Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC TỔ CHỨC THỰC THI CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.7 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC TỔ CHỨC THỰC THI
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

1


THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC TỔ CHỨC THỰC THI
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
Ths.Nguyễn Văn Hưởng
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông
nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt
hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch
theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục
đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; đời sống nhân dân nhiều vùng
nông thôn thay đổi, chất lượng cuộc sống từng bước được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và
chưa đồng đều giữa các vùng. Nền nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng
trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát
triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực
còn hạn chế, lao động làm nông nghiệp chủ yếu làm nghề theo kinh nghiệm mà chưa
được đào tạo nghề một cách bài bản. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách
thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng
suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Các hình thức tổ chức sản xuất
chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và
nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi
trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế.


Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó
nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống các quan
điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển
các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không
hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân
sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà nước
còn nhiều bất cập, yếu kém;
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất, trong những năm vừa qua Đảng và
Nhà nước ta đã có những chiến lược, chính sách ưu tiên để đầu tư phát triển lĩnh vực đào
tạo nghề. Thể hiện ở các Nghị quyết của Đại hội đảng khoá IX và các Nghị Quyết trung
ương, trong đó Nghị quyết số 26/NQTW khóa X xác định rõ: (1) Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững,
giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước; (2) Các vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
2


nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là
chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở
công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản, phát triển toàn diện,
hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt; (3) Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải
phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và

biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực
lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh
đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên
tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân;
(4) Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự
cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có
đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.
Thực hiện các Nghị quyết của đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông
dân, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản điều hành, trong đó Quyết định số 1956/QĐTTg ngày 27/11/2009 phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020” nhằm phát triển kinh tế ổn định và bền vững, đồng thời từng bước chuyên môn hóa
sản xuất và chuyển đổi cơ cấu ngành nghề nông nghiệp, nông thôn trên phạm vi toàn
quốc, trên nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó nội dung đào tạo nghề nông nghiệp do Bộ
NN&PTNT chủ trì thực hiện với mục tiêu đến năm 2020 cả nước có 3 triệu nông dân
được đào tạo nghề nông nghiệp.
Trung tâm KNQG là đơn vị được Bộ NN&PTNT giao làm đầu mối thí điểm thực hiện
chỉ đạo một số đơn vị và các địa phương thực hiện công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho
lao động nông thôn, tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện với Bộ. Nhiệm vụ đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn được Trung tâm bắt đầu triển khai thực hiện thí điểm
vào năm 2010 tại 11 xã điểm thuộc 11 tỉnh, thành phố,...
I. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC ĐÀO TẠO NGHỀ TRÊN THẾ GIỚI VÀ THỰC TRẠNG
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1. Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở một số nước trên thế giới.
Thành tựu đạt được của nền kinh tế các quốc gia có sự đóng góp một phần rất lớn
của việc tổ chức thực thi tốt chính sách đào tạo nghề cho người lao động nói chung và lao
động nông thôn nói riêng, để có cái nhìn tổng thể về tác động của chính sách đào tạo nghề
với việc phát triển kinh tế, chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc
phát triển nguồn lực, công tác tổ chức đào tạo nghề của các nước trên thế giới.
Hình thức đào tạo nghề rất đa dạng và khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng chúng ta

có thể học kinh nghiệm của các nước có những điều kiện tương đồng và áp dụng có chọn
lọc kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại một số nước trên thế giới và trong khu vực.
1.1. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Nhật Bản
Ở Nhật Bản, mô hình đào tạo nghề tại công ty, đơn vị sản xuất là mô hình đào tạo chủ
yếu. Đỉnh cao của sự phát triển mô hình này diễn ra trong thập kỷ từ 1960 đến 1970. Phần
lớn lớp trẻ Nhật Bản sau khi tốt nghiệp phổ thông tham gia vào thị trường lao động, được
3


công ty thuê và tham gia vào quá trình đào tạo nghề do công ty tổ chức.
Nội dung, chương trình đào tạo tại công ty gồm 2 phần: Định hướng về công ty và
kiến thức thực hành nghề. Định hướng về đào tạo của công ty nhấn mạnh các kiến thức về
nền văn hoá của công ty, giá trị của công việc và thái độ làm việc. Nhân viên mới được
tuyển phải nghe giảng về niềm tin và lòng tự hào khi làm việc tại công ty, về sự tự trọng,
trách nhiệm và nghĩa vụ với công ty. Chương trình học kiến thức thực hành nghề được thực
hiện chủ yếu thông qua các chỉ dẫn không chính thức trong quá trình làm việc, các cuốn
cẩm nang tự học và các khoá học tương ứng. Phương thức thực hiện đào tạo kiến thức thực
hành nghề là các buổi thảo luận kỹ thuật, thảo luận chất lượng, chuyển đổi vị trí và tự học.
Điều quan trọng là nước Nhật có hệ thông giáo dục phổ thông tốt và học sinh tốt
nghiệp trung học phổ thông thường có khả năng học và tự học vững vàng. Hiện nay 80%
số học sinh trong độ tuổi theo học trung học phổ thông với một phần đáng kể trong số họ
theo đuổi mô hình đào tạo nghề ban đầu tại công ty và 20% còn lại tham gia hệ thống đào
tạo nghề tại trường. Giáo dục phổ thông tốt là điều kiện căn bản để hệ thống đào tạo nghề
tại công ty của Nhật vận hành được. Cùng với hệ thống đào tạo này Nhật Bản đã đào tạo
cho đất nước đội ngũ công nhân lành nghề đa chức năng và trung thành với công ty, góp
phần tạo nên thần kỳ kinh tế Nhật Bản.
1.2. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Hàn Quốc
Từ giữa thập kỷ 60. Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra kế hoạch đào tạo trên cơ sở kế
hoạch nhân lực, nhờ vậy đầu tư sức người và của cải tập trung để hướng học sinh trung học
theo nhánh đào tạo nghề và công nhân kỹ thuật. Một số môn học nghề được đưa vào học

trong chương trình trung học cơ sở, tuy nhiên chuyên môn hoá theo ngành đào tạo chỉ được
thực hiện ở cấp trung học bậc trên. Khoảng một phần ba số học sinh theo học trung học bậc
cao lựa chọn trung học nghề còn hai phần ba theo chương trình trung học phổ thông. Các
chuyên ngành được lựa chọn nhiều nhất trong trung học nghề là kỹ thuật và thương mại.
Bên cạnh các trường nghề trung học dành cho đào tạo nghề ban đầu ở Hàn Quốc còn
phát triển mạnh mẽ các TTDN và đào tạo lại. Cả nước có khoảng 90 trung tâm như vậy và
đào tạo nghề ở đây chủ yếu giới hạn ở các khoá ngắn hạn đào tạo các kỹ năng hành nghề
trực tiếp. Phần lớn chi phí cho các trung tâm này được nhà nước hỗ trợ, nhưng các học viên
vẫn phải đóng học phí cho các khoá học này. Đồng thời chính phủ Hàn Quốc còn khuyến
khích mạnh mẽ các công ty thực hiện đào tạo tại CSSX nhằm giảm chi phí.
1.3. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Singapore
Đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ vào những năm 80. Lĩnh vực có sự phát triển và
mở rộng nhanh chóng là giáo dục nghề sau trung học, còn giáo dục nghề trung học tuy có
phát triển song chỉ chiếm phần nhỏ. Trong giáo dục trung học, phần lớn học sinh trong độ
tuổi theo học trung học phổ thông.
Ở Singapore tuy giáo dục nghề trung học ít được Chính phủ khuyến khích song nó
lại là một phần thống nhất không tách rời trong chiến lược phát triển nhân lực. Với chiến
lược tái cơ cấu kinh tế đưa ra năm 1979, mục đích của Singapore là chuyển sang các hoạt
động có giá trị gia tăng cao mà chủ yếu là các dịch vụ cao cấp tài chính và ngân hàng nên
điểm mạnh của đào tạo nghề tại nước này là sau trung học và đào tạo lại cho lực lượng lao
động hiện hành. Đồng thời với công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế chiến lược sử dụng lao
động được chuyển dịch từ dựa vào lao động có kỹ năng trong nước.
Chính phủ Singapore đầu tư thích đáng cho giáo dục đại học nhằm phát triển mạng
lưới nghiên cứu khoa học thông qua việc thành lập trường đại học quốc gia, các viện và
4


trung tâm nghiên cứu trong cả nước. Hàng năm chính phủ đầu tư khoảng 990 triệu USD
cho giáo dục, cùng với 360 triệu USD do các nhà trường tạo ra từ các hoạt động khoa học,
công nghệ đào tạo và dịch vụ để thực hiện các chương trình đào tạo lại, các chương trình

đào tạo nghề mới được đẩy mạnh đặc biệt là ở cấp sau trung học, do vậy cơ cấu nghề đã
được chuyển đổi mạnh mẽ.
1.4. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Trung Quốc
Có thể nói, Trung Quốc đã có một ”cuộc cách mạng” trong việc phân luồng học sinh
sau trung học cơ sở vào giáo dục nghề nghiệp rất thành công, từ 90% học sinh sau trung
học cơ sở vào bậc học phổ thông năm 1979 – 1980 giảm xuống còn 43,3% vào năm học
1995 – 1996, còn lại 56,7% vào học các trường đào tạo nghề
Giáo dục và dạy nghề ở Trung Quốc hiện chia làm 3 cấp. Cấp đầu tiên được thực
hiện chủ yếu trong các trường dạy nghề và nhằm đào tạo công nhân, nông dân và nhân
công cho các ngành nghề với kiến thức nghề nghiệp cơ bản và những kỹ năng nhất định.
Để đáp ứng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế địa phương, các trường dạy nghề cấp
một này chỉ được mở ở các vùng nông thôn, nơi kinh tế chưa phát triển.
Trường dạy nghề cấp hai không chỉ cung cấp cho xã hội những công nhân lành nghề
mà họ còn được đào tạo thêm kiến thức về văn hóa để có thể thích nghi với các khu chế
xuất, khu công nghiệp. Với việc học nghề kéo dài 2-3 năm, giáo dục hướng nghiệp cấp ba
ở Trung Quốc chủ yếu tuyển sinh những học viên đã từng tốt nghiệp các trường dạy nghề
cấp 2 nhằm đào tạo cho đời những công nhân “cổ trắng”. Hiện tại, việc dạy nghề ở Trung
Quốc do các Bộ Giáo dục và Lao động quản lý, nhưng các doanh nghiệp được khuyến
khích “đào tạo nghề” cho chính công nhân của mình.
1.5. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Đài Loan và Indonesia
Ở Đài Loan, hệ thống giáo dục được phân thành 2 luồng rất rõ rệt, sau trung học cơ
sở thì chỉ khoảng 20% vào học hệ thống giáo dục phổ thông còn lại 80% sẽ vào hệ thống
giáo dục nghề nghiệp.
Ở Indonesia, những năm gần đây Chính phủ nước này đã quyết định giảm dần tỉ lệ
học sinh sau trung học cơ sở vào trung học phổ thông và tăng dần tỉ lệ học sinh sau trung
học vào học nghề. Năm 2007 tỉ lệ học sinh sau trung học phổ thông chỉ còn 57% và 43%
tham gia vào học nghề.
2. Tình hình đào tạo nghề và đánh giá công tác tổ chức đào tạo nghề ở Việt Nam
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về định hướng phát triển dạy nghề, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển dạy nghề từ 2001 – 2010. Đến nay dạy nghề đã được phục

hồi sau một thời gian dài bị suy giảm, từng bước được đổi mới và phát triển đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong KD, dịch vụ phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội. Một số kết quả chủ yếu đã đạt được là:
2.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống đào tạo đào tạo nghề tại Việt Nam:
- Hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành ở nước ta từng bước được hình thành góp
phần nâng cao vị thế, vai trò của dạy nghề trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực và
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Hiện nay có 3 cấp dạy nghề bao gồm:
+ Dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học nghề năng lực thực hành của
một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc của một nghề;
+ Dạy nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho người học kiến thức chuyên môn
và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả năng làm việc độc lập và ứng
dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc;
5


+ Dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến thức chuyên
môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả năng làm việc độc lập và tổ
chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công
việc; giải quyết được các tình huống phức tạp trong thực tế.
Ưu điểm của hệ thống dạy nghề theo ba cấp trình độ là: đào tạo nhiều cấp trình độ
theo yêu cầu của thị trường lao động; liên thông trong hệ thông dạy nghề và liên thông
với các trình độ khác của hệ thống giáo dục quốc dân, tạo điều kiện và cơ hội cho thanh
niên học tập suốt đời, hoạt động để nâng cao trình độ nghề nghiệp; phù hợp với các trình
độ dạy nghề của các nước, tạo điều kiện cho việc hội nhập quốc tế và xuất khẩu lao động.
- Dạy nghề trình độ TCN và CĐN đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nhân lực có
tay nghề cao của TTLĐ trong quá trình CNH, HĐH đất nước; dạy nghề trình độ sơ cấp và
dạy nghề thường xuyên đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động (đặc biệt là khu vực
nông thôn) và nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (TTCN),
dịch vụ ở nông thôn theo hướng hiện đại.
- Mạng lưới CSDN mở rộng, phân bố tương đối hợp lý ở các ngành kinh tế, địa

phương, vùng, miền:
+Tính đến cuối năm 2011 trên cả nước có 1293 CSDN. So với năm 2001 số
trường nghề tăng 2,84 lần (từ 156 trường dạy nghề năm 2001 lên 443 trường CĐN và
TCN năm 2011); số TTDN tăng 5,66 lần (từ 150 TTDN năm 2001 lên 849 TTDN năm
2011). Mỗi tỉnh đã có ít nhất một trường nghề, một số huyện, cụm huyện đã có trường
TCN.Trường nghề bao gồm trường CĐN và trường TCN. Từ 2006 trở về trước chỉ có
trường dạy nghề và TTDN. Nếu tính cả các cơ sở khác có dạy nghề (bao gồm đại học,
cao đẳng, trung tâm khác có dạy nghề) thì mạng lưới CSDN cả nước có 1975 cơ sở, trong
đó CSDN công lập chiếm 67,2%. Số CSDN ngoài công lập chiếm 32,8%.
+ Thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt “Đề án Đào tạo nghề cho LĐNT đến năm 2020”, mạng lưới TTDN
cấp huyện đã được mở rộng. Năm 2011 có 386 TTDN cấp huyện nhằm đáp ứng nhucầu
đào tạo nghề cho LĐNT. Mạng lưới CSDN mở rộng, quy mô đào tạo tăng đã góp phần
nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2011 đạt 32%.
- Mạng lưới các trường, TTDN đã được thành lập theo quy hoạch và được phân bổ
ở tất cả các vùng miền, ở tất cả các loại hình công lập, tư thục, doanh nghiệp trên phạm vi
toàn quốc bước đầu đáp ứng được nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, đáp ứng nhu cầu học nghề để tìm việc làm và tự tạo việc làm, nâng cao thu nhập
của người lao động.
+ Theo hình thức sở hữu: Năm 2011 cả nước có tổng số 1293 CSDN, có 836
CSDN công lập (chiếm 64,6%) và 457 CSDN tư thục (chiếm 35,4%).
+ Theo vùng kinh tế xã hội: Mạng lưới các CSDN trong những năm qua phát triển
nhanh nhưng tập trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng, đô thị, số CSDN ở Đồng bằng
Sông Hồng, chiếm 27,3% số cơ sở trên cả nước, tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên
hải NamTrung Bộ 20,4%, thấp nhất là vùng Tây Nguyên chiếm 5,3%. Đồng bằng Sông
Hồng là vùng có số lượng trường CĐN cao nhất trong cả nước: 52 trường, chiếm 38,2%
số trường CĐN toàn quốc. Trong khi vùng Tây Nguyên hiện mới chỉ có 3 trường CĐN
+ Theo cấp quản lý: CSDN do Trung ương quản lý bao gồm các CSDN trực thuộc
các Bộ, ngành (Tập đoàn, tổng công ty nhà nước) và các hiệp hội khác như Liên minh
Hợp tác xã Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam,...Năm 2011 số CSDN do Trung

6


ương quản lý gồm có 124 cơ sở, trong đó có 108 cơ sở trực thuộc các Bộ, ngành (chủ yếu
thuộc các Bộ, ngành nhưBộ NN&PTNT (35 CSDN), Bộ Xây dựng (17 CSDN), Bộ Quốc
phòng (28 CSDN),Bộ Công thương (38 CSDN), Bộ Giao thông - Vận tải (17 CSDN))và
16 cơ sở thuộc các hiệp hội khác.
2.2. Quy mô dạy nghề theo các trình độ đào tạo và điều chỉnh cơ cấu nghề đào tạo
- Quy mô tuyển sinh dạy nghề tăng (Số lượng tuyển sinh dạy nghề tăng từ 887,3
ngàn người (ngoài công lập 170 ngàn) năm 2001 lên 1,860 triệu người (ngoài công lập
700 ngàn) năm 2011, tăng 2,01 lần, trong đó trình độ TCN và CĐN tăng 3,3 lần.
- Quy mô tuyển sinh dạy nghề trình độ TCN và CĐN (dạy nghề dài hạn) năm 2011
là 221.336 người (trong đó CĐN là 79.737 người, TCN là 141.629 người tăng 1,77 lần so
với năm 2001
- Cơ cấu nghề đào tạo đã được điều chỉnh theo nhu cầu thị trường lao động: Ban
hành danh mục nghề đào tạo mới có 301 nghề đào tạo trình độ CĐN và 385 nghề đào tạo
trình độ TCN, trong khi năm 2001 mới chỉ có 256 nghề đào tạo dài hạn.
- Đa dạng hóa hình thức, phương thức đào tạo nghề: dạy nghề chính quy, dạy nghề
thường xuyên;dạy nghề tập trung, dạy nghề lưu động, dạy nghề tại doanh nghiệp, làng
nghề. Đã triển khai đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp và dạy nghề cho nông
dân gắn với việc làm và tạo việc làm; thực hiện thí điểm nhà nước đặt hàng đào tạo nghề
với các trường để cung cấp lao động qua đào tạo nghề theo vị trí làm việc theo yêu cầu
của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty; thí điểm đào tạo nghề cho lao động ở các vùng
chuyên canh cây công nghiệp.
2.3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy nghề
- Tập trung đầu tư tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề để cải
thiện chất lượng:
+ Về đội ngũ giáo viên dạy nghề: Tính đến tháng 12 năm 2011, cả nước đã có
35.794 giáo viên dạy nghề (GVDN) tại các trường CĐN, TCN và TTDN, trong đó,
12.807 giáo viên tại các trường CĐN, 11.412 giáo viên tại các trườngTCN và 11.575 giáo

viên tại các TTDN. So với số giáo viên trong các trường dạy nghề năm 2007 (14.261
người), năm 2011, số GVDN trong các trường CĐN, TCN là 24.219 tăng 1,7 lần. Ngoài
ra,còn có hàng ngàn người là các nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật, nghệ nhân, nông dân sản
xuất giỏi, người có tay nghề cao tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn.
+ Về trình độ chuyên môn được đào tạo: Trong những năm gần đây đội ngũ GVDN
tăng cả về số lượng và chất lượng đặc biệt là về trình độ CMKT. Số GVDN có trình độ thạc
sỹ trở lên tại các CSDN là 2956 người (năm 2011), trong đó số người có trình độ này tại các
trường CĐN tăng 6,14 lần từ năm 2007 đến năm 2011.Tuy nhiên, từ năm 2009 đến 2011,
thực hiện đề án đào tạo nghề cho LĐNT, các CSDN đã huy động được đông đảo đội ngũ
người dạy nghề là nghệ nhân, người lao động có tay nghề cao trong các doanh nghiệp tham
gia dạy nghề, nên số người dạy nghề có trình độ khác ở các TTDN tăng đáng kể, đặc biệt 2
năm 2010 và năm 2011.
+ Về sư phạm dạy nghề: Để đáp ứng với yêu cầu về năng lực của GVDN trong
thời gian vừa qua, Tổng cục dạy nghề đã xây dựng, ban hành chương trình khung nghiệp
vụ sự phạm dạy nghềcho giáo viên dạy trình độ TCN, CĐN; chương trình SPDN cho giáo
viên dạy trình độ SCN; chương trình bồi dưỡng kỹ năng dạy học cho người dạy nghề và
06 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nâng cao tiếp cận trình độ quốc tế
7


City&Guilds. Tỷ lệ giáo viên đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm tại các trường
CĐN chiếm 80,8%, tại các trường TCN chiếm 71,2%,tại các TTDN là 53,5%.
+ Về kỹ năng nghề: Trong tổng số 83% giáo viên đang giảng dạy thực hành và
tích hợp chỉ có 57,8% giáo viên đạt chuẩn về kỹ năng nghề (4/7 hoặc tương đương trở
lên). Tỷ lệ giáo viên/học sinh đạt 1/20, thực hiện bồi dưỡng kỹ thuật công nghệ mới theo
định kỳ cho giáo viên để nâng cao trình độ và kỹ năng nghề.
+ Về chương trình dạy nghề: Chương trình dạy nghề đã được đổi mới về nội dung
cho phù hợp với kỹ thuật, công nghệ sản xuất và đặc biệt chú trọng tới rèn luyện kỹ năng
nghề cho người học, năm 2008 đã xây dựng được 114 bộ chương trình khung trình độ
TCN, chương trình khung trình độ CĐN theo phương pháp tiên tiến của Thế giới, trên cơ

sở phân tích nghề theo phương pháp DACUM, trong đó có 99 nghề thuộc lĩnh vực phi
nông nghiệp (chiếm 87%), 15 nghề thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư (chiếm 13%). Năm
2011 tiếp tục xây dựng và ban hành 28 chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho
giáo viên dạy trình độ CĐN, TCN; 12 chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho
giáo viên dạy trình độ SCN; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng Kỹ năng giảng dạy theo
chương trình khung trình độ CĐN, TCN; xây dựng, ban hành được 138 chương trình, tài
liệu; xây dựng, ban hành 51 chương trình tài liệu bồi dưỡng công nghệ mới.
Các nghề đào tạo được mở dần theo nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp, từng
bước phù hợp với sự phát triển các ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Chương trình dạy nghề được xây dựng xuất phát từ thực tiễn sản xuất của doanh nghiệp.
Khoảng 500 chương trình dạy nghề ngắn hạn, thường xuyên và SCN được các Bộ, ngành,
địa phương và CSDN xây dựng và ban hành, trong đó có 70 chương trình được các Dự án
ODA hỗ trợ xây dựng bằng phương pháp phân tích nghề. Các hội nghề nghiệp (Hội Làm
vườn, Hội Nông dân, Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hội Khoa học kỹ thuật nông
nghiệp …) đã xây dựng hàng trăm bộ chương trình, tài liệu chuyển giao công nghệ thông
qua các Dự án khuyến công, nông, lâm, ngư … thuộc lĩnh vực chế biến nông, lâm sản,
TTCN; khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng; cơ điện nông thôn,…
+ Về Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia: tính đến năm 2011 đã có 148 nghề được
xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và đã ban hành cho 109 thuộc các lĩnh vực Xây
dựng, Giao thông vận tải, Công nghiệp và Thương mại và nông nghiệp có 13 nghề được
ban hành Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia.
+ Về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề: Cơ sở vật chất, thiết bị của nhiều
CSDN đã được tăng cường đầu tư từ nhiều nguồn (NSTW, NSĐP, các dự án nước ngoài,
đầu tư của doanh nghiệp, CSSX kinh doanh - dịch vụ, các CSDN tự đầu tư,…). Đến nay
khoảng 50% số CSDN đã được trang bị bổ sung, nâng cấp đáp ứng một bước yêu cầu của
việc thực hành cơ bản; một số trường được trang bị tương đối đồng bộ, hiện đại ở một số
nghề phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, trong đó: có 15 trường của dự án ADB; 25
trường của các dự án Đức, Hà Lan, Hàn Quốc …; 60 trường được đầu tư tập trung và 250
TTDN được đầu tư tập trung từ Dự án tăng cường năng lực dạy nghề; 37 TTDN của dự
án Thụy Sỹ … và đại bộ phận các CSDN khác đã được trang bị các thiết bị đáp ứng được

yêu cầu thực hành cơ bản theo yêu cầu của chương trình dạy nghề. Một số trường đã có
thư viện và phòng thí nghiệm hiện đại.
- Triển khai hoạt động kiểm định chất lượng dạy nghề và đánh giá kỹ năng nghề:
từ năm 2008 đến 2011 đã thực hiện 115 lượt KĐCLDN cho tổng số 112 CSDN trên tổng
số 1293 CSDN toàn quốc (khoảng 9%). Khối trường CĐN đã được kiểm định chất lượng
8


chiếm tỉ lệ cao nhất trong 3 loại hình CSDN và được ưu tiên kiểm định chất lượng ngay
trong giai đoạn thực hiện thí điểm từ năm 2008, các tiêu chí kiểm định chất lượng TTDN
mới có từ 2010 và các TTDN bắt đầu được thực hiện kiểm định chất lượng từ năm 2010.
- Phát triển các CSDN liên doanh, liên kết với các cơ sở đào tạo nghề tiên tiến trên
thế giới, trao đổi kinh nghiệm giữa giáo viên. Đầu tư xây dựng CSDN chất lượng cao để
đào tạo một số nghề tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới.
- Dạy nghề không chỉ góp phần tích cực vào giải quyết việc làm trong nước mà còn
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động (tỷ lệ lao động có kỹ
năng nghề chiếm khoảng 25% trong tổng số lao động xuất khẩu), qua đó góp phần nâng cao
thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người lao động.
2.4. Về công tác quản lý tài chính và chính sách đầu tư cho dạy nghề
- Bộ máy quản lý nhà nước về dạy nghề từ trung ương đến địa phương đã được
tăng cường, hầu hết các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Phòng dạy nghề.
- Đã tăng cường phân cấp cho các cấp các ngành để nâng cao tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm cơ quan quản lý các cấp; đồng thời cũng phân cấp mạnh cho các CSDN tạo
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự, quản lý chi tiêu tài chính của cơ sở.
- Đã hoàn thành các chính sách hỗ trợ dạy nghề đối với người dân tộc thiểu số, bộ
đội xuất ngũ, người nghèo, người khuyết tật, lao động nông thôn; chính sách tín dụng cho
học sinh, sinh viên. Đã thí điểm triển khai đặt hàng đào tạo nghề cho đối tượng chính
sách, đối tượng bị thu hồi đất canh tác, người dân tộc thiểu số.
- Đầu tư cho dạy nghề ngày càng tăng, trong đó, ngân sách nhà nước vẫn giữ vai
trò chủ đạo, NSNN cho dạy nghề tăng 10,1 lần sau 10 năm, từ 2001 đến 2011. Giai đoạn

2006 - 2011, mỗi năm đầu tư cho dạy nghề tăng trên dưới 1000 tỉ đồng. Đặc biệt, năm
2007 khi Luật Dạy nghề bắt đầu có hiệu lực, đầu tư cho dạy nghề tăng hơn 1300 tỉ đồng
nhằm nâng cấp các trường dạy nghề lên trường CĐN và TCN. Năm 2010, NSNN cho
dạy nghề cũng tăng hơn 2000 tỉ đồng [30, Tr79-80].
3. Kết quả đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến năm
2013.
Ở nước ta, kể từ khi đổi mới đến những năm 90 của thế kỷ 20, nhà nước ta đã ban
hành và thực thi nhiều chính sách đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Tuy
nhiên việc ban hành nhiều chính sách đào tạo nghề dẫn đến khó khăn trong việc triển
khai, việc tổ chức đào tạo nghề phân tán, thiếu chiến lược... Từ khi có Quyết định
1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành định Đề án “Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn mới được chỉ đạo một cách thống nhất, đồng bộ, tập trung thông qua một chính sách
chung có tính tổng thể gọi tắt là đề án 1956. Quá trình thực thi đề án 1956 đã đem lại một
số thành tựu trong việc phát triển lực lượng lao động Việt Nam trong những năm qua, cụ
thể như sau:
3.1. Mạng lưới đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn hiện nay
Đào tạo nghề là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước được các cấp, các ngành
quan tâm. Trong những qua Chính phủ đã có những chính sách khuyến khích phát triển
dạy nghề cụ thể như sau: Ngày 28/12/2001 Chính phủ có Quyết định số 201/2001/QĐTTg định hướng phát triển dạy nghề từ năm 2001-2010; Nghị quyết số 07/2006/QĐBLĐTBXH về việc phê duyết “Quy hoạch phát triển mạng lưới trường CĐN, trường
TCN, TTDNđến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”; đây là những chính sách rất
9


quan trọng khẳng định từ nay đến năm 2013 công tác dạy nghề được đặt trên “đường ray”
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, phục vụ sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính, Bộ
Nông nghiệp và PTNT được giao các nhiệm vụ:
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức xây dựng

danh mục nghề, chương trình dạy nghề các nghề nông nghiệp trình độ sơ cấp nghề và dạy
nghề thường xuyên;
- Phối hợp với một công ty viễn thông để cung cấp thông tin thị trường hàng hóa,
hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp đến xã;
- Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: xây dựng cơ chế, chính sách về
dạy nghề cho lao động nông thôn; phân bổ kinh phí dạy nghề cho lao động nông thôn;
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan thí điểm
triển khai hình thức cấp thẻ học nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn;
- Kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông
thôn; định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng
hợp.
Từ năm 2012, Bộ Nông nghiệp và PTNT được giao thêm nhiệm vụ: Trực tiếp chỉ
đạo và chịu trách nhiệm về việc dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn (theo các
thông báo số 230/TB-VPCP ngày 27/9/2011; số 28/TB-VPCP ngày 30/01/2012 của Văn
phòng Chính phủ).
Tính đến 31 tháng 12 năm 2013, sau 4 năm triển khai nhiệm vụ được giao, Bộ
Nông nghiệp đã tích cực triển khai các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, trong
đó mục tiêu đào tạo nghề đã và đang từng bước được xã hội hoá thu hút được nhiều tổ
chức, đơn vị đã tham gia tích cực vào mạng lưới chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh
vực nông nghiệp bao gồm các trường dạy nghề của trung ương, các trường dạy nghề của
các tỉnh, các trường đại học, các viện nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, các TTDN,
CSDN khác nằm trong các làng nghề, các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX).
Bảng 1: Số cơ sở tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn tính đến năm 2013
TT
DN

TT
GD
TX


TT
KTTH
HN

Doanh
nghiệp, cơ
sở SXKD,
HTX
122


sở
khác

Quy mô

Tổng
số

Tr.
CĐN

Tr.
TCN

Cả nước
Trung du và M.
núi phía Bắc
Đồng bằng
sông Hồng

Bắc T.B. Duyên
Hải NTB
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Tây Nam Bộ

1.355

77

165

520

79

22

287

11

20

150

12

6


29

59

279

24

44

65

10

12

32

92

294

17

39

125

27


4

26

56

62
84
236

1
3
7

8
12
29

36
24
95

1
11
17

0
0
0


3
9
19

13
25
69

10

353


Các Bộ, ngành

113

14

13

25

1

0

4

39


Nguồn: Bộ NN&PTNT (2014), Báo cáo tóm tắt công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông
thôn do thực hiện QĐ 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ (Báo cáo ngày 16 tháng
04 năm 2014).

Như vậy, sau 4 năm triển khai Đề án về đào tạo nghề, mạng lưới cơ sở đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn cả nước có 1.355 cở sở tham gia công tác đào tạo nghề
cho lao động nông thôn, trong đó vùng Bắc trung bộ - và Duyên hải miền Trung là có số
lượng đơn vị tham gia lớn nhất với 294 đơn vị, sau là các vùng như Trung du và Miền núi
phía Bắc 287 đơn vị; ĐBSH với 279 đợn vị; Tây Nam Bộ là 236 đơn vị; các vùng có số
lượng đơn vị tham gia đào tạo nghề thấp nhất là Tây Nguyên với 62 đơn vị và Đông Nam
Bộ với 84 đơn vị tham gia.
Bảng 2: Số lượng giáo viên tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến
năm 2013
Quy mô/đơn vị
Cả nước
Vùng Trung du và Miền núi
phía Bắc

Loại hình giảng
viên
Thỉnh
Cơ hữu
giảng
11.600
9.731

Cán bộ
kỹ thuật
9.821


2.333

1.822

1.984

Đồng bằng Sông Hồng

3.440

2.456

3.053

Bắc Trung Bộ-Duyên Hải

1.926

1.986

1.874

Vùng Tây Nguyên

193

268

360


Vùng Đông Nam Bộ

711

517

493

Vùng Tây Nam Bộ

1.498

1.331

1.396

Các Bộ, ngành

1.588

1.351

1016

Sự phát triển mạnh của mạng lưới cơ sở đào tạo lao động nông thôn tính đến năm
2013 cả nước có 31.152 người tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong đó có
11.600 giảng viên cơ hữu, 9.731 giảng viên thỉnh giảng và 9.821 nghệ nhân, cán bộ kỹ
thuật tại các công ty, CSSX và các làng nghề, tổ hợp tác (THT). Tuy nhiên, bên cạnh sự
phát triển về số lượng thì mạng lưới dạy nghề hiện nay cần phải thường xuyên bồi dưỡng

kỹ năng nghề và tăng cường đào tạo kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng nghiệp vụ
quản lý dạy nghề cho các doanh nghiệp, CSSX và các nghệ nhân, kỹ sư...có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ tham gia vào công tác đào tạo nghề thì công tác đào tạo nghề mới
đạt được hiệu quả cao.
3.2. Kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đề án 1956 từ năm 2010 đến 2013
3.2.1. Tổ chức bộ máy triển khai đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Căn cứ Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ,
Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, tính đến năm
11


2013 cả nước đã thành lập các ban chỉ đạo thực hiện đề án ở các cấp. Ở trung ương, Ban
chỉ đạo do Chính phủ thành lập với sự tham gia của các Bộ có liên quan do Phó Thủ
tướng Chính phủ làm trưởng ban. Ban chỉ đạo cấp tỉnh do UBND tỉnh do Chủ tịch UBND
tỉnh thành lập. Hiện nay, cả nước có 63 ban chỉ đạo cấp tỉnh; cấp huyện có 654 ban/667
đơn vị hành chính cấp huyện, đối với cấp xã có 9.879 ban chỉ đạo hoặc tổ công tác/10.448
đơn vị hành chính cấp xã.
3.2.2. Một số kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến năm 2013
Theo Tổng cục thống kê, tính đến thời điểm 01/07/2012 cả nước có 52.581.300
người trong độ 15 tuổi trở lên, trong đó tỷ lệ lao động trong độ tuổi đang làm việc trong
nền kinh tế đã qua đào tạo chiếm 17,6% tương đương với 2.987.573 người, chi tiết được
nêu tại bảng 3 và bảng 4:
Bảng 3: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi
Đơn vị tính: nghìn người
Tổng số

Chia ra
15 – 24

25 – 49


2010

50.392,9

9.245,4

30.939,2

2011

51.398,4

8.465,2

31.503,4

2012

52.580

7.887,8

32.014,5

7.916,1

31.904,5

Năm


Sơ bộ năm
53.245,6
2013

50+
10.20
8,3
11.42
9,8
12.44
5,7
13.42
5

Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2013 – Tổng cục Thống kê

Bảng 4: Tỷ lệ (%) lao động trong độ tuổi đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo
phân theo giới tính và thành thị, nông thôn từ năm 2010 đến 2013

Nam

Nữ

14,6
15,4

16,2
17,2


12,8
13,5

Phân theo thành
thị, nông thôn
Thành
Nông
thị
thôn
30,6
8,5
30,9
9,0

16,6

18,6

14,5

31,7

10,1

17,9

20,3

15,4


33,7

11,2

Tổng
số
Năm
2010
2011
2012
Sơ bộ năm
2013

Phân theo giới
tính

Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2013 – Tổng cục Thống kê

Có sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ lệ lao động qua đào tạo giữa lao động nông thôn
và lao động thành thị, tuy nhiên không có sự chênh lệch nhiều về tỷ lệ qua đào tạo giữa
lao động nam và lao động nữ.
12


Đánh giá kết quả 4 năm thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn (từ
năm 2010 đến năm 2013) trên cả nước cho thấy một số kết quả nổi bật như đào tạo trên
1,6 triệu lao động nông thôn trong đó về lĩnh vực nông nghiệp đào tạo được trên 711.746
lao động; nghề phi nông nghiệp là 890.145 người, trong đó chi ra làm 3 loại đối tượng ưu
tiên. Đối tượng 1 là 585.769 chiếm 36,57% tổng số lao động được đào tạo(Người được
hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng 34.905 người; Người dân tộc thiểu

số 329.944 người; Người thuộc hộ nghèo 176.199; Người thuộc hộ bị thu hồi đất 35.152
người ; người khuyết tật 9.528 người). Đối tượng 2 và 3 chiếm 63,56%.
Đánh giá kết quả sau đào tạo cho thấy cả nước có 1.194.688 người đã qua đào tạo
có việc làm chiếm 79%, trong đó số lao động qua đào tạo nghề nông nghiệp có việc làm
là 563.298 người chiếm 82,8% tổng số lao động được đào tạo, số lao động qua đào tạo
nghề phi nông nghiệp có việc làm là 631.390 người chiếm 75,902%, xét về số lượng thì
số lao động qua đào tạo nghề phi nông nghiệp có việc làm cao hơn số lao động có việc
làm qua đào tạo nghề nông nghiệp, tuy nhiên so sánh về tỷ lệ trên số được đào tạo trên số
có việc làm thì tỷ lệ người có việc làm thông qua đào tạo nghề phi nông nghiệp có tỷ lệ
cao hơn.
3.2.3. Kết quả đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn do Bộ NN&PTNT chủ
trì phối hợp với các Bộ ngành, địa phương thực hiện từ năm 2010 đến 2013
3.2.3.1. Kết quả tổ chức xây dựng chương trình, giáo trình dạy nghề các nghề nông
nghiệp trình độ SCN
Thực hiện Thông tư số 31/TT-LĐTBXH ngày 08/10/2010 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề
trình độ sơ cấp và các văn bản hướng dẫn của Tổng cục dạy nghề, trong 04 năm (20102013), Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức xây dựng và ban hành chương trình và giáo
trình của 132 nghề nông nghiệp trình độ SCN cho lao động nông thôn
Các nghề được xây dựng tập trung vào các nhóm nghề trồng trọt 50 nghề; chăn
nuôi chiếm 12 nghề; lâm nghiệp chiếm 12 nghề, thủy sản 33 nghề và 25 nghề liên quan
đến thủy lợi, diêm nghiệp và chế biến nông sản.
Bộ NN&PTNT cũng đã chỉ đạo các Ban chủ nhiệm xây dựng chương trình và giáo
trình dạy nghề gắn với quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt tại Việt
Nam (ViệtGAP). Các chương trình, giáo trình bước đầu được đánh giá phù hợp với người
học và có tính thực tiễn. Đây là các nghề cấp thiết và có nhu cầu thực tế ở các địa phương.
Nội dung các chương trình và giáo trình được đăng tải trên các Website của Văn phòng Bộ
() và các Website của các đơn vị trực thuộc
(khuyennongvn.gov.vn,...), được các địa phương, cơ sở đào tạo nghề trong cả nước sử
dụng. Bên cạnh việc xây dựng mới các chương trình, giáo trình, Bộ NN&PTNT đã thường
xuyên chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch và thực hiện thẩm định, đánh giá chất lượng
và sự phù hợp của các chương trình, giáo trình đã ban hành làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ

sung các chương trinh đã ban hành và có những điều chỉnh cần thiết cho việc ban hành các
chương trình tiếp theo.
2.2.3.2. Thông tin thị trường hàng hóa, hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch
vụ nông nghiệp, tư vấn học nghề và việc làm cho lao động nông thôn
Công tác thông tin tuyên truyền về đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông
thôn là một trong những hoạt động thuộc nhiệm vụ của Bộ NN&PTNT trong việc thực
hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong suốt quá trình triển khải từ năm
13


2010 đến năm 2013, Bộ NN&PTNTđã thực hiện một số nội dung liên quan và đạt kết quả
như sau:
- Xây dựng chuyên trang “Tư vấn - dạy nghề” trên Báo Nông nghiệp Việt Nam:
Chuyên trang đã tổ chức thông tin, tuyên truyền có hiệu quả về công tác đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn. Nhiều bài viết đã giới thiệu, phản ánh đa dạng về
các kinh nghiệm, mô hình dạy nghề, học nghề hiệu quả trên cả nước. Ngoài ra, chuyên
trang cũng có nhiều bài giới thiệu thông tin đào tạo, tuyển sinh của các trường nghề, nhu
cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT. Đặc biệt từ
tháng 6/2012, chuyên trang đã mở chuyên mục “Nhịp cầu nhà nông” đăng tải thông tin
mua bán nông, lâm, thủy sản, tạo điều kiện cho nông dân kết nối với các doanh nghiệp
trong việc sản xuất hàng hóa và tiêu thụ nông sản, được đông đảo lao động nông thôn đón
nhận.
- Xây dựng chuyên mục“Mách nghề nông nghiệp” trên Kênh truyền hình Nông
nghiệp - Nông thôn (VTC16): Giai đoạn 2012-2013, đã sản xuất và phát sóng 60 chuyên
mục “Mách nghề nông nghiệp”. Các chuyên mục đã cung cấp các thông tin về chính sách,
định hướng phát triển; giới thiệu và tư vấn về công tác đào tạo và việc làm đối với lao
động nông thôn; các mô hình kinh tế nông nghiệp mới, các ngành nghề nông nghiệp được
Bộ Nông nghiệp và PTNT khuyến cáo và người lao động nông thôn quan tâm. Thêm vào
đó, kênh VTC16 cũng mở thêm chuyên mục hỏi đáp trong ngày để cung cấp thêm thông
tin cho bà con nông dân và người lao động nông thôn về đào tạo nghề nông nghiệp.

Ngoài ra, Bộ cũng đã xuất bản các số chuyên đề về “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn” trên Tạp chí Nông nghiệp và PTNT (2011-2012); Phối hợp sản xuất và phát
sóng các chương trình “Chuyện làm giàu của nhà nông” trên kênh VTV2, Đài Truyền
hình Việt Nam; Phối hợp sản xuất và phát sóng các chuyên mục “Mách nghề cho nông
dân” trên hệ VOV1, Đài Tiếng nói Việt Nam (năm 2011).
Nhìn chung, các kênh thông tin trên đã góp phần thông tin thị trường hàng hóa, hỗ
trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp, tư vấn học nghề và việc làm
cho lao động nông thôn;phổ biến, nhân rộng và khuyến khích nhiều người học tập làm theo
những doanh nghiệp, nông dân, những cá nhân và tập thể có những thành công trong lĩnh
vực nông nghiệp. Nhiều nông dân đã lựa chọn được nghề, CSDN phù hợp với khả năng và
điều kiện sản xuất tại địa phương để học nghề. Sau khi học nghề đã tổ chức sản xuất và
bước đầu đã nâng cao được thu nhập
3.2.3.3. Kết quả thí điểm triển khai hình thức cấp Thẻ học nghề nông nghiệp cho lao động
nông thôn
Bộ NN&PTNT đã chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động-TB&XH, Bộ Tài chính ban
hành Thông tư liên tịch số 66/2010/TTLT-BNNPTNT-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn quản
lý, phát hành, sử dụng thí điểm Thẻ học nghề nông nghiệp từ nguồn kinh phí Chương trình
mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo và phối hợp với Ủy ban nhân dân (UBND) 2 tỉnh Thanh
Hoá và Bến Tre triển khai thí điểm.
Sau hai năm thực hiện mô hình thí điểm cấp thẻ học nghề nông nghiệp, hai tỉnh
Thanh Hóa và Bến Tre đã cấp thẻ học nghề nông nghiệp cho 10.299 lao động nông thôn
và đào tạo được 9.757 lao động nông thôn học nghề nông nghiệp theo hình thức cấp thẻ.
Việc đào tạo nghề nông nghiệp theo hình thức cấp thẻ học nghề đã đạt được những
kết quả tích cực, cụ thể như sau:
14


- Việc cấp Thẻ học nghề nông nghiệp tạo được cơ chế cho lao động nông thôn
được quyền lựa chọn nghề học và cơ sở đào tạo nghề phù hợp với điều kiện sản xuất của
học viên;

- Việc tổ chức học nghề được gắn với kế hoạch phát triển sản xuất của địa phương
và của từng hộ gia đình (do học viên được lựa chọn học nghề thiết thực) nên hiệu quả đào
tạo cao hơn, tỷ lệ người được áp dụng kiến thức học vào công việc ngay trong thời gian
học và sau khi tốt nghiệp lớn, hạn chế được lãng phí đào tạo;
- Các CSDN có chất lượng thu hút được nhiều người học, tạo ra được cơ chế thị
trường bình đẳng trong dạy nghề, hạn chế cơ chế xin - cho, khuyến khích các CSDN nâng
cao chất lượng dạy nghề và các dịch vụ liên quan.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế
cần phải có những điều chỉnh phù hợp nếu muốn nhân ra diện rộng. Cụ thể một số khó
khăn tồn tại như sau:
- Việc phối hợp giữa các cơ quan thuộc ngành Nông nghiệp và PTNT với các cơ
quan thuộc ngành Lao động-TB&XH ở các địa phương chưa theo đúng tinh thần chỉ đạo
của Quyết định 1956; vai trò tham gia Đề án của Sở Nông nghiệp và PTNT và Trung tâm
Khuyến nông tại các địa phương chưa rõ nét và còn thụ động, dẫn đến việc hướng dẫn
người lao động chọn nghề học phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp tại
địa phương và phát huy hiệu quả học nghề của người lao động còn yếu;
- Một bộ phận người lao động chưa thực sự được học đúng nghề, đúng cơ sở đào
tạo theo nhu cầu do khó khăn trong công tác tổ chức lớp học: lớp ít người không đủ điều
kiện mở lớp, đi học xa, kinh phí thấp. Chỉ tiêu kinh phí thấp, mức ưu đãi chưa đủ hấp dẫn
người học ...
- Các CSDN còn lúng túng trong việc xin cấp ứng kinh phí dạy nghề và thủ tục
thanh quyết toán kinh phí sau khi kết thúc lớp học. Chưa có cơ chế xin ứng kinh phí
trước khi mở lớp.
Nguyên nhân của những hạn chế và khó khăn trong công tác triển khai là:
- Văn bản hướng dẫn thực hiện còn thiếu, chưa cụ thể và còn một số nội sung khó
thực hiện (một phần do cơ chế hiện tại chưa cho phép), nếu mô hình đào tạo nghề này
được nhân rộng thì cần bổ sung và hoàn thiện dần hệ thống văn bản;
- Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan, đặc biệt giữa các sở: Lao động TB&XH, Nông nghiệp và PTNT và Tài chính chưa nhuần nhuyễn và kịp thời; vai trò của
Sở Nông nghiệp và PTNT trong thực hiện Đề án còn mờ nhạt;
- Các CSDN còn lúng túng trong đào tạo nghề theo hình thức cấp thẻ, việc phải

ứng trước kinh phí tổ chức và thanh quyết toán kinh phí sau kết thúc lớp học còn khó
khăn, nên chưa thật nhiệt tình tham gia đề án;
- Công tác tuyên truyền, tư vấn chưa thật tốt nên người lao động chưa nắm vững
các quy định của đề án; còn một bộ phận người lao động do nhiều nguyên nhân chưa tha
thiết với học nghề;
- Một số địa phương do trình độ phát triển sản xuất còn thấp, khó tổ chức lớp học
có hiệu quả;
- Việc chuẩn bị cho đào tạo theo hình thức cấp thẻ còn ngắn, chưa lường được
những phát sinh xảy ra, chưa có thời gian để các CSDN thích ứng và có thời gian quảng
bá hình ảnh của mình đến người lao động.
15


3.2.3.4. Kết quả chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao
động nông thôn tại các địa phương
Năm 2012, do mới được giao nhiệm vụ nên các Sở Nông nghiệp và PTNT gặp một
số khó khăn và vướng mắc: chưa được tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ về tổ chức dạy
nghề (công tác lập kế hoạch, quy trình tổ chức lớp học, lựa chọn CSDN, thủ tục thanh
quyết toán); lúng túng, thiếu thống nhất trong việc chọn đầu mối giao nhiệm vụ quản lý
công tác đào tạo nghề; không được giao hoặc chậm được thông báo kinh phí dẫn đến
thiếu chủ động và gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai. Tuy nhiên, Sở Nông
nghiệp và PTNT các tỉnh đã tích cực, chủ động phối hợp với Sở Lao động -Thương binh
và Xã hội tháo gỡ khó khăn, chỉ đạo triển khai công tác đào tạo nghề nông nghiệp. Các Sở
được UBND tỉnh giao kinh phí đều thực hiện được hầu hết các lớp theo kế hoạch được
tỉnh phê duyệt.
Năm 2013, Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh đã chủ động hơn trong chỉ đạo và tổ
chức thực hiện. Phần lớn Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh đã được UBND tỉnh quyết
định giao nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo nghề nông nghiệp, kết
quả cụ thể:
- Kết quả thực hiện đào tạo nghề: theo kết quả báo cáo của các địa phương, tổng số

lao động được học nghề nông nghiệp là 203.119 người, trong đó có 78.537 lao động nữ
(chiếm 38,6%); Trong số đó, có 8.649 lao động được hưởng chính sách có công với cách
mạng (4,25%); 48.628 lao động là người dân tộc thiểu số (23,9%); 23.449 lao động thuộc
hộ nghèo (11,5%); 4.660 người thuộc hộ bị thu hồi đất (2,3%) và có 679 người bị khuyết
tật (0,3%); 7.514 người thuộc hộ cận nghèo (3,7%) và 116.615 người là lao động nông
thôn khác (57,4%).
- Hiệu quả sau học nghề: Trong số 188.768 lao động nông thôn đã học xong,có
166.526 người (chiếm 88,2%) đã có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ nhưng cho
năng suất và thu nhập cao, trong đó6.879 lao động (chiếm 3,6%) được doanh nghiệp
tuyển dụng vào làm việc so với số người có việc làm;18.570 lao động sau khi học xong đã
được các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, đạt 9,8% so với số người có việc làm; 954
người sau khi học xong đã thành lập tổ HTX, doanh nghiệp, chiếm 0,5% so với số người
có việc làm.
- Phát triển đội ngũ giáo viên, người dạy nghề: Có 761cơ sở tham gia dạy nghề
nông nghiệp cho LĐNT; có 12.705 giáo viên tham gia dạy nghề, trong đó có 7.723 giáo
viên cơ hữu và 4.982 giáo viên thỉnh giảng. Đã thu hút được nhiều CSDN, hệ thống các
trường thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, các TTDN và Trung tâm Khuyến nông tỉnh tham
gia dạy nghề cho lao động nông thôn; một số nơi đã gắn kết giữa địa phương, cơ sở đào
tạo và doanh nghiệp trong việc triển khai đào tạo, tạo việc làm cho người lao động.
Tổng số lao động nông nghiệp đã được đào tạo cho giai đoạn (2010-2013) là
662.828 người (đạt trên 50% mục tiêu của Đề án). Theo đánh giá chung của các địa
phương, các lớp đào tạo nghề nông nghiệp đều tập trung trong lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi và thủy sản theo nhu cầu của địa phương, gắn với chương trình xây dựng nông thôn
mới và quy hoạch phát triển nông nghiệp xã. Các lớp dạy nghề nông nghiệp đã lấy thực
hành là chính, với phương châm “cầm tay, chỉ việc”; giúp người học tiếp cận và làm theo
những mô hình, điểm trình diễn đã có. Giáo viên dạy nghề nông nghiệp là người có kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp và có khả năng thực hành “miệng nói, tay làm”.
16



3.2.3.5. Công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện dạy nghề nông nghiệp cho lao
động nông thôn ở các địa phương.
Bộ NN&PTNT đã triển khai công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện dạy
nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn ở nhiều địa phương trên cả nước. Riêng năm
2013, Bộ đã tổ chức các đoàn đi kiểm tra, giám sát tại các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Bà
Rịa Vũng tàu, Phú Thọ, Thái Nguyên, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Gia lai, Kon Tum, Đắc
Lắc, Nam Định để nắm bắt tình hình triển khai công tác đào tạo nghề của các địa phương.
Tổ chức 02 Hội nghị giao ban vùng (vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng Miền núi
phía Bắc) nhằm chia sẻ kinh nghiệm trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và lắng
nghe những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai của các địa phương.
Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh cũng rất tích cực phối hợp với các Sở, ban
ngành có liên quan trong tỉnh tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động dạy nghề theo các
hình thức đột xuất và định kỳ tại các CSDN cấp huyện, thị xã, thành phố có tham gia dạy
nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn. Thông qua kiểm tra đã nắm bắt và đánh giá
đúng tình hình triển khai thực hiện. Kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế trong công
tác chỉ đạo điều hành của Ban chỉ đạo các cấp.
4. Những điểm hạn chế, yếu kém ảnh hưởng đến kết quả thực thi chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn.
- Hoạt động đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn trong giai đoạn vừa
qua chưa có sự gắn kết chặt chẽ với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới và chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp; chưa gắn với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội, xây dựng nông thôn mới, nhất là quy hoạch sản xuất nông nghiệp,
TTCN, dịch vụ.
- Số lượng giáo viên được đào tạo kỹ năng dạy nghề còn thấp, việc xây dựng giáo án,
bài giảng, tổ chức thi kiểm tra, xét cấp chứng chỉ nghề cho học viên còn chưa có nhiều kinh
nghiệm.
- Sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong công tác thông tin tuyên
truyền, chỉ đạo về đào tạo nghề nói chung và nghề nông nghiệp nói riêng còn hạn chế và
thiếu đồng bộ dẫn đến khó khăn trong việc hướng dẫn Trung tâm Khuyến nông các tỉnh
thực hiện.

- Đào tạo nghề nông nghiệp trong giai đoạn vừa qua mới tập trung vào đào tạo kỹ
thuật sản xuất theo các nghề cũ, chưa đào tạo được các nghề mới: Thực chất, đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn trong thời gian qua vẫn chủ yếu đào tạo cho lao
động nông thôn hiện đang làm nông nghiệp và sau khi học nghề vẫn tiếp tục làm nghề cũ
(chiếm khoảng 67,2%); Chương trình đào tạo nghề mới chỉ dừng lại ở phổ biến kiến thức,
quy trình và các biện pháp kỹ thuật cho cây trồng vật nuôi. Việc giới thiệu các tiến bộ
khoa học kỹ thuật mới trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ
cao, đi sâu về bảo quản, chế biến nông sản còn rất hạn chế. Chính vì vậy chưa đáp ứng
được yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; chưa góp phần đáng kể vào chuyển
dịch được cơ cấu lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp.
- Phần lớn đào tạo nghề nông nghiệp thời gian vừa qua chưa gắn với các doanh
nghiệp hay HTX để bao tiêu sản phẩm nên không thu hút được người học. Hơn nữa, vẫn
còn tình trạng học theo phong trào, học nghề xong không tham gia sản xuất nông nghiệp
mà chuyển sang làm việc khác. Mặt khác, việc tiếp cận nguồn vốn vay sau khi được đào tạo
nghề để đầu tư, mở rộng sản xuất gặp nhiều khó khăn nên nhiều lao động sau khi học
17


không có điều kiện đầu tư vào sản xuất theo mô hình sản xuất hàng hóa nên chưa thực sự
phát huy hiệu quả từ học nghề.
- Nội dung chương trình, phương thức tổ chức lớp, chính sách hỗ trợ người học
còn có nhiều điểm hạn chế, chưa phù hợp, mức thù lao giảng viên thấp, rất khó để có thể
mời được giảng viên tốt; mức chi phí hỗ trợ cho người học (hỗ trợ tiền ăn, hỗ trợ tiền đi
lại) chưa đảm bảo để thu hút người lao động tham gia học nghề. Một số địa phương
phương thức tổ chức đào tạo nghề chưa linh hoạt, gây khó khăn cho người học nghề.
- Công tác điều tra, khảo sát nhu cầu của nông dân và lập kế hoạch dạy nghề có nơi
còn chưa sát với thực tế, chưa phù hợp với yêu cầu. Nên nhiều lao động sau khi học nghề
xong, tuy có việc làm nhưng không ổn định và thiếu bền vững.
- Thiếu định hướng nghề nghiệp và giải quyết việc làm khi kết thúc khóa học cho
lao động nông thôn. Chưa có cơ chế, chính sách để nông dân và doanh nghiệp liên kết,

hợp tác trong sản xuất bền vững tạo ra chuỗi giá trị của sản xuất hàng hóa.
- Mạng lưới dạy nghề còn nhiều bất cập, chưa huy động được đông đảo đội ngũ
chuyên gia nông nghiệp, cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan nghiên cứu
và các đơn vị thực nghiệm tham gia dạy nghề; nội dung đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của
việc sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại.
- Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong quá trình quản lý đào tạo nghề nông
nghiệp cho lao động nông thôn còn thiếu chặt chẽ. Hầu hết các Sở nông nghiệp và PTNT
hiện nay đều không được bố trí cán bộ chuyên trách theo dõi lĩnh vực đào tạo nghề nông
nghiệp cho lao động nông thôn, một cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều công việc, dẫn đến khó
khăn trong quản lý, theo dõi và tổng hợp báo cáo kết quả về dạy nghề nông nghiệp cho lao
động nông thôn hàng năm.
- Kinh phí hỗ trợ cho hoạt động đào tạo nghề còn hạn chế, định mức chi chưa phù
hợp với điều kiện thực tế. Việc bố trí kinh phí cho đào tạo nghề nói chung và nghề nông
nghiệp chậm và phân tán. Ở Trung ương Bộ NN&PTNT ban đầu giao Vụ tổ chức quản lý,
sau chuyển sang cho Trung tâm KNQG làm đầu mối.
- Hoạt động xây dựng và trình đề án về CSDN của các Trung tâm khuyến nông tỉnh với
Sở LĐTBXH còn chậm do công tác thẩm định gặp nhiều khó khăn. Mặt khác một số Trung
tâm Khuyến nông chưa chủ động cấp chứng chỉ Sơ cấp nghề (SCN) cho nông dân sau đào tạo
(mua phôi chứng chỉ SCN của Sở Lao động TBXH).
Chưa xây dựng được thị trường ổn định cho việc tiêu thụ sản phẩm của người nông
dân sản xuất sau khi họ đã học nghề và giá cả không ổn định cũng khiến cho nhiều lao
động băn khoăn khi đăng kí học nghề.
- Việc tham gia của các doanh nghiệp vào đào tạo nghề còn mang tính khuyến
khích, đề xuất, tự nguyện mà chưa có văn bản quy định bắt buộc, vì vậy chưa thật tận
dụng hết nguồn lực của doanh nghiệp và sự đóng góp của doanh nghiệp cho đào tạo nghề
còn hạn chế. Việc tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn gắn kết với doanh nghiệp vẫn
còn bất cập. Một số doanh nghiệp chưa đủ mạnh để bao tiêu hết sản phẩm cho nông dân,
mặt khác một số địa phương người dân sản xuất ra hàng hóa chưa đạt yêu cầu của doanh
nghiệp. Vì vậy cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp nhỏ và chợ đầu mối là lựa chọn dễ
dàng hơn cho người nông dân.

- Vốn đầu tư mở rộng sản xuất nông nghiệp cũng là 1 rào cản rất lớn đối với nông dân
nói chung và nông dân đã được đào tạo nghề nông nghiệp nói riêng.
18


5. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém
- Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn trong giai đoạn vừa qua là
hoạt động thử nghiệm và bước đầu triển khai ra diện rộng nên còn thiếu kinh nghiệm
trong chỉ đạo định hướng, chưa có sự thống nhất của các bộ ngành trong việc triển khai.
- Kinh phí hỗ trợ cho hoạt động đào tạo nghề còn hạn chế, định mức chi chưa phù
hợp với điều kiện thực tế. Phân bổ ngân sách ĐTN còn chậm, mà đào tạo nghề nông
nghiệp thường gắn với mùa vụ, gắn với chu kỳ sinh trưởng của cây trồng vật nuôi.
- Nhận thức của người dân về nghề nông nghiệp chưa cao: Bản thân người lao
động chưa coi việc được đào tạo nghề nông nghiệp là nhu cầu cần thiết. Tình trạng lao
động còn “thụ động” đến với đào tạo nghề, không xác định mục tiêu sau đào tạo.
- Thiếu giáo viên chuyên về đào tạo nghề nông nghiệp, bên cạnh đó cán bộ tham
gia đào tạo nghề nông nghiệp đa số chưa được đào tạo về nghiệp vụ sư phạm, danh mục
nghề đào tạo còn hạn chế, việc xây dựng chương trình, danh mục nghề còn chậm, tài
liệu hướng dẫn chưa được đồng bộ.
II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC THI CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1. Giải pháp tuyên truyền chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Tuyên truyền, tư vấn về học nghề và việc làm đối với người lao động là hoạt động đầu
tiên trong nhóm các hoạt động của Đề án và có vai trò hết sức quan trọng để nâng cao
nhận thức của các cấp, các ngành và xã hội về dạy nghề nói chung và dạy nghề nông
nghiệp cho người lao động nói riêng, góp phần tăng năng suất lao động, tạo việc làm, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và chất lượng lao động.
Để tuyên truyền, tư vấn học nghề và việc làm đối với người lao động các Bộ, ngành, địa
phương cần tích cực triển khai các hoạt động sau:
- Tập huấn cho cán bộ của Trung tâm khuyến nông, cán bộ Phòng LĐTBXH các

tỉnh về công tác tư vấn học nghề cho người lao động (nội dung nghề nông nghiệp do
Trung tâm KNQG chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện).
- Tổ chức Hội nghị giao ban giữa các cơ quan có liên quan để chia sẻ kinh nghiệm,
thống nhất kế hoạch tuyên truyền, tư vấn học nghề cho người lao động.
- Các Bộ ngành có liên quan triển khai việc cung cấp thông tin thị trường hàng hóa,
hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cho người lao động đến cấp xã.
- Tuyên truyền các chủ trương, chính sách, hoạt động đào tạo nghề trên các
phương tiện thông tin đại chúng, giới thiệu mô hình đào tạo mới, cách làm hay cho đông
đảo các cơ quan, đơn vị, cán bộ giảng dạy và học viên.
Trung tâm KNQG tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về đào tạo
nghề nông nghiệp cho nông thôn qua các kênh thông tin hiện có, xây dựng mới một
số hình thức tuyên truyền để thông tin rộng rãi đến đông đảo nhân dân và các cấp các
ngành trong cả nước; tổng hợp kết quả, kinh nghiệm chia sẻ cho các tỉnh, các cơ
quan chuyển giao tiến bộ kỹ thuật ở trung ương và địa phương trong việc tổ chức
triển khai công tác đào tạo nghề nông nghiệp.
2. Các giải pháp về chuyên môn
2.1. Điều tra khảo sát thông tin thị trường lao động, dự báo nhu cầu và thí điểm các mô
hình dạy nghề cho người lao động.
Điều tra khảo sát nhu cầu học nghề của người lao động và dự báo nhu cầu sử dụng lao
19


động qua đào tạo nghề của các CSSX kinh doanh, dịch vụ và năng lực đào tạo của các
CSDN cho người lao động là hoạt động hết sức quan trọng, là cơ sở để triển khai thực
hiện Đề án đào tạo nghề cho người lao động có hiệu quả, xây dựng kế hoạch dạy nghề
hàng năm đảm bảo mục tiêu, yêu cầu của đề án.
Hướng dẫn, hỗ trợ và tập huấn nghiệp vụ điều tra cho các huyện thuộc các tỉnh thí điểm
và một số địa phương đồng thời thiết kế phần mềm nhập tin cho các địa phương, xây
dựng hệ thống biểu mẫu đầu ra và mô hình dự báo nhu cầu dạy nghề cho người lao động.
Thí điểm các mô hình dạy nghề cho người lao động: để dạy nghề nông ghiệp cho người

lao động đảm bảo hiệu quả theo yêu cầu của Đề án, cơ quan thường trực đề án đã phối
hợp với nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan triển khai thí điểm một số mô hình dạy nghề
cho người lao động, cụ thể là:
- Phối hợp với Hiệp Hội làng nghề Việt Nam xây dựng đề án dạy nghề như: dạy
nghề và tổ chức việc làm gắn với phát triển làng nghề mới; dạy nghề với kết hợp vùng
nguyên liệu, tổ chức việc làm và bao tiêu sản phẩm; dạy nghề gắn với duy trì, phát triển
làng nghề truyền thống.
- Phối hợp với một số tập đoàn, tổng công ty, khu công nghiệp, CSSX kinh doanh và
một số trường đào tạo về lĩnh vực công nghiệp chế biến, dịch vụ...để triển khai đặt hàng
dạy nghề cho người lao động chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn hoặc làm
việc trong các KCN - KCX và các doanh nghiệp của địa phương.
Việc tổ chức dạy nghề thực hiện theo cơ chế cộng đồng trách nhiệm giữa các bên có
liên quan: cơ quan quản lý nhà nước cấp kinh phí đào tạo từ nguồn kinh phí đào tạo nghề
cho người lao động được phân bổ, doanh nghiệp nhận học viên vào thực tập, tham gia xây
dựng chương trình và đánh giá kết quả đào tạo, tiếp nhận lao động sau khi đào tạo vào làm
vào làm việc, CSDN tổ chức đào tạo theo nhu cầu sử dụng.
- Phối hợp với các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ nông nghiệp, doanh nghiệp
sản xuất chế biến và thương mại nông sản tổ chức đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho nông
dân trên thực tế đồng ruộng, gắn kết việc đào tạo với thực tế sản xuất tại từng địa phương,
từng loại hình sản xuất và nhu cầu sản phẩm nông nghiệp của doanh nghiệp nhằm phát
huy hiệu quả đào tạo.
2.2. Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, đa dạng hoá các hoạt động dạy nghề
Phát triển, mở rộng mạng lưới CSDN cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Củng cố, mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các CSDN hiện có.
Khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và các cá nhân đầu tư
thành lập CSDN. Khuyến khích các cơ sở giáo dục đào tạo, trung tâm khuyến nông,
khuyến công, ... có đủ điều kiện tham gia dạy nghề.
Trung tâm KNQG tiếp tục xây dựng đề án phát triển mạng lưới đạo tạo nghề, nâng cao
năng lực cho hệ thống khuyến nông trình Bộ NN&PTNT phê duyệt để triển khai tiếp
trong năm 2015 và các năm tiếp theo nhằm phát triển hệ thống và đảm bảo có một đội

ngũ hùng hậu, chuyên nghiệp về dạy nghề đáp ứng các yêu cầu của thị trường lao động,
góp phần vào tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu lao động, cụ thể cần tiến
hành:
- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới CSDN của hệ thống khuyến
nông cả nước đến năm 2020 trên cơ sở căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển mạng
lưới CSDN cả nước.
20


- Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác giữa Hệ thống khuyến nông với các trường
đại học, cao đẳng, trường trung cấp chuyên nghiệp, các viện nghiên cứu và các cơ sở giáo
dục khác tham gia liên kết trong việc tổ chức dạy nghề nông nghiệp.
- Đa dạng hoá hoạt động dạy nghề và học nghề nông nghiệp: đa dạng hoá phương
thức đào tạo, liên kết với các trường CĐN, TCN để dạy nghề chính quy và dạy nghề
thường xuyên. Dạy nghề theo hợp đồng giữa CSDN của hệ thống khuyến nông và doanh
nghiệp với nội dung chương trình dạy nghề theo yêu cầu của doanh nghiệp.
- Đổi mới công tác tuyển sinh học nghề theo hướng các CSDN của hệ thống
khuyến nông được tuyển sinh nhiều lần trong năm, tuỳ theo khả năng mùa vụ sản xuất,
thời gian của khoá học và nhu cầu của người học nghề, của Doanh nghiệp.
- Giúp người học nghề được lựa chọn các học nghề phù hợp với điều kiện cụ thể
của mình, có đủ điều kiện thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được cấp văn bằng,
chứng chỉ tương ứng với chương trình đào tạo. Những kiến thức và kỹ năng mà người học
tích luỹ được trong quá trình học tập và làm việc được xem xét công nhận và không phải
học lại khi học các chương trình dạy nghề.
Tăng cường hỗ trợ các cơ sở dạy nghề nông nghiệp của địa phương trong việc tổ chức
đào tạo nghề nông nghiệp:
- Ký hợp đồng với các Trung tâm Khuyến nông các tỉnh tổ chức tuyển sinh, dạy
nghề cho lao động nông thôn theo đúng nhu cầu của các địa phương.
- Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất cho các Trung tâm Khuyến nông các tỉnh tham gia sạy
nghề sao cho “học” đi đôi với “hành”, có giáo viên giỏi để dạy nghề, bảo đảm khi ra trường,

học viên không chỉ “biết” nghề mà phải “hiểu” nghề, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển
dụng hay các đối tác. Điều này đồng nghĩa với việc khẳng định hiệu quả đào tạo nghề, mới
thu hút được người lao động học nghề.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác giảng dạy và đào tạo
nghề thông qua các chương trình dự án khuyến nông.
- Hướng dẫn TTKNKN các tỉnh sử dụng kinh phí đúng mục đích, có hiệu quả,
không để thất thoát; tập hợp và lưu trữ chứng từ thu, chi, thanh toán theo chế độ kế toán
hiện hành; chịu trách nhiệm về tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ đó.
- Tổ chức kiểm tra đánh giá, cấp chứng chỉ cho học viên đạt yêu cầu ngay sau khi
kết thúc khóa học.
2.3. Đổi mới nội dung chương trình dạy nghề
Đổi mới nội dung chương trình dạy nghề nông nghiệp: Trung tâm KNQG phối hợp
với các cơ quan chuyên môn của Bộ NN&PTNT và các cơ quan chuyên môn tại địa
phương tiếp tục nghiên cứu và trình Bộ phê duyệt chương trình dạy nghề mới với yêu cầu
nội dung chương trình dạy nghề phải phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động, được
quy định tại các tiêu chuẩn kỹ năng nghề hoặc được xác định qua phân tích nghề và
thường xuyên được cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Tăng thời lượng rèn luyện kỹ năng thực hành nghề; giảm thời lượng lý thuyết;
Khuyến khích các trường, các đơn vị nghiên cứu thuộc Bộ NN&PTNT tăng cường
hợp tác quốc tế về đào tạo nghề nông nghiệp, đặc biệt quan tâm đến các nghề làm gia tăng
giá trị sản phẩm nông nghiệp như bảo quản, chế biến nông sản, khai thác hải sản xa
bờ….;
Tăng cường hoạt động dạy nghề trên các kênh truyền thông đại chúng và đào tạo
trực tuyến trên trang Web khuyến nông Việt Nam; chương trình dạy nghề từ xa;
21


Phát triển chương trình, giáo trình dạy nghề:
- Hướng dẫn các cơ sở thực hiện dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn thống
nhất đào tạo theo chương trình, giáo trình khung do Bộ NN&PTNT ban hành.

Căn cứ vào chương trình khung của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ
NN&PTNT đã ban hành các CSDN xây dựng chương trình cho từng trình độ đào tạo từ
SCN đến CĐN đảm bảo các mục tiêu dạy nghề theo từng cấp trình độ và tính liên thông
giữa các trình độ cho từng nghề, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
- Xây dựng cơ chế chính sách và tham mưu cho Bộ NN&PTNT về việc huy động
các nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh
nghiệp và CSSX kinh doanh, các trung tâm khuyến nông-lâm-ngư, nông dân sản xuất giỏi
tham gia xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề cho người lao động.
- Khảo sát nhu cầu học nghề, đề nghị Bộ Lao động thương binh xã hội xây dựng
danh mục thiết bị dạy nghề cho 3 cấp trình độ đào tạo và lên kế hoạch xây dựng danh mục
thiết bị dạy nghề cho 132 nghề đào tạo trình độ sơ cấp chủ yếu tập trung vào các nghề
thuộc lĩnh vực nông - lâm nghiệp và các nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) để phát triển
nghề truyền thống.
- Xây dựng và trình Bộ NN&PTNT phê duyệt đề án ”Hỗ trợ đầu tư, đổi mới và
phát triển chương trình, giáo trình, học liệu đối với các nghề mới, các nghề phải thường
xuyên cập nhật kỹ thuật công nghệ mới để dạy nghề cho người lao động đáp ứng yêu cầu
thực tiễn sản xuất và của thị trường lao động”.
- Đổi mới phương pháp dạy và học nghề theo hướng dễ học, dễ hiểu phù hợp với
trình độ lao động học nghề.
2.4. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên là lực lượng quan trọng đóng góp vào thành công của công tác dạy nghề,
đặc biệt là nghề nông nghiệp, vì vậy cần có những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
cán bộ kỹ thuật, trình độ sư phạm của người làm công tác dạy nghề nói chung và nghề nông
nghiệp nói riêng, cụ thể:
a) Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý (CBQL)
dạy nghề, bảo đảm đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát
triển dạy nghề.
b) Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức giáo viên dạy
nghề; tiêu chuẩn hiệu trưởng trường CĐN; hiệu trưởng trường TCN, giám đốc TTDN;
tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức quản lý dạy nghề.

c) Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và
CBQL dạy nghề. Chủ trọng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành nghề và
nghiệp vụ sư phạm của giáo viên; tầm nhìn chiến lược, năng lực sáng tạo, tính chuyên
nghiệp của CBQL dạy nghề. Đào tạo giáo viên dạy nghề ở nước ngoài đối với những
ngành nghề đào tạo mới, có công nghệ, kỹ thuật hiện đại.
d) Đổi mới phương thức và đa dạng hoá đối tượng tuyển dụng giáo viên dạy nghề
theo hướng khách quan, công bằng và có yếu tố cạnh tranh. Mở rộng việc tuyển chọn
những người đã đạt chuẩn trình độ đào tạo và chuyên môn (tốt nghiệp các trường CĐ,ĐH
chuyên ngành, ưu tiên những người đã có kinh nghiệm thực tế trong sản xuất) và đào tạo
nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng dạy nghề để làm giáo viên dạy nghề.
đ) Xây dựng các chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy nghề theo hướng tiếp cận với
yêu cầu thực tế của đổi mới dạy nghề và với tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Thực
22


hiện thường xuyên chế độ định kỳ bồi dưỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề, tin học và ngoại ngữ cho đội ngũ giáo
viên dạy nghề. Đa dạng hoá phương thức tổ chức bồi dưỡng theo hướng mềm dẻo và linh
hoạt; tăng cường phương thức bồi dưỡng qua thực tế và bồi dưỡng từ xa.
e) Xây dựng và thực hiện chương trình chuẩn đào tạo, bồi dưỡng quản lý dạy nghề
cho đội ngũ CBQL dạy nghề các cấp, hiệu trưởng trưởng CĐN, hiệu trường trường TCN,
giám đốc TTDN trên cơ sở tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng chức danh nhằm nâng cao tính
chuyên nghiệp đội ngũ CBQL dạy nghề. Đổi mới tuyển chọn hiệu trưởng theo hình thức
thi tuyển.
g) Phân cấp trách nhiệm trong việc xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn lực và tổ chức
thực hiện bồi dưỡng giáo viên đối với CSDN, cơ quan quản lý dạy nghề từ trung ương
đến địa phương.
h) Phát triển đội ngũ giáo viên và CBQL dạy nghề
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề cho người lao động theo mục tiêu của Đề án cần có một
số lượng lớn giáo viên dạy nghề, trong khi đó số lượng giáo viên của các CSDN hiện nay

còn rất thiếu. Để khắc phục tình trạng trên, Tổng cục dạy nghề chỉ đạo các địa phương:
- Tiến hành điều tra, khảo sát đánh giá đội ngũ giáo viên và CBQL dạy nghề để có
kế hoạch đào tạo và tuyển dụng đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, cơ cấu nghề
đào tạo.
- Đào tạo nghiệp vụ sư phạm và bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề để bổ sung giáo
viên cho các TTKNKN chưa đủ giáo viên cơ hữu.
- Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý và tư vấn chọn nghề, tìm và tạo việc làm cho người
lao động.
- Bổ sung thêm biên chế là chuyên trách quản lý công tác dạy nghề có chuyên môn
nghiệp vụ cho các huyện.
- Huy động các nhà khoa học, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có
tay nghề cao tại các doanh nghiệp và CSSX kinh doanh, các trung tâm khuyến nông – lâm ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề cho người lao động.
- Tăng cường củng cố và bổ sung giáo viên cơ hữu cho các TTKNKN tỉnh, đảm bảo ít
nhất có 01 giáo viên cơ hữu cho mỗi nghề đào tạo. Mỗi huyện có 01 biên chế chuyên trách về
công tác đào tạo nghề thuộc Phòng Lao động - Thương binh Xã hội.
- Phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức tốt, đạt tiêu
chuẩn về trình độ đào tạo lý thuyết, thực hành và tích hợp, có trình độ về tin học, ngoại
ngữ để áp dụng vào giảng dạy.
- Huy động những người có đủ điều kiện tham gia dạy nghề: nghệ nhân, đội ngũ kỹ
sư, người có trình độ chuyên môn cao, có tay nghề tham gia dạy nghề, nhất là dạy nghề
cho lao động nông thôn.
k) Trung tâm KNQG tiếp tục tăng cường tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng sư phạm cho
cán bộ khuyến nông các cấp, tổ chức đào tạo lại cho cán bộ tham gia đào tạo nghề thường
xuyên để đảm bảo tốt hiệu quả thực hiện đào tạo nghề của hệ thống khuyến nông
2.5. Tăng cường cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất là một trong những nguồn lực cần thiết góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đào tạo nghề nói chung và nghề nông nghiệp nói riêng, vì vậy cần xây dựng
chiến lược đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề trong cả nước.
Đầu tư cơ sở vật chất: xây dựng, hoàn chỉnh các hạng mục công trình của các
23



Trung tâm khuyến nông tỉnh, TTDN cấp huyện; phân khu chức nãng cho các hoạt ðộng
dạy nghề; ðầu tý các trang thiết bị dạy nghề theo hýớng chuẩn hoá, hiện ðại hoá ðể ðáp
ứng cho hoạt ðộng dạy và học nghề của ngýời lao động.
Thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề đối với các CSDN được hỗ trợ đầu tư theo
chính sách của Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ...
2.6. Tăng cường hội nhập quốc tế về dạy nghề
Tăng cường liên doanh, liên kết đào tạo với các trường đào tạo nghề tiên tiến
nước ngoài, thu hút đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực dạy nghề nông nghiệp; khuyến
khích giáo viên nước ngoài vào dạy nghề nông nghiệp ở Việt Nam; tăng cường trao đổi
kinh nghiệm giữa giáo viên của các CSDN trong nước với giáo viên của các CSDN
nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Khuyến khích tăng cường trao đổi học viên trong lĩnh vực nông nghiệp, tổ chức
các đoàn công tác học tập tại nước ngoài về kinh nghiệm tổ chức dạy nghề nông nghiệp
tại các nước tiên tiến.
- Tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các CSDN có uy tín trên thế
giới mở CSDN quốc tế tại Việt Nam hoặc liên kết đào tạo với các CSDN Việt Nam.
- Tăng cường nghiên cứu khoa học về dạy nghề, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ dạy
nghề tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
3. Xây dựng chính sách mới và điều chỉnh cơ chế chính sách hiện hành cho phù hợp với
thực tiễn
3.1. Điều chỉnh, sửa đổi đề án 1956 đảm bảo phù hợp với yêu cầu của sản xuất nông
nghiệp trong thời kỳ mới.
Sau hơn 4 năm thực hiện đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn theo đề án
1956 với quy mô rộng khắp trên cả nước cho thấy đã có nhiều nét mới, cụ thể đã góp
phần đáp ứng được một phần nhất định nhu cầu đào tạo kiến thức sản xuất nông nghiệp
của người lao động nông thôn. Người học nghề đã tiếp cận được với kiến thức chuyên
môn và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất góp phần tăng năng xuất, hạ giá thành
sản phẩm, nhiều lao động qua đào tạo có cơ hội làm việc ổn định tại các doanh nghiệp.

Bên cạnh những kết quả nêu trên thì đề án 1956 cũng đã góp phần hình thành nên nhiều
mô hình sản xuất mới, trong đó người lao động qua đào tạo nghề đóng vai trò lực lượng
nòng cốt trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển từng bước hoàn thiện
các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì
bản thân đề án vẫn còn một số hạn chế cần phải điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn sản xuất. Vì vậy, để đảm bảo thực thi có hiệu quả chính sách đào tạo nghề trong
giai đoạn tới mạnh dạn đề xuất sửa đổi những nội dung chưa phù hợp trong đề án.
- Về trách nhiệm của Bộ NN&PTNT với đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông
thôn, ngoài những nhiệm vụ đã nêu trong quyết định cần bổ sung và làm rõ một số điểm
sau:
+ Chủ trì chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông
thôn;
+ Chỉ đạo hệ thống khuyến nông gắn kết các hoạt động khuyến nông với các hoạt động
dạy nghề cho lao động nông thôn;
+ Chủ trì tổ chức thực hiện cung cấp thông tin thị trường hàng hóa, hỗ trợ việc tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp đến xã;
24


+ Phối hợp giải quyết các kiến nghị liên quan đến các nội dung chuyên môn về đào tạo
nghề nói chung và nghề nông nghiệp nói riêng:
+ Nghiên cứu mở rộng phạm vi, đối tượng được hưởng chính sách đào tạo nghề ngắn hạn
với đối tượng là lao động cao tuổi theo quy định của Luật lao động đang trực tiếp làm
nghề nông nghiệp, lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
+ Xây dựng định mức và kiến nghị nâng mức hỗ trợ tối đa cho lao động nông thôn diện
chính sách, lao động nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương tham gia học nghề.
+ Nâng mức thù lao cho giảng viên, cán bộ hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham gia
dạy nghề thông qua việc được hưởng phụ cấp đứng lớp
+ Tăng cường đầu tư, hỗ trợ thiết bị giảng dạy cho các đơn vị trong hệ thống khuyến
nông, đào tạo tập huấn sử dụng hiệu quả thiết bị hỗ trợ trong công tác dạy nghề nông

nghiệp cho lao động nông thôn.
+ Ưu tiên phê duyệt và cấp kinh phí đào tạo nghề theo đúng kế hoạch để các đơn vị triển
khai đào tạo nghề kịp thời vụ sản xuất.
+ Giảm bớt một số thủ tục hành chính không cần thiết, tạo cơ chế thuận lợi cho các cơ sở dạy
nghề, giảng viên và người lao động tham gia công tác đào tạo nghề.
+ Xây dựng và sửa đổi các chính sách khác nhằm hỗ trợ cho chính sách đào tạo nghề như
chính sách hỗ về vốn sản xuất kinh doanh, chính sách hỗ trợ xuất khẩu nông sản, chính
sách đất đai,
3.2. Điều chỉnh, sửa đổi một số chính sách liên quan đến hiệu quả tổ chức thực thi chính
sách đào tạo nghề
3.2.1. Chính sách về đất đai
Ở nông thôn đất đai là đối tượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và phát triển việc
làm. Theo Luật đất đai mới, nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu dài, được
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình có khả năng sản xuất nông lâm nghiệp
hàng hoá. Đó là điểm rất cơ bản trong lĩnh vực đất đai, góp phần đáng kể để giải phóng tiềm
năng lao động tạo việc làm, cần phải tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng
khuyến khích nông dân đầu tư khai hoang, cải tạo ruộng đồng, dồn điền đổi thửa, tích tụ và
sử dụng có hiệu quả ruộng đất, vừa tạo thêm nhiều việc làm, vừa tạo ra nhiều sản phẩm có
giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác.
Có chính sách về giao đất hoặc cho thuê đất với với ưu đãi miễn giảm thuế sử dụng đất và thủ
tục bàn giao đất thuận tiện nhất để các tổ chức cá nhân và các nhà đầu tư nhanh chóng đầu tư
kinh phí xây dựng trường và TTDN, đồng thời nhiều hộ dân sau khi được đào tạo sẽ mạnh
dạn mở rộng sản xuất, từ đó nhu cầu đào tạo nghề, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp ngày càng
gia tăng.
3.2.2. Chính sách tạo vốn và tín dụng
Chính sách tạo vốn cho người lao động có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy giải quyết việc làm
ở nông thôn. Kinh nghiệm cho thấy chính sách tạo vốn nên định hướng vào huy động nguồn
vốn trong nước và ngoài nước, trước hết là nguồn tín dụng ngân hàng và huy động trong dân,
chú trọng huy động nguồn vốn trong dân thông qua cải thiện môi trường chính sách, khuyến
khích kinh doanh thông thoáng và thuận lợi để doanh nhân bỏ vốn đầu tư kinh doanh tạo thêm

việc làm. Đồng thời chính sách tạo vốn cũng phải đồng bộ với các chính sách liên quan khác
như chính sách đất đai, đảm bảo xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ xã hội,
chính sách thuế và chính sách thị trường tương ứng để người lao động nông thôn có cơ hội tạo
việc làm mới và ổn định lâu bền.
25


×