Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Kiểm sát điều tra đối với các vụ án xâm phạm sở hữu (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận nam từ liêm, thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.2 KB, 91 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI BCH PHNG

KIểM SáT ĐIềU TRA
ĐốI VớI CáC Vụ áN XÂM PHạM Sở HữU
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Nam Từ Liêm,
thành phố Hà Nội)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI BCH PHNG

KIểM SáT ĐIềU TRA
ĐốI VớI CáC Vụ áN XÂM PHạM Sở HữU
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Nam Từ Liêm,
thành phố Hà Nội)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. TRN VN DNG


H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Bích Phượng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT
ĐỘNG ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU .... 7
1.1.


Một số vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân .............................................................................. 7

1.1.1. Kiểm sát điều tra – một trong những chức năng cơ bản của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự .............................................. 7
1.1.2. Tăng cường Kiểm sát hoạt động điều tra – một yêu cầu khách
quan của quá trình cải cách tư pháp ................................................... 23
1.2.

Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu ........................ 29

1.3.

Một số vấn đề chung kiểm sát hoạt động điều tra trong các vụ
án xâm phạm sở hữu ........................................................................ 33

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM SÁT HOẠT
ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI
VỚI CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................... 36
2.1.

Đặc điểm tình hình các vụ án phạm sở hữu trên địa bàn quận
Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội ................................................... 36

2.1.1. Tình hình các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Nam Từ
Liêm, thành phố Hà Nội ..................................................................... 36


2.1.2. Một số đặc điểm chung về các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa

bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội ....................................... 38
2.2.

Đặc điểm hoạt động kiểm sát hoạt động điều tra của Viện
Kiểm sát nhân dân đối với các vụ án xâm phạm sở hữu trên
địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội ........................... 41

2.2.1. Hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố các vụ án xâm phạm sở hữu................................... 41
2.2.2. Hoạt động kiểm sát đối với quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn
quyết định khởi tố hoặc không quyết định khởi tố bị can .................. 43
2.2.3.

Hoạt động kiểm sát đối với quyết định khởi tố vụ án, Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự ................................................................ 45

2.2.4.

Hoạt động kiểm sát đối với việc áp dụng, thay thế các biện pháp
ngăn chặn ............................................................................................ 46

2.2.5. Hoạt động kiểm sát đối với việc tạm đình chỉ, đình chỉ .................... 48
2.3.

Những vướng mắc, bất cập trong kiểm sát hoạt động điều tra
của Viện Kiểm sát nhân dân đối với các vụ án xâm phạm sở
hữu trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và
nguyên nhân ...................................................................................... 49

2.3.1. Những vướng mắc, bất cập trong kiểm sát hoạt động điều tra các

vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành
phố Hà Nội ......................................................................................... 49
2.3.2. Nguyên nhân khách quan ................................................................... 53
2.3.3. Nguyên nhân chủ quan ....................................................................... 55
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................................... 58
3.1.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát hoạt động
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu.............................................. 58


3.1.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự ............................. 58
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Luật tổ chức Cơ quan điều tra
hình sự ................................................................................................ 64
3.2.

Các đề xuất nâng cao năng lực của Kiểm sát viên ........................ 65

3.2.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong các cơ
quan Viện kiểm sát ............................................................................. 65
3.2.2. Nâng cao ý thức đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của
đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên và các chủ thể có thẩm quyền áp
dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở
hữu ...................................................................................................... 67
3.2.3. Kiện toàn bộ máy ngành kiểm sát trong hoạt động kiểm sát điều
tra các vụ án xâm phạm sở hữu .......................................................... 70
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động kiểm sát điều tra các vụ

án xâm phạm sở hữu .......................................................................... 72
3.3.

Các đề xuất đề xuất tăng cường sự phối hợp của Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát ................................................................. 73

KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Bộ luật hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

HĐXX:


Hội đồng xét xử

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

XXST:

Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


Bảng 2.1. Kết quả công tác kiểm sát các năm 2009, 2010, 2011,
2012, 2013, 2014 của VKSND quận Nam Từ Liêm

36

Bảng 2.2: Cơ cấu nhóm tội trong các vụ án xâm phạm sở hữu
trên địa bàn quận Nam Từ Liêm; (ĐVT: vụ án)
Bảng 2.3:

37

So sánh số liệu báo cáo về các vụ án xâm phạm sở
hữu của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm
với số liệu của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà
Nội về các vụ án phạm xâm phạm sở hữu của quận
Nam Từ Liêm

40

Bảng 2.4: So sánh vụ án xâm phạm sở hữu của quận Nam Từ
Liêm (thụ lý mới) với số vụ án xâm phạm sở hữu của
2 huyện Đông Anh và huyện Thanh Trì

41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư

pháp trong đó có Viện kiểm sát là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2014.
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong đó có kiểm sát hoạt động điều tra vụ
án hình sự thể hiện chức năng của Viện kiểm sát, bảo đảm hoạt động điều tra
được tiến hành bởi Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao thực hiện
hoạt động điều tra được đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện
quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Vì vậy, Nghị quyết số 08/NQTW ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu:
VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố
phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp
sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ... Tăng
cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp
luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên
quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử
lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các
cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình [6].
1


Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng cao
chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án.

Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến
lược cải cải tư pháp đến năm 2020 cũng xác định rõ:
Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như
hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức
của tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố,
tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [8].
Là nhóm tội được quy định sớm nhất trong pháp luật hình sự nước ta,
với số lượng án lớn chiếm từ 30-40% số lượng án hình sự trên địa bàn cả
nước. Nam Từ Liêm với đặc thù là quận mới được thành lập trên cơ tách đôi
huyện Từ Liêm cũ, quận là một địa bàn có diễn biến tội phạm nói chung
tương đối phức tạp, đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu. Bởi lẽ, đây là địa
bàn lớn, nhiều tuyến được giao thông huyết mạch của thành phố, trên địa bàn
có nhiều trường đại học, cao đẳng, các cơ sở sản xuất kinh doanh và khu công
nghiệp. Chính vì vậy số lượng án về xâm phạm sở hữu luôn chiếm tỷ lệ cao
trên số lượng án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. Theo thống kê của
VKS quận Nam Từ Liêm thì trong 05 năm từ 2010 đến 2014, số lượng án
xâm phạm sở hữu là 1.073 vụ án với 1.438 bị can chiếm 51,02% tổng số
lượng án hình sự thụ lý mới địa bàn quận Nam Từ Liêm.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam
Từ Liêm đã cố gắng thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong
điều tra vụ án hình sự nói chung và đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu nói
riêng góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên,
bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân trong đó có hoạt động
kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân vẫn còn có những hạn chế trong
2


việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án

phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn án hủy. Quá trình giải quyết vụ án
hình sự 05 năm từ 2010 đến 2014, Viện kiểm sát quận Nam Từ Liêm vẫn còn
bị Tòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung 33 vụ với 63 bị can tội xâm phạm sở hữu
trên tổng số 81 vụ/159 bị cáo mà Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án
cấp phúc thẩm hủy 01 vụ án. Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả nhất
định đối với người bị khởi tố điều tra, làm cho quá trình giải quyết kéo dài,
ảnh hưởng đến uy tín của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, làm không ít người
dân hoài nghi về chất lượng điều tra, truy tố của các cơ quan này.
Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của cải cách tư pháp, thời gian qua Quốc
hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp
năm 2013, Luật tổ chức VKS năm 2014 và dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự,
Dự thảo Bộ luật hình sự nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan
tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có
nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của luật
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát.
Từ những sự phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài "Kiểm sát
điều tra đối với các vụ án xâm phạm sở hữu (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn
địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Sau khi Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020", Kết luận 79/KL-TW về "Đề án đổi mới tổ chức
và hoạt động của Tòa án, VKS, CQĐT" được ban hành, đã có một số công
trình nghiên cứu khoa học ở các cấp độ khác nhau về vấn đề đổi mới tổ chức
3



và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) theo yêu cầu cải cách tư pháp trong đó
có đề tài khoa học cấp Bộ: "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp",Viện Khoa học kiểm sát VKSNDTC; đề tài khoa học cấp Bộ: "Vai trò của VKS trong việc thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số
08-NQ/TW của Bộ Chính trị", Viện Khoa học kiểm sát - VKSNDTC; đề
tài:"Chức năng của VKS thực hành quyền công tố và KSĐT trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự",của Phạm Đức Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài: "Nguyên tắc thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự", của Vũ Đức
Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Về vấn đề kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu
và các công trình khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì,
Luận văn cao học luật, năm 1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn
cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động KSĐT án kinh tế tại thành phố Hồ
Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến chức năng
KSĐT vụ án hình sự của VKS, nhưng lại nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay
mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ kiểm sát khởi tố - điều tra, mà chưa đi
sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra
vụ án hình sự là một trong hai chức năng chính của VKS. Hơn nữa, các công
trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp
luật quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình
sự trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với
nhiều quy định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và
toàn diện hơn.

4



Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn về vấn đề
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong các vụ án xâm phạm sở hữu trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về vấn đề kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung và đặc biệt là các vụ án xâm
phạm sở hữu nói riêng nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này trong giai
đoạn điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động
KSĐT vụ án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm
sát tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên
địa bàn quận Nam Từ Liêm từ năm 2010 – 2014. Trên cơ sở đó chỉ ra những
hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân đối với các tội xâm phạm sở hữu.
- Làm rõ đặc điểm tình hình tội phạm sở hữu trên địa bàn quận Nam Từ
Liêm, thành phố Hà Nội từ đó làm rõ một số vấn đề thực tiễn của hoạt động
kiểm sát hoạt động điều tra với loại tội phạm này.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều tra vụ
án xâm phạm sở hữu của VKS, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực và
mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện chức năng này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về
giai đoạn điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm
2010 – 2014 trên địa bàn quận Nam Từ Liêm.

5



4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần
xây dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong
công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một số giải pháp
nâng cao hiệu quả cho công tác Kiểm sát hoạt động điều tra vụ án xâm phạm
sở hữu của VKS. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh
giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 với các quy
định của dự thảo BLTTHS mới nhất để thấy được những điểm mới liên quan
đến hoạt động KSĐT vụ án hình sự. Hơn nữa, các kết quả nghiên cứu của luận
văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng
như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình.
5. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Đồng thời để phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận
văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp,
so sánh và khảo sát thực tế.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động điều tra đối
với các tội xâm phạm sở hữu.
Chương 2: Một số vấn đề thực tiễn về kiểm sát hoạt động điều tra đối
với các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Nam
Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát
hoạt động điều tra đối với các vụ án xâm phạm sở hữu trên
địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân
1.1.1. Kiểm sát điều tra – một trong những chức năng cơ bản của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự
Khái niệm kiểm sát điều tra
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn
ngữ - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000, thì
"kiểm sát" có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng
Quốc gia chỉ đạo biên soạn, thì "kiểm sát" là hoạt động của VKSND nhằm
kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Với cách giải thích khái niệm "kiểm sát" của các cuốn từ điển nêu trên,
chúng tôi cho rằng, kiểm sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám sát và
kiểm tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối
tượng bị giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động phù hợp
để yêu cầu người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật sửa chữa
vi phạm đó. Hoạt động kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá hoạt động của
người, cơ quan bị kiểm tra.
Sau Cách mạng tháng 8 thành công Nhà nước ta đứng trước những yêu
cầu của quá trình xây dựng và củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp
luật của của các cơ quan nhà nước và mọi công dân là một trong những yêu
cầu cấp bách cần thực hiện. Muốn đáp ứng được yêu cầu đó cần tổ chức thành
lập một cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra và giám sát các hoạt động áp


7


dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra,
giám sát, quan điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực
thuộc và pháp chế". Lênin xuất phát từ một vấn đề có tính quy luật là: Trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thiết lập một nền pháp chế
thống nhất, điều mà Lênin gọi "pháp chế chỉ có một" với ba yêu cầu "phải có
sự thống nhất về pháp chế trong toàn nước cộng hòa"; "phải có luật duy nhất
trong toàn nước công hòa" và "phải có sự áp dụng thực hiện và tuân theo pháp
luật một cách thống nhất". Lênin cho rằng, để bảo đảm sự thắng lợi của cách
mạng XHCN trong quá trình xây dựng XHCN cần phải thiết lập một nền pháp
chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy, muốn có
pháp chế thống nhất không thể không thành lập cơ quan VKS [16].
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy
Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật
do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất
thì việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là một đòi hỏi mang
tính khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan điểm trên đã
được thể chế hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp
1992 (sửa đổi).
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của
cơ quan VKS với quy định "VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật" (Điều 137). Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa quy
định trên với nội dung quy định rõ VKS thực hiện chủ yếu hai chức năng đó
là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự điều chỉnh


8


đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp của VKS.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan
tâm nghiên cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như
trong quá trình đổi mới cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp
nước ta trong thời gian qua. Nên, với mục đích đi sâu nghiên cứu làm rõ chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự để giúp chúng ta
nhận thức và phân biệt hình thức hoạt động của VKS với hoạt động của các
cơ quan nhà nước khác. Đồng thời đưa đến sự nhận thức chung, thống nhất
của toàn thể cán bộ ngành kiểm sát nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả các quy
định của Luật tổ chức VKSND năm 2002 trong thực tiễn, góp phần bảo vệ
pháp chế XHCN.
Chức năng theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương
diện, hướng hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động
đó. Với quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật
tổ chức VKSND năm 2002 thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ
quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS nước ta.
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các
văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên
nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất của khái
niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên dẫn đến nhiều quan điểm nhận
thức khác nhau về khái niệm này. Một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng:
Trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến

lĩnh vực tư pháp thể hiện ở việc trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng toàn

9


quốc lần thứ IX thuật ngữ quyền tư pháp ít được sử dụng trong ngôn ngữ
chính trị, pháp luật và khoa học. Điều đó đã không tạo ra được tiền đề cho
việc nghiên cứu các vấn đề về tư pháp [46].
Trong đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Cho nên hiện nay
xung quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan
điểm khác nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp
chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án" [47].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp bao
gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần
"tư pháp" trong thi hành án" [48].
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng:
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống tư
pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm
sát tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực
của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp
thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức năng của VKS. Phạm vi kiểm sát tư
pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử các vụ án
hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh
tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 3 Luật tổ
chức VKSND năm 2002). Mục đích của của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho
pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân

thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định [11].
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái

10


niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi
trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng
hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà
nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên,
khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các
hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ
quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp
luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các
vụ án và bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
tố tụng hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của
các chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, theo chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về khái
niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng
hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các
cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho
pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là:
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc
điểm của chúng?
Chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất
là kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các
cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra với tính chất là

một chức năng của VKS thì hoạt động đó có bản chất pháp lý là kiểm tra tính
có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi
CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra

11


trong giai đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc khởi
tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm đồng
thời cũng không làm oan người vô tội.
Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt
động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó?
Theo chúng tôi, đối tượng của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự
chính là các hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình
sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý là
Hiến pháp, Luật tổ chức VKS, Bộ luật hình sự, BLTTHS và các văn bản pháp
luật khác có liên quan để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật,
cũng như bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự
mà chủ thể bị kiểm sát thực hiện.
Về phạm vi của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự từ trước
đến nay đang là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên về mặt lý
luận chúng tôi cho rằng phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm
xảy ra, theo đó các cơ quan tư pháp có thẩm quyền có trách nhiệm khởi động
hoạt động công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi phạm tội. CQĐT cũng có quyền phát động công tố nhưng đó là sự
phát động nằm trong sự kiểm sát của VKS nên không mang tính độc lập. Do
vậy, khi CQĐT phát động quyền công tố đồng thời theo đó làm phát sinh các
hoạt động tố tụng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ... để làm cơ sở truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện tội phạm. Nhằm bảo đảm

cho các hoạt động tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật, đòi hỏi phải
có sự giám sát chặt chẽ của VKS thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Vì vậy, phạm vi của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án
hình sự được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặt phát hiện được

12


dấu hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kết thúc điều tra bằng bản kết
luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố
hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Việc xác định phạm vi
như vậy là thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của công tác kiểm sát khởi tố - điều
tra các vụ án hình sự của VKS, cũng như thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý của
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra các vụ án
hình sự đó là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng
của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm sở
hữu như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt
động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá
trình điều tra vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự
được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Đặc điểm chung của kiểm sát điều tra
Xuất phát từ khái niệm đã nêu ở trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy
định của pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, cho phép rút ra một số đặc điểm chung của nó như sau:
Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự
là chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu từ

khi có dấu hiệu của tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan tiến
hành tố tụng kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận
điều tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp
mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong quá trình điều tra các vụ án hình sự.
13


Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự là
nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thứ tư, các hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án
hình sự bao gồm: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và
việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của người tham gia tố tụng; Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;
Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động
điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp
luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm
minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; Kiến
nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật [38, Điều 113].
Cụ thể:
* Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án
Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT nhằm đảm bảo từng trang
tài liệu trong hồ sơ bắt khẩn cấp, hồ sơ khởi tố vụ án, hồ sơ khởi tố bị can
và các hồ sơ khác trong quá trình điều tra phải được đóng dấu bút lục của
CQĐT và kèm theo bản kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu
trong hồ sơ vụ án.
Trong quá trình khởi tố, điều tra, tài liệu của CQĐT đều phải được đưa

vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự tố tụng khởi tố, điều tra vụ án. Đảm bảo
sau khi kết thúc điều tra, các tài liệu trong hồ sơ vụ án do CQĐT thống nhất
đánh số thứ tự một lần và lập bảng thống kê đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ
vụ án từ 01 cho đến hết theo đúng quy định tại mục 20, mục 21 Thông tư liên
tịch 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT
và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003. Đối với

14


những tài liệu do VKS thu thập được ở giai đoạn truy tố phải được đưa vào hồ
sơ vụ án và đánh số thứ tự tiếp theo số tài liệu trong hồ sơ vụ án do CQĐT
chuyển sang, không được thay đổi thứ tự bút lục trong hồ sơ vụ án.
* Kiểm sát các hoạt động điều tra của CQĐT
Sau khi khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can CQĐT tiếp tục tiến hành
các hoạt động điều tra để thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm chứng minh tội
phạm, người phạm tội. Khi CQĐT áp dụng các biện pháp để điều tra, VKS có
trách nhiệm bảo đảm cho mọi biện pháp điều tra phải được thực hiện theo
đúng quy định của pháp luật.
- Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
Điều 150 BLTTHS 2003 quy định: "Trong mọi trường hợp, trước khi
tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng
cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện
trường" [38, Điều 150]. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường là một quyền
năng pháp lý của VKS, thông qua hoạt động này VKS có trách nhiệm đảm
bảo cho toàn bộ hoạt động khám nghiệm hiện trường của CQĐT được tiến
hành theo đúng quy định của pháp luật. Khám nghiệm hiện trường thuộc trách
nhiệm của CQĐT, có thể được tiến hành trước hoặc sau khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường có thể được
tiến hành dưới hình thức như: VKS trực tiếp tham gia vào hoạt động khám

nghiệm hiện trường; VKS tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
thông qua biên bản, tài liệu, kết quả khám nghiệm hiện trường của CQĐT.
- Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi
Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi cũng là một quyền năng pháp lý của
VKS trong công tác kiểm sát điều tra. Thông qua hoạt động này, VKS có
trách nhiệm bảo đảm để hoạt động khám nghiệm tử thi được tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội

15


để tiến hành điều tra. BLTTHS 2003 quy định: "Trong mọi trường hợp việc
khám nghiệm tử thi phải thông báo trước cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc tiến hành kiểm sát việc khám
nghiệm tử thi" [38, Điều 151]. Điều này cũng có nghĩa là trong mọi trường
hợp khi CQĐT khám nghiệm tử thi, VKS phải trực tiếp tham gia để thực hiện
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. KSV phải đảm bảo, trong mọi
trường hợp việc khám nghiệm tử thi, kết quả khám nghiệm phải được thể hiện
đầy đủ, cụ thể trong biên bản khám nghiệm. Biên bản khám nghiệm phải đảm
bảo đầy đủ tính có căn cứ, tính hợp pháp để làm tài liệu, chứng cứ giải quyết
vụ án được chính xác.
- Kiểm sát việc thực nghiệm điều tra
Thông qua hoạt động này VKS có trách nhiệm đảm bảo việc thực nghiệm
điều tra, dựng lại hiện trường của vụ án hình sự được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật trên cơ sở đó để kiểm tra lại, đánh giá lại tính có thực của
những tình tiết có liên quan tới vụ án hình sự. BLTTHS 2003 quy định:
Để kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý
nghĩa đối với vụ án cơ quan điều tra có quyền thực nghiệm điều tra
bằng cách cho dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống
hoặc mọi tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các

hoạt động thực nghiệm cần thiết [38, Điều 153].
- Kiểm sát việc đối chất, nhận dạng
Đối chất, nhận dạng là một trong các hoạt động điều tra của CQĐT
được áp dụng trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai của hai hay
nhiều người hoặc trường hợp cần thiết để nhận dạng người, đồ vật, vật chứng,
tài liệu nhằm mục đích xác định tính đúng đắn, tính có thực của sự kiện, sự
vật hoặc tình tiết có liên quan tới vụ án hình sự. Kiểm sát việc đối chất, nhận
dạng nhằm đảm bảo để CQĐT khi tiến hành các biện pháp này phải thực hiện

16


đầy đủ các nội dung được quy định tại Điều 138, Điều 139 BLTTHS 2003.
Mặc dù thực tế khi giải quyết án hình sự, đối chất, nhận dạng ít được áp dụng
do tính phức tạp của nó nên khi CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra này
đòi hỏi phải được kiểm sát chặt chẽ và cụ thể, đảm bảo các nguyên tắc, trình
tự, thủ tục được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
- Kiểm sát việc hỏi cung bị can
Thông qua hoạt động này VKS có trách nhiệm bảo đảm cho hoạt động
hỏi cung bị can của CQĐT được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật,
qua đó làm sáng tỏ sự thật của vụ án hình sự. Kiểm sát việc hỏi cung bị can có
ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo nguyên tắc
pháp chế trong khi tiến hành TTHS, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can
được tôn trọng, được thực hiện đầy đủ. Đảm bảo lời khai của bị can trở thành
chứng cứ có giá trị chứng minh trong vụ án. Trên cơ sở đó để VKS nắm được
những tình tiết, tài liệu của vụ án thông qua lời khai của bị can.
Trong mọi trường hợp khi tiến hành kiểm sát việc hỏi cung bị can,
VKS có trách nhiệm đảm bảo các yêu cầu, nguyên tắc trong quá trình hỏi
cung bị can theo đúng quy định tại Điều 131, Điều 132 BLTTHS 2003. Nếu
cần thiết KSV có thể chủ động trao đổi, thống nhất với Điều tra viên về kế

hoạch, nội dung, mục đích của việc hỏi cung bị can, chuẩn bị chứng cứ, tang
tài vật để nếu cần đưa ra đấu tranh với bị can. Sau khi xét hỏi KSV phải phân
tích đánh giá kết quả của hoạt động hỏi cung bị can, xác định những mâu
thuẫn trong nội dung khai báo, những tình tiết cần phải xác minh, điều tra tiếp
để có phương hướng yêu cầu CQĐT tiếp tục điều tra.
Trường hợp không thể trực tiếp tham gia vào hoạt động hỏi cung bị
can của Điều tra viên. KSV tiến hành kiểm sát các biên bản, tài liệu hỏi cung
bị can của CQĐT. Đây là hình thức phổ biến, chủ yếu trong hoạt động kiểm
sát việc hỏi cung bị can. KSV phải trực tiếp đọc, nghiên cứu, xem xét, kiểm

17


×