Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận môn phân tích kinh tế tìm hiểu về công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.99 KB, 15 trang )

1

1. Khái quát chung về công ty cổ phần

1.1 Khái niệm
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp.
1.2 Đặc điểm
- Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập
- Cổ đông trong CTCP chịu trách nhiệm hữu hạn.
- Cổ phần được tự do chuyển nhượng.
- CTCP có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt.
- Quy mô CTCP dễ dàng mở rộng.
- Cơ chế quản lý tập trung cao
Với những đặc điểm nổi bật, CTCP đã trở thành hình thức tổ chức doanh
nghiệp mang tính thống trị nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho tăng trưởng.
Dù vẫn còn có những hạn chế nhất định nhưng trong thời buổi cạnh tranh
toàn cầu hiện nay những hạn chế của CTCP là hoàn toàn có thể được khắc
phục. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện
nay, CTCP là hình thức huy động vốn trên quy mô lớn một cách hiệu quả
nhất, giúp doanh nghiệp tiếp thu sự tiến bộ của khoa học nhanh chóng, tạo
điều kiện cho công ty kinh doanh hiệu quả hơn và tăng thêm nguồn thu cho
ngân sách.
2.Khái quát chung về phân tích tài chính
2.1 Khái niệm, ý nghĩa:
* Khái niệm: Phân tích tài chính là tổng thể các phương pháp được sử dụng
để đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay, giúp cho nhà quản lý đưa
ra được quyết định quản lý chuẩn xác và đánh giá được doanh nghiệp, qua


đó giúp những đối tượng quan tâm đi tới những dự đoán chính xác về mặt tài
chính của doanh nghiệp để có quyết định phù hợp với lợi ích của chính họ.
* Ý nghĩa của phân tích tài chính


2

Đối với những người quản lý doanh nghiệp, việc phân tích tài chính có ý
nghĩa:
- Đánh giá tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh, từ đó đó ra
các dự báo và kế hoạch hóa tài chính cùng các quyết định tài chính thích
hợp.
- Phân tích tài chính nhằm kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp. Trên
cơ sở đó đưa ra các biện pháp quản lý thích ứng để thực hiện các mục tiêu
cuả doanh nghiệp.
Đối với người ngoài doanh nghiệp như những người cho vay và các nhà
đầu tư… thì thông qua việc phân tích tài chính để đánh giá khả năng thanh
toán, khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
để có quyết định về cho vay, thu hồi nợ hoặc đầu tư vào doanh nghiệp.
2.2 Mục đích, vai trò:
* Mục đích: Phân tích tài chính giúp nhà phân tích đánh giá chính xác sức
mạnh tài chính, khả nămg sinh lãi, tiềm năng, hiệu quả hoạt động kinh doanh,
đánh giá những triển vọng cũng như những rủi ro trong tương lai của doanh
nghiệp, để từ đố đưa ra quyết định cho thích hợp.
* Vai trò: Việc phân tích tình hình tài chính cho phép các doanh nghiệp nhìn
nhận đúng đắn khả năng, sức mạnh cũng như hạn chế của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính còn là công cụ quan trọng trong các chức năng quản trị
có hiệu quả ở doanh nghiệp.
2.3.Một số chỉ tiêu bị ảnh hưởng
2.3.1.Chỉ tiêu khả năng thanh toán

- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh được hiểu là khả năng doanh nghiệp dùng tiền
hoặc tài sản có thể chuyển đổi thành tiền để trả nợ ngay khi đến hạn và quá
hạn. Tiền ở đây có thể là tiền gửi, tiền mặt, tiền đang chuyển; tài sản là các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn (cổ phiếu, trái phiếu). Nợ đến hạn và quá
hạn phải trả là nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, nợ khác kể cả những khoản trong
thời hạn cam kết doanh nghiệp còn được nợ. Khả năng thanh toán nhanh của
doanh nghiệp được tính theo công thức:


3

Khả năng thanh toán nhanh = (Tiền + Khoản đầu tư tài chính ngắn hạn) /
Nợ ngắn hạn
Rõ ràng công thức này phản ánh được chính xác hơn khả năng trả nợ ngay
của một doanh nghiệp. Nhìn chung hệ số này bằng 1 là lý tưởng nhất. Tuy
nhiên giống như hệ số thanh toán nợ ngắn hạn, độ lớn của hệ số này phụ
thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh toán các món nợ trong kỳ.
- Hệ số thanh toán ngắn hạn:
Hệ số thanh toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các khoản nợ
ngắn hạn của doanh nghiệp như nợ và các khoản phải trả) bằng các tài sản
ngắn hạn của doanh nghiệp, như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn kho).
Hệ số thanh toán ngắn hạn =(Tổng tài sản lưu động)/(Tổng nợ ngắn hạn)
Hệ số này của từng công ty thường được so sánh với hệ số trung bình của
ngành, tuy nhiên mỗi ngành sẽ có một hệ số trung bình khác nhau
Hệ số này càng cao, khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn.
Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp có khả năng không hoàn thành
được nghĩa vụ trả nợ của mình khi tới hạn. Mặc dù với tỷ lệ nhỏ hơn 1, có
khả năng không đạt được tình hình tài chính tốt, nhưng điều đó không có
nghĩa là công ty sẽ bị phá sản vì có rất nhiều cách để huy động thêm vốn.

Tỷ lệ này cho phép hình dung ra chu kì hoạt động của công ty xem có
hiệu quả không, hoặc khả năng biến sản phẩm thành tiền mặt có tốt không.
Nếu công ty gặp phải rắc rối trong vấn đề đòi các khoản phải thu hoặc thời
gian thu hồi tiền mặt kéo dài, thì công ty rất dễ gặp phải rắc rối về khả năng
thanh khoản.
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát:
“Hệ số khả năng thanh toán tổng quát” là chỉ tiêu phản ánh khả năng
thanh toán chung của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu này cho biết:
với tổng số tài sản hiện có, doanh nghiệp có bảo đảm trang trải được các
khoản nợ phải trả hay không. Nếu trị số chỉ tiêu "Hệ số khả năng thanh toán
tổng quát" của doanh nghiệp luôn ≥ 1, doanh nghiệp bảo đảm được khả năng
thanh toán tổng quát và ngược lại; trị số này < 1, doanh nghiệp không bảo


4

đảm được khả năng trang trải các khoản nợ. Trị số của “Hệ số khả năng
thanh toán tổng quát” càng nhỏ hơn 1, doanh nghiệp càng mất dần khả năng
thanh toán.
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng số tài sản/Tổng số nợ phải trả
- Hệ số khả năng chi trả:
Do các chỉ tiêu như: "Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn" và "Hệ số
khả năng thanh toán nhanh" mang tính thời điểm (đầu kỳ, cuối kỳ) vì cơ sở
tính toán dựa trên số liệu của Bảng cân đối kế toán nên trong nhiều trường
hợp, các chỉ tiêu này phản ánh không đúng tình hình thực tế. Điều này rất dễ
xẩy ra vì 2 nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do các nhà quản lý muốn ngụy tạo tình hình, tạo ra một bức
tranh tài chính khả quan cho doanh nghiệp tại ngày báo cáo. Chẳng hạn,
muốn nâng cao trị số của các chỉ tiêu trên, các nhà quản lý tìm cách ngụy tạo
sao cho các khoản tiền và tương đương tiền tăng lên, trị giá hàng tồn kho

giảm xuống. Công việc này thực sự không hề khó khăn với các nhà quản lý
và kế toán; chẳng hạn, những ngày cuối kỳ (cuối quí, cuối năm), mặc dầu
hàng đã về, đã nhập kho nhưng kế toán tạm để ngoài sổ sách hoặc các khoản
nợ chưa thu nhưng kế toán lại ghi nhận như đã thu, nếu bị phát hiện thì coi
như ghi nhầm. Tương tự, kế toán có thể ghi các bút toán bù trừ giữa nợ phải
thu dài hạn với nợ phải trả dài hạn...
Thứ hai, do tính thời vụ của hoạt động kinh doanh mà tại thời điểm báo
cáo, lượng hàng tồn kho rất lớn, lượng tiền và tương đương tiền rất nhỏ. Tình
hình này thường xẩy ra với các doanh nghiệp kinh doanh mang tính thời vụ.
Tại những doanh nghiệp này, có những thời điểm mà buộc phải dự trữ hàng
tồn kho lớn (dự trữ hàng hóa phục vụ các dịp lễ, tết, khai trường, khai hội;
thu mua nông sản, lâm sản, hải sản, thổ sản... theo mùa…).
Để khắc phục tình hình trên, khi đánh giá khái quát tình hình tài chính,
cần kết hợp với chỉ tiêu "Hệ số khả năng chi trả". Hệ số này sẽ khắc phục
được nhược điểm của 2 chỉ tiêu trên vì nó được xác định cho cả kỳ kinh
doanh và không phụ thuộc vào yếu tố thời vụ.
Hệ số khả năng chi trả = Số tiền thuần lưu chuyển trong kỳ/ Nợ ngắn hạn


5

Chỉ tiêu này cho biết, với dòng tiền thuần tạo ra từ các hoạt động của
mình trong kỳ, doanh nghiệp có đủ khả năng bảo đảm được khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn hay không.
2.3.2.Chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
* Hệ số nợ
Hệ số nợ = (Nợ phải trả)/ (Tổng tài sản)
• Hệ số này cho biết phần trăm tổng tài sản của công ty được tài trợ bằng các
khoản nợ là bao nhiêu.
• Hệ số nợ thấp có thể cho thấy việc sử dụng nợ không hiệu quả, còn hệ số

nợ cao thể hiện gánh nặng về nợ lớn, như vậy 1 hệ số nợ/ tổng tài sản là hợp
lý sẽ tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tự tài trợ của công ty.
* Hệ số cơ cấu nguồn vốn
Hệ số cơ cấu nguồn vốn = (Lợi nhuận sau thuế)/ Vốn chủ sở hữu)
- Hệ số này phản ánh tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn
của
công
ty.
- Để xác định mức độ phù hợp về tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
của công ty sẽ phụ thuộc rất lớn vào hoạt động và chính sách của từng công
ty cũng như của từng ngành.
2.3.3 Chỉ tiêu hoạt động kinh doanh
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải
có tài sản, bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Việc đảm bảo đầy đủ
nhu cầu về tài sản là một vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh
doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả.
Nhằm đáp ứng nhu cầu về tài sản cho hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp cần phải tập hợp các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động,
hình thành nguồn tài trợ tài sản (nguồn vốn) - được hình thành trước hết từ
nguồn vốn của bản thân của chủ sở hữu, từ nguồn vốn vay, và từ chiếm dụng
trong quá trình thanh toán.
Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh chính là việc
xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của
doanh nghiệp. Mối quan hệ này phản ánh cân bằng tài chính của doanh


6

nghiệp. Vì vậy, khi phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh
doanh, các nhà phân tích thường xem xét tình hình đảm bảo vốn theo quan

điểm luân chuyển vốn và tình hình bảo đảm vốn theo quan điểm ổn định
nguồn tài trợ cùng với cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
*Phân tích tình hình bảo đảm vốn theo quan điểm luân chuyển vốn
Xét theo quan điểm luân chuyển vốn, tài sản ban đầu của doanh nghiệp
được hình thành trước hết bằng nguồn vốn chủ sở hữu, nghĩa là doanh nghiệp
sử dụng số vốn chủ sở hữu của mình để tài trợ tài sản ban đầu phục vụ cho
hoạt động kinh doanh. Số tài sản ban đầu được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu
này không bao gồm số tài sản trong thanh toán (khoản bị chiếm dụng). Mối
quan hệ này thể hiện qua đẳng thức:
Vốn chủ sở hữu = Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn (1)
Vốn chủ sở hữu

Tài sản
I. Tài sản ngắn hạn
1. Tiền và các khoản tương đương tiền
2. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
3. Hàng tồn kho
4. Chi phí trả trước ngắn hạn

Vốn chủ sở hữu

5. Tài sản ngắn hạn khác
II. Tài sản dài hạn
1. Tài sản cố định
2. Bất động sản đầu tư
3. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
4. Chi phí trả trước dài hạn
5. Tài sản dài hạn khác

(Bảng cân đối giữa vốn chủ sở hữu với tài sản)

Cân đối (1) chỉ là cân đối mang tính lý thuyết, nghĩa là với nguồn vốn chủ
sở hữu, doanh nghiệp đủ trang trải các loại tài sản ban đầu phục vụ cho các


7

hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng. Trong thực tế
thương xảy ra một trong hai trường hợp:
+ Vế trái > Vế phải: đồng nghĩa với số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
lớn hơn số tài sản ban đầu. Do vậy, số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
dư thừa, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng.
+ Vế trái < Vế phải: đồng nghĩa với số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
nhỏ hơn số tài sản ban đầu. Do vậy, để có số tài sản phục vụ cho các hoạt
động kinh doanh, doanh nghiệp phải đi vay hoặc chiếm dụng từ bên ngoài.
Vốn chủ sở hữu + Vốn vay hợp pháp = Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn
Vốn chủ sở hữu và vốn vay
trong hạn

Tài sản
I. Tài sản ngắn hạn
1. Tiền và các khoản tương đương tiền
2. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
3. Hàng tồn kho

I. Vốn chủ sở hữu

4. Chi phí trả trước ngắn hạn

II. Vốn vay trong hạn


5. Tài sản ngắn hạn khác

1. Vay và nợ ngắn hạn

II. Tài sản dài hạn

2. Vay và nợ dài hạn

1. Tài sản cố định
2. Bất động sản đầu tư
3. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
4. Chi phí trả trước dài hạn
5. Tài sản dài hạn khác

(Bảng cân đối giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay trong hạn với tài sản)

Cân đối (2) hầu như không xảy ra mà trên thực tế, thường xảy ra một
trong hai trường hợp:


8

+ Vế trái > Vế phải: đồng nghĩa với số vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp
pháp hiện có của doanh nghiệp lớn hơn số tài sản ban đầu, tức là không sử
dụng hết số vốn hiện có. Do vậy, số dư thừa của doanh nghiệp sẽ bị chiếm
dụng.
+ Vế trái < Vế phải: trường hợp này, lượng tài sản ban đầu phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lớn hơn số vốn chủ sở hữu và vốn
vay hợp pháp. Do vậy, để có đủ tài sản phục vụ cho nhu cầu kinh doanh,
doanh nghiệp buộc phải đi chiếm dụng vốn trong thanh toán (chiếm dụng

hợp pháp và bất hợp pháp).
Mặt khác, do tính chất cân bằng của Bảng cân đối kế toán, tổng số tài sản luôn
luôn bằng tổng số nguồn vốn nên từ cân đối (2) chúng ta có cân đối (3):
Vốn chủ sở hữu + Vốn vay hợp pháp + Nguồn vốn thanh toán

=
Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn + Tài sản thanh toán (3)
Nguồn vốn thanh toán là toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp đi chiếm dụng
của đối tác trong thanh toán, bao gồm nguồn vốn thanh toán ngắn hạn và
dài hạn.
*Phân tích tình hình bảo đảm vốn theo tính ổn định của nguồn tài trợ
Phân tích tình hình đảm bảo vốn theo tính ổn định của nguồn tài trợ được
thực hiện dựa trên cơ sở phân chia nguồn hình thành nên tài sản sử dụng
trong quá trình
3. Đặc điểm của cty CP ảnh hưởng đến công tác phân tích
3.1 Những ảnh hưởng chung do thông tin đem lại
Lạm phát có thể ảnh hưởng và làm sai lệch thông tin tài chính được ghi
nhận trên các báo cáo tài chính khiến cho việc tính toán và phân tích trở lên
sai lệch.
Chẳng hạn như lạm phát sẽ gây ảnh hưởng đến giá trị của dòng tiền, làm
cho dòng tiền ở các năm khác nhau sẽ có một thời giá tiền tệ khác nhau.


9

Điều này làm cho việc so sánh, phân tích số liệu giữa các năm có sự sai
lệch.
Các yếu tố thời vụ cũng làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của
công ty và khiến cho các tỷ số tài chính có khuynh hướng thay đổi bất
thường. Chẳng hạn vào mùa vụ hàng tồn kho tăng lên cao hơn bình thường

nên nếu sử dụng tỷ số vòng quay hàng tồn kho sẽ thấy công ty có vẻ hoạt
động kém hiệu quả.
Phân tích dựa trên các các tỷ số tài chính phụ thuộc lớn vào tính chính
xác của các báo cáo tài chính. Điều này bị ảnh hưởng lớn bởi các nguyên
tắc kế toán.Tuy nhiên nguyên tắc và thực hành kế toán lại có thể khác nhau
giữa các công ty, các ngành, các quốc gia và các thời kỳ khác nhau. Do đó
các nguyên tắc thực hành kế toán có thể làm sai lệch và làm mất đi ý nghĩa
của các tỷ số tài chính.
Các nhà quản lý có thể lợi dụng nguyên tắc kế toán để chủ động tạo ra
các tỷ số tài chính như ý muốn của mình khiến cho việc phân tích báo cáo
tài chính không còn là công cụ đánh giá khách quan.
Đôi khi công ty có vài tỷ số rất tốt nhưng vài tỷ số khác lại rất xấu làm
cho việc đáng giá chung tình hình tài chính của công ty trở lên khó khăn và
kém ý nghĩa.
Có nhiều công ty quy mô rất lớn và hoạt động đa ngành, thậm chí là
những ngành nghề rất khác nhau nên khó xây dựng và ứng dụng hệ thống
tỷ số bình quân ngành có ý nghĩa tại các công ty này. Do đó phân tích báo
cáo tài chính thường có ý nghĩa nhất trong các công ty nhỏ và không có
hoạt động đa ngành.
Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất và đồng bộ về công thức của một số
chỉ tiêu trong các sách, tài liệu về phân tích báo cáo tài chính. Điều này làm
cho việc so sánh số liệu được phân tích giữa các nguồn khác nhau tiềm ẩn
nhiều rủi ro.
3.2. Ảnh hưởng từ đặc điểm công ty dến việc phân tích


10

Trong tất cả các loại hình doanh nghiệp thì chỉ có công ty cổ phần mới thể
hiện rõ nét và cần quan tâm nghiên cứu ba quyết định chủ yếu là quyết định

đầu tư, quyết định nguồn vốn và quyết định phân phối lợi nhuận. Tài chính
các loại hình doanh nghiệp khác nói chung cũng có ba loại quyết định này
nhưng việc ra quyết định này không phức tạp bằng công ty cổ phần. Vì sao
lại như vây?
Chẳng hạn, một tiệm photocopy hoạt động trước cửa trường Đại học cũng
là một doanh nghiệp. Nhưng vì quy mô nhỏ và hoạt động tài chính của nó
quá đơn giản nên việc nghiên cứu và phân tích cũng sẽ đơn giản.
Còn đối với Doanh nghiệp Nhà nước và công ty tư nhân có quy mô lớn thì
sao?
Mặc dù doanh nghiệp Nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân quy mô
lớn có hoạt động tài chính phức tạp nhưng đối với loại hình doanh nghiệp
này nguồn vốn do Nhà nước hoặc cá nhân bỏ ra và lợi nhuận làm ra đương
nhiên thuộc người nào đó bỏ ra vốn. Do đó, các quyết định nguồn vốn và
phân phối lợi nhuận đối với loại hình doanh nghiệp này cũng đơn giản hơn
đối với công ty cổ phần.
Quyết định tài chính của công ty cổ phần tiêu biểu hơn, rộng hơn, bao quát
hơn và phức tạp hơn các doanh nghiệp nói chung. Vì loại hình công ty cổ
phần có hình thức huy động vốn rộng rãi nhất so với tất cả các loại hình
công ty khác và số người sở hữu công ty cũng thường là đông nhất. Việc
huy động vốn có thể từ các cổ đông sáng lập, từ lợi nhuận giữ lại, từ vay cá
nhân, vay tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu và các loại
chứng khoán khác ra bên ngoài. Chính vì vậy, các quyết định tài cũng sẽ
phức tạp. Bởi việc lựa chọn nguồn vốn như thế nào? Cơ cấu bao nhiêu là
phù hợp? Hiệu quả kinh doanh được đánh giá ra sao? Các câu hỏi đều phải
thông qua phân tích tài chính để đánh giá. Và việc phân tích tài chính loại
công chắc chắn phải phức tạp hơn các doanh nghiệp khác.
Cũng như các doanh nghiệp khác, công ty cổ phần cũng cần phân tích các
chỉ tiêu như:
+ Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán như:



11

Tỷ số thanh toán tổng quát
Tỷ số khả năng thanh toán tạm thời
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh
Tỷ số thanh toán lãi vay
+ Nhóm chỉ tiêu phản anh khả năng hoạt động
Số vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân
Vòng quay vốn lưu động
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận như:
Tỷ suất lợi nhuận
Tuyn nhiên mức độ phức tạp của các loại hình doanh nghiệp sẽ khác nhau.
Tính phức tạp của công ty cổ phần thể hiện trong 3 quyết định như sau:
Thứ nhất là các quyết định đầu tư: Ý tưởng về một dự án đầu tư thường
xuất phát từ mục đích của dự án đó. Tuy nhiên, khi phân tích xem xét có
nên đầu tư vào dự án đó hay không, người ta không chỉ xem xét đến mục
đích của nó mà còn phải xem xét đến tính hiệu quả về mặt tài chính. Muốn
đánh giá được điều này người ta phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quyết định
đầu tư dự án. Chúng ta phải xem xét mối quan hệ lợi ích và chi phí, với
nguyên lý đơn giản là chấp nhận đầu tư dự án nếu lợi ích thu được từ dự án
lớn hơn chi phí đầu tư dự án.
Và chúng ta thường phân tích xem xét các chỉ tiêu sau:
+ Thời gian hoàn vốn
+ Hiện giá thuần
+ Chỉ số khả năng sinh lợi



12

+ Tỷ suất sinh lợi nội bộ

Thứ hai là các quyết định phân phối lợi nhuận hay chính là quyết định về
chính sách cổ tức. Một thông điệp mà các nhà quản trị thường lấy làm mục
tiêu ứng xử là : Chính sách cổ tức phải có tính ổn định, không thay đổi thất
thường, và phải đặc biệt thận trọng trước khi quyết định thay đổi một chính
sách cổ tức này bằng một chính sách cổ tức khác.
Một đặc điểm nổi bật của công ty cổ phần là: Vốn của công ty cổ phần
được chia thành các phần nhỏ nên để khi xem xét đánh giá một chính sách
cổ tức thì các nhà phân tích phải xem xét đến các chỉ tiêu như:
- Tỷ suất lợi nhuận của vốn cổ đông
- Thu nhập của một cổ phiếu thường
- Tỷ giá thị trường/ thu nhập của một cổ phiếu thường
- Tỷ lệ trả lãi cổ phần
- Tỷ suất sinh lãi cổ phần
Tỷ suât lợi nhuận của vốn cổ đông = Lợi nhuận sau thuế/Vốn cổ đông bình
quân
Thu nhập của một cổ phiếu thường = (Lãi thuần sau thuế - Cổ tức của cổ
phiếu ưu đãi)/Số lượng của cổ phiếu thường đang lưu hành bình quân
Tỷ giá thị trường/ thu nhập của một cổ phiếu thường = Giá thị trường của 1
cổ phiếu/Thu nhập của 1 cổ phiếu thường
Tỷ lệ trả lãi cổ phần = Tiền mặt trả cổ tức mỗi cổ phiếu thường/Thu nhập
mỗi cổ phiếu thường
Tỷ suất sinh lãi cổ phần = Tiền mặt trả cổ tức mỗi cổ phiếu thường/Thị giá
cổ phiếu thường
Thứ 3 là các quyết định liên quan đến nguồn vốn:



13

Trong tài chính người ta thường mượn thuật ngữ đòn bẩy để ám chỉ việc
sử dụng chi phí cố định để gia tăng khả năng sinh lợi của công ty.
Đòn bẩy hoạt động DOL là mức độ sử dụng chi phí hoạt động cố định của
công ty. Chi phí cố định là chi phí không thay đổi khi sản lượng thay đổi.
Việc các nhà quản lý của công ty lựa chọn con đường phát triển công ty
theo hướng có đòn bẩy hay thận trọng tùy thuộc vào nhận thức của họ về
tương lai. Đối với các công ty có mức đòn bẩy cao, như các công ty trong
ngành chế tạo ô tô, thường có thu nhập tăng đáng kể khi sản lượng tăng.
Trong khi các công ty thận trọng hơn thường có thu nhập tăng chậm hơn
trong bối cảnh này.
DOL = Phần trăm thay đổi của thu nhập hoạt động/Phần trăm thay đổi của
sản lượng sản phẩm tiêu thụ
Loại đòn bẩy thứ 2 phản ánh lượng nợ mà công ty sử dụng trong cấu trúc
vốn của nó, đó là đòn bẩy tài chính. Đòn bẩy tài chính là một khái niệm
phản ánh bối cảnh trong đó công ty sử dụng các chi phí tài chính mang tính
cố định nhằm khuyeech đại lợi nhuận của mình.
DFL = Phần trăm thay đổi trong EPS/Phần trăm thay đổi trong EBIT
(Trong đó EPS là thu nhập trên mỗi cổ phiếu, EBIT là thu nhập trước lãi và
thuế)
Công ty xác định chi phí của các nguồn ngân quỹ, hay chính xác hơn, chi
phí của các nguồn vốn của nó như thế nào? Tức là công ty phải xem xét,
phân tích các chỉ tiêu sau:
+ Chi phí nợ
+ Chi phí của cổ phiếu ưu đãi
+ Chi phí của cổ phiếu thường
+ Chi phí của thu nhập để lại
+ Chi phí của các cổ phiếu thường mới



14

Cuối cùng công ty phải tính toán được chi phí vốn bình quân và đưa ra
được cơ cấu vốn mục tiêu cho mình.
Mức độ tin cậy của số liệu trong các báo cáo tài chính còn thấp. Khi phân
tích báo cáo tài chính hoàn toàn đều dựa vào số liệu từ các báo cáo tài
chính cho nên nếu các số liệu này thiếu chính xác thì những kết luận rút ra
từ phân tích chắc chắn sẽ bị sai lệch.
Nhiều công ty cổ phần thuyết minh BCTC sơ sài, chính sách kế toán áp
dụng nêu rất chung và thường trích dẫn theo chuẩn mực kế toán là chính,
nhiều khoản mục thực tế không có số liệu phát sinh tại công ty nhưng vẫn
có thuyết minh chính sách về khoản mục đó. Phần các thông tin khác như
nợ tiềm tàng, thông tin về các bên liên quan, báo cáo bộ phận... nhiều công
ty có trình bày nhưng không kỹ hoặc không trình bày. Chi phí bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp hay bị bỏ qua không thuyết minh. Các khoản
đầu tư, dự phòng, hàng tồn kho, chi phí trả trước... chủ yếu diễn giải các số
liệu, không thuyết minh cụ thể. Một số thuyết minh ghi chú xem các phụ
lục nhưng công ty không đính kèm phụ lục.
Một số công ty cổ phần có đầu tư tài chính không trích lập dự phòng giảm
giá đầu tư tài chính hoặc trích lập không đủ, không thực hiện trích lập dự
phòng trong báo cáo quý, và sau khi kiểm toán năm đã có một sự điều
chỉnh giảm lớn về lợi nhuận của mình do công ty trích lập thêm dự phòng
đầu tư tài chính. Việc trích lập dự phòng cho danh mục hàng tồn kho, công
nợ cũng chưa được các công ty tuân thủ theo đúng yêu cầu của chuẩn mực.
Do đó cũng ảnh hưởng đáng kể tới các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính khi sử
dụng để phân tích.
Không có đầy đủ thông tin về các tỷ số bình quân của ngành để làm cơ sở
so sánh.

Hoạt động của các công ty cổ phần đa ngành hoặc đầu tư đan chéo lẫn
nhau làm cho các báo cáo tài chính của các công ty cổ phần rất phức tạp,
khó hiểu, nhất là cho các nhà đầu tư không chuyên.


15

Nhiều chỉ tiêu tính toán trong công thức sử dụng chỉ tiêu Lợi nhuận sau
thuế nhưng nhiều khi lợi nhuận sau thuế của công ty cổ phần được tạo ra
không phải do hoạt động kinh doanh chính tạo ra mà có thể là từ các hoạt
động tài chính, hoạt động khác. Và do đó, nhà đầu tư có thể đưa ra những
dự đoán không chính xác về lợi nhuận kinh doanh của công ty trong tương
lai. Vì hoạt động tài chính và hoạt động khác thường xuyên biến động.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế
EPS = Tổng số lãi dành cho các cổ đông phổ thông / Số bình quân gia
quyền của cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ
Tuy nhiên trong hướng dẫn chuẩn mực kế toán việt Nam lại chưa rõ ràng
và do vậy tất cả các công ty hiện đang tính EPS không đúng bản chất công
thức nêu trên và khác với chuẩn mực quốc tế. Theo hướng dẫn của Kế toán
Việt Nam hiện hành, tổng số lãi dành cho các cổ đông chỉ thuần túy là lãi
thuần sau thuế trừ đi cổ tức của cổ phiếu ưu đãi mà nó không trừ đi các
khoản lãi không dành cho cổ đông phổ thông như quỹ thưởng cho Hội
Đồng Quản Trị, quỹ khen thưởng phúc lợi dành cho nhân viên.
Số bình quân gia quyền của các cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ
chưa tính đến những sự kiện chia tách cổ phiếu, thưởng cổ phiếu, chia cổ
tức bằng cổ phiếu phát sinh trong kỳ mà chỉ tính đến các cổ phiếu có tại
thời điểm đầu kỳ.
Do vậy nếu căn cứ vào EPS thì các nhà đầu tư sẽ không thể có thông tin
chính xác.




×