháy chậm ,thành giọt
dẻo màu nâu đậm, có hoa lửa, không bốc cháy thành ngọn lửa, sau đó kết thành
cục màu đen, dể bóp nát.
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 17
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
6/ Nếu vải làm bằng sợi poliamit(nilon): Khi đốt sợi vải không cháy
ngọn lửa mà co vón lại và cháy thành từng giọt dẻo màu trắng, có mùi của rau
cần, khi nguội thì biến thành cục cứng có màu nâu nhạt, bóp khó nát
Áp dụng: có tác dụng cung cấp cho học sinh phương pháp trong đời
sống nhận biết các chất liệu vải phục vụ cho mục đích sử dụng, điều này cũng
rất thực tiễn.
* Ví dụ 5: Hoá chất trong cơ thể của con người như thế nào?
Các nhà khoa học đã tính được rằng:
• Lượng nước trong cơ thể của mỗi người chúng ta chỉ đủ giặt một
chiếc áo sơ mi.
• Lượng Fe đủ để làm một cái đinh 5 phân.
• Lượng đường chỉ đủ cho làm một nữa cái bánh ngọt nhỏ.
• Lượng vôi trong toàn bộ xương của cơ thể đủ để xây một cái chuồng
gà con.
• Lượng mỡ dùng nấu được 7 bánh xà phòng.
• Lượng P đủ để sản xuất 2200 đầu que diêm.
• Lượng S đủ để giết chết 1 con bọ chét.
• Cộng cả lại kể các các nguyên tố khác như Mg, Cu, K… Theo các
nhà bác học tính ra thì với một người nặng 65kg, giá trị của chúng chỉ
đáng giá chưa tới 3$.
Áp dụng: Đây là tình huống có chút khôi hài nhưng có thể giúp học sinh
nắm được cơ bản thành phần nguyên tố trong cơ thể con người nhằm làm rõ
thêm về quan điểm duy vật .
* Ví dụ 6: Vì sao phèn chua có thể làm trong nước?
Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm
nước:
[K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O]
Phèn chua không độc, có vị chua chát, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều
trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành
Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lững trong nước
Al2 (SO4 )3 → 2 Al 3+ + 3SO42−
Al 3+ + H 2O
→ AlOH 2+ + H +
AlOH 2+ + H 2O
→ Al ( OH ) 2 + H +
+
Al ( OH ) 2 + H 2O
→ Al ( OH ) 3 ↓ + H +
+
Al2 ( SO4 )3 + 3H 2O
→ 2 Al (OH )3 ↓ +3H 2 SO4
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 18
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lững ở trong nước này đã
kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng
hơn và lắng xuống. Vì vậy mà nước trở nên trong hơn.
Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của phèn chua trong đời sống
nhất là đối với HS ở vùng hay xảy ra lũ lụt.
* Ví dụ 7 : Hàn the là chất gì?
Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là Borac), ở
dạng tinh thể ngậm nước.Tinh thể trong suốt, tan nhiều trong nước nóng, không
tan trong cồn 90o.
Trước đây, người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia cho vào giò
lụa, bánh phở, bánh cuốn,… để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm thấy dai và
giòn. Ngay từ năm 1985, Tổ chức Y tế thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất
phụ gia cho thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê.
Áp dụng: Hàn the là chất được dùng trong buôn bán nhưng đã bị cấm sử
dụng từ lâu. Qua VD này HS hiểu rõ hơn về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
* Ví dụ 8: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có
nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3 dùng để chế
thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày
nhờ phản ứng:
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H 2O
Áp dụng: Vấn đề này giúp HS hiểu hơn tính thiết thực của Hóa học
trong đời sống, khơi dậy sự yêu thích bộ môn hóa học đối với học sinh.
* Ví dụ 9 : Làm cá bớt tanh bằng phương pháp nào?
Khi nấu canh cá thì cho thêm chất chua (me, giấm,…) để làm giảm mùi
tanh của cá.
Chất chua (axit lactic có trong nước dưa, me, axit axetic có trong giấm,
axit citric có trong chanh…) nâng cao hương vị và hạn chế mùi tanh của cá.
Trong chất tanh của cá, có chứa hỗn hợp các amin [(CH 3)2NH và
(CH3)3N], có tính bazơ yếu.Các chất chua dùng để nấu canh cá đều là axit hữu
cơ, chúng có phản ứng với các amin tạo thành muối. Do đó làm giảm hoặc làm
mất vị tanh của cá.
+
−
Ví dụ: CH 3COOH + (CH 3 )2 NH → [ (CH 3 )2 NH 2 ] [ CH 3COO ]
Áp dụng: Vấn đề này giúp HS hiểu hơn tính thiết thực của Hóa học
trong đời sống.
* Ví dụ 10 : Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng,
người ta thường ngửi thấy mùi khai?
Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu chất đạm,
như: nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ,… lượng Ure trong các chất hữu
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 19
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
cơ sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, ure bị phân
hủy thành CO2 và NH3.
( NH 2 ) 2 CO + 2 H 2O → CO2 + 2 NH 3
Lượng NH3 sinh ra hoà tan trong nước dưới dạng một cân bằng động:
NH 3 + H 2O
→ NH 4+ + OH − (∆H < 0)
Như vậy, khi trời nắng (nhiệt độ tăng), cân bằng trên sẽ dịch chuyển theo
chiều nghịch, tức là NH3 sinh ra do phản ứng phân hủy ure không bị hoà tan
trong nước mà bị tách ra, bay vào không khí làm cho không khí xung quanh
sông, hồ có mùi khai khó chịu.
Áp dụng: Vấn đề này giúp HS hiểu hơn tính thiết thực của Hóa học
trong đời sống.
D: KẾT LUẬN
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy
nghĩ là mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách
nhiệm nghề nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người
giáo viên phải nhận thức rõ vai trò là người “thắp sáng ngọn lửa” chủ động
lĩnh hội tri thức trong từng học sinh . Trong nội dung đề tài mình, tôi đã đề cập
đến một số vấn đề xung quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn, thậm chí có
thể gặp, tiếp xúc hàng ngày.Tôi hi vọng đây là vấn đề gợi mở ra một quan niệm
trong dạy − học hoá học, mặc dù trong đề tài này tôi không thể đề cập mọi hiện
tượng có liên quan.
1/ Kết quả nghiên cứu:
Riêng bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy “Nâng cao hiệu quả
dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên
quan đến bài học ” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một
số kết quả nhất định.
Học sinh trở nên thích học hoá hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều
hơn, thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện
tượng thức tế, rồi lại đến hỏi tôi.
Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hoà trong phong cách dạy của mình có
thể làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài
cũng rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giành cho vấn đề này là không
nhiều nên cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo. Bất cứ
một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm dụng thì đều không tốt.Vì thế tôi vẫn luôn
nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều không dễ.
2/ Kết quả đối chứng:
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 20
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Sau khi áp dụng đề tài này vào giảng dạy tôi thấy chất lượng học sinh được nâng
cao rõ rệt. Các em đã rất hứng thú mỗi khi học. Cụ thể là trong năm học 20132014 và 2014 – 2015 thì:
Năm Học 2014 -2015
Khối lớp
Số lượng HS
Số em không
Số em xem đó
Số em yêu
yêu thích môn
như một môn
thích môn học
học
phụ
15
12
18
20
10
15
16
12
10
12
8
5
18
10
12
Lớp 10A1
Số lượng HS
Lớp 10A2
Số lượng HS
Lớp 10C2
Số lượng HS
Lớp 12TN
Số lượng HS
Lớp 12.1
Năm Học 2014 -2015
Khối lớp
Số lượng HS
Số em không
Số em xem đó
Số em yêu
yêu thích môn
như một môn
thích môn học
học
phụ
10
10
13
3
12
32
5
10
18
10
10
19
Lớp 11TN1
Số lượng HS
Lớp 11TN2
Số lượng HS
Lớp 11A3
Số lượng HS
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 21
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
Lớp 11A4
Số lượng HS
18
10
11
Lớp 12.1
3/ Kiến nghị, đề xuất:
Vấn đề đổi mới phương pháp trong giờ học trong trường phổ thông đang
là vấn đề bức xúc. Để dạy hoá học trong nhà trường phổ thông có hiện quả tôi
đề nghị một số vấn đề sau:
Đối với giáo viên:Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu các vấn
đề hoá học,vận dụng sáng tạo phương pháp dạy hóa học, để có bài giảng thu
hút được học sinh.
Đối với SởGD & ĐT: Cần trang bị cho giáo viên thêm những tài liệu
tham khảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
Với những sáng kiến kinh nghiệm tốt, theo tôi nên phổ biến để cho các giáo
viên tham khảo và vận dụng. .
Với thực trạng học hoá học và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, có
thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nâng cao chất
lượng học hoá học trong thời kỳ mới.Mặc dù đã cố gắng song không thể tránh
được các thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của
các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.Tôi xin chân thành
cảm ơn!
Đồng Xoài, ngày 27 tháng 02 năm 2015
Người viết đề tài
Nguyễn Văn Trung
PHỤ LỤC
* Giải thích một số kí hiệu :
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 22
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
∆H < 0 : Phản ứng tỏa nhiệt
D:
↓:
↑ :
tnc :
Khối lượng riêng
Chất kết tủa
Chất bay hơi
Nhiệt độ nóng chảy
………………………………………………………………
………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO
………………………………………………………………
[1] Sách giáo khoa hoá học lớp 10,11,12 - NXB GD
[2] Phân………………………………………………………………
phối chương trình môn hoá họcTHPT.
[3] Sách………………………………………………………………
giáo viên hoá học lớp 10,11,12. (NXB GD)
[4] Tài liệu giáo khoa chuyên hoá học (Tập 1,2 NXB GD)
[5] Con ………………………………………………………………
người và những phát minh (Bách khoa thư chuyên đề – NXB
GD 1998)
………………………………………………………………
[6] Hóa học và ứng dụng. (NXB GD)
………………………………………………………………
[7] Từ điển
hoá học phổ thông. (NXB GD)
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA TỔ HÓA
………………………………………………………………
TRƯỜNG TRUNG THPT ĐỒNG XOÀI
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 23
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
Ý KIẾN
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
………………………………………………………………
TRƯỜNG TRUNG THPT ĐỒNG XOÀI
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………
…………………………………………………………
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 24
SKKN:NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC MÔN HOÁ HỌC BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
Ý KIẾN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
………………………………………………………………
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH BÌNH PHƯỚC
………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………
GV: Nguyễn Văn Trung – Tổ Hóa – Trường THPT Đồng Xoài - năm 2014 - 2015
Trang 25