Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ XK tại chi nhánhNHCT Đống đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.48 KB, 87 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận cũng như thực tiễn phát triển kinh tế thế giới cho thấy hoạt động xuất
khẩu là một trong những lĩnh vực trung tâm quan trọng trong hoạt động kinh tế
của nhiều quốc gia. Hoạt động xuất khẩu đã đóng góp một phần đáng kể vào
việc tăng nguồn thu ngân sách, đặc biệt là thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh
toán và giải quyết công ăn việc làm cho người dân, hoạt động xuất khẩu làm cho
nền kinh tế thay đổi nhanh chóng về trình độ công nghệ và tiếp thu được nhiều
kinh nghiệm quản lý nhằm thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển, tăng
năng suất lao động mang lại lợi ích cho xã hội, nâng cao vị thế của đất nước
trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam với xuất phát điểm từ một nền kinh tế lạc hậu và yếu kém. Khi
chuyển sang xây dựng cơ chế thị trường thì việc mở rộng buôn bán, quan hệ với
nước ngoài là rất cần thiết. Sau khi chuyển đổi nền kinh tế đảng và Nhà nước ta
quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới theo hướng “mở cửa” nền kinh tế hướng
mạnh về xuất khẩu, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các
nước trên thế giới, phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý vủa nhà nước. Chính vì vậy mà hoạt động ngoại thương nói
chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Việt Nam trong thời gian qua cũng
đã đạt được những thành tựu đáng kể và ngày càng khẳng định vị trí của mình
trong toàn bộ nền kinh tế.
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cần phải nâng cao chất lượng và đa dạng
hoá các mặt hàng, muốn như vậy thì cần phải có sự đầu tư thích đáng cho quá
trình suất xuất kinh doanh cũng như đổi mới công nghệ, máy móc, trang thiết bị.
Nhưng trên thực tế, vốn tự có của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên
lĩnh vực này chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tự đổi mới công nghệ nâng cao chất
lượng. Xuất phát từ thực tế này và để đạt được mục tiêu của Đảng và Nhà Nước
đề ra thì cần có sự đầu tư, hỗ trợ vốn từ Ngân hàng thương mại (NHTM), và
không nằm ngoài điều đó Ngân hàng công thương (NHCT) cũng đã là một Ngân
hàng hỗ trợ đắc lực cho lĩnh vực xuất khẩu của nền kinh tế.



Hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu là một hoạt động hết sức phức tạp, chứa
đựng nhiều rủi ro. Nó không chỉ chịu tác động của chính sách tiền tệ trong nước
mà còn chịu sự điều chỉnh của nhiều quy phạm, nguồn luật khác nhau và bị ảnh
hưởng mạnh theo sự biến động của thị trường quốc tế. Do vậy hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng Công thương trong việc tài trợ tín dụng đối với các Doanh
nghiệp xuất khẩu ngày càng trở nên phong phú,đa dạng và đòi hỏi phải được
nghiên cứu hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức.
Là sinh viên thuộc chuyên ngành Ngân hàng, trong thời gian thực tập tại Chi
nhánh Ngân Hàng công thương Đống Đa ( CNNHCTDD ), em đã có thời gian
tìm hiểu về mối quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp xuất
khẩu, Đồng thời được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và được sự giúp đỡ tận
tình của các cán bộ tín dụng ở Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa,
em xin mạnh dạn chọn đề tài: “ giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ
Xuất khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa”.
Với đề tài này em hy vọng sẽ sử dụng cơ sở lý luận về tài trợ xuất khẩu để soi
vào thực trạng hoạt động tài trợ xuất khẩu tại Chi nhánh ngân hàng Công thương
Đống Đa, luận giải những nguyên nhân tồn tại, yếu kém và từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động tài trợ xuất khẩu tai chi
nhánh.
Về hình thức, chuyên đề gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tín dụng xuất khẩu của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ XK tại chi nhánh
NHCT Đống đa.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng tài
trợ XK tại chi nhánh NHCT Đống Đa.
Do thời gian thực tập không nhiều, do kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề
chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo, góp ý của
các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn./.
Hà nội, Tháng 04/2004



Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hoài Phương


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI TRỢ XUẤT KHẨU CỦA NHTM.
1/ Một số vấn đề cơ bản về hoạt động Xuất khẩu.
1.1/ Vị trí, vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới trong thời đậi ngày nay là xu
hướng quốc tế hoá, đời sống kinh tế thế gới ngày càng phát triển. Mỗi nước dù
lớn hay nhỏ đều cần phải tham gia vào sự phân công lao động trong khu vực và
quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình chỉ
bằng chính sách tự lực cánh sinh, Đối với các nước đang phát triển như nước ta
hiện nay thì việc nhân thức đầy đủ đặc trưng quan trọng này và đặt chiến lược
kinh tế của mình trong xu hướng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới có tầm
quan trọng. Nghi quyết Đại hội Đảng toàn quốc của ta đã từng nhấn mạnh: “
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc
trong quan hệ kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu
hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có chủ trương đối ngoại phù hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại
để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Trong lịch
sử vai trò của hoat động xuất khẩu đã được đề cao từ thời kinh tế trọng thương.
Để đạt đựoc hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng
đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm có
chất lượng cao và gia thành rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị
trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn
này mà đã làm nảy sinh hoạt động thương mại quốc tế.
Hoạt động thương mại quốc tế nảy sinh thông qua mối quan hệ rộng rãi

vượt ra ngoại biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với
các nền kinh tế bên ngoài đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và
nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm


thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động
thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những
nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế đi lên từ xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật còn lạc hậu, trình độ phát triển chưa cao.....vì vậy, điều tất yếu là chúng
ta cần phải được đổi mới để tiếp thu được những cộng nghệ kỹ thuật hiện đại,
những thành tựu khoa học kỹ thuật để từ đó chọn lọc và áp dụng vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước. Bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu của nước ta lớn
nhưng khai thác lại chưa có hiệu quả cao. Tất cả những điều này cho thấy hoạt
động xuất khẩu đối với nước ta là rất cần thiết và quan trọng.
Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế được thể hiện qua một số
khía cạnh cơ bản sau:
1.1.1. Xuất khẩu thúc đẩy kinh tế phát triển, góp phần thay đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng tích cực.
Xuất khẩu sẽ tác động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước. Sự
phát triển của các ngành hướng về xuất khẩu tác động tới các ngành cung cấp
đầu vào, thúc đẩy các ngành này phát triển. Đồng thời sự cạnh tranh gay gắt trên
thị trường quốc tế sẽ góp phần sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động sáng
tạo trong kinh doanh sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý đổi mới cong nghệ cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Như
vật xuất khẩu sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm , nâng cao thu nhập cho người
lao động và đến lượt nó sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển công nghệ tiêu dùng

và dịch vụ.
1.1.2. Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ giải quyết nạn khan hiếm ngoại
tệ cho đất nước.
Xuất khẩu sẽ cho pháp đất nước thu về một lượng ngoại tệ đáp ứng cho
các nhu cầu của hoạt độngnhập khẩu và thanh toán nợ nước ngoài. Qua đó , xuất
khẩu giúp Nhà nước cải thiện phần nào cán cân thanh toán , khả năng dự trữ
ngoại tệ.


1.1.3. Xuất khẩu nâng cao vai trò của quốc gia trên trường Quóc tế.
Nếu có một chiến lược đúng đắn về xuất khẩu sẽ cho phép hàng hoá của
quốc gia thâm nhập vào thị trường của thế giới, từ đó vị thế của quốc gia đó
được nâng cao đồng thời hợp tác kinh tế với các nước sẽ được tăng cường. Một
ví dụ điển hình là Nhật Bản, hàng hoá của họ ở khắp mọi ngóc ngách của thế
giới bằng chất lượng mẫu mã chủng loại và giá cả của hàng hoá. Nước Nhật đã
khẳng định vị trí của mình một siêu cường quốc kinh tế của thế giới.
Ngoài các vai trò trên , xuất khẩu còn có các vai trò quan trọng khác như:
Tạo thu ngân sách thông qua đánh thuế xuất khẩu.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nội
Tăng cường quốc phòng an ninh.
1.1.2/ NHTM và hoạt động tài trợ xuất khẩu của NHTM.
1.1.2.1/ Vài nét về NHTM và hoạt động của nó.
Trong qúa trình phát triển kinh tế thế giới, hệ thống NHTM đã trở thành
những trung gian tài chính lớn nhất và quan trọng nhất.
Theo điều 20 “ luật các TCTD được Quốc Hội nước CHXHCNVN khoá
10 kỳ họp thứ 2thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực thi hành ngày
01/10/1998 đã định nghĩa: “Ngân hàng là loại hình tổ chức TD được thực hiện
toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan..
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm: Ngân hàng
thương mại, Ngân hàng phát triển , Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách,

Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.”
Những hoạt động chính sách của NHTM bao gồm hoạt động huy động
vốn, hoạt động sử dụng vốn, hoạt động chi trả hộ và các hoạt động khác.
Trong đó hoạt động sử dụng vốn là hoạt động chủ lực của Ngân hàng, nguồn
thu nhập của hoạt động này chiếm một tỷ lệ lớn ( khoảng 70%) trong tổng
nghiệp vụ của Ngân hàng. và một trong những hoạt động sử dụng vốn của
Ngân hàng là hoạt động tài trợ ngoại thương, đây cũng là một hoạt động có thể
đem lại cho Ngân hàng nguồn thu nhập lớn nhưng rủi ro cũng cao.
1.1.2.2/ Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM.


a. Cơ sở tồn tại và phát triển của hoạt động tài trợ xuất khẩu.
Tài trợ ngoại thương nói chung và tài trợ xuất khẩu nói riêng là lĩnh vực
kinh doanh mang tính truyền thống rõ nét của NHTM, sự ra đời tồn tại và phát
triển của các hoạt động tài trợ ngoại thương gắn liền với quá trình hình thành và
lớn mạnh của nền thương mại quốc tế trong khuôn khổ hoạt động kinh tế tại
mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn cầu.
Ngay từ xa xưa, hoạt động ngoại thương đã rất cần đến sự hỗ trợ của các
Ngân hàng. trong các hội nghị diễn ra vào thế kỷ XII, các Ngân hàng đầu tiên
thường giữ vai trò tổ chức trung gian trao đổi cần thiết, cho phép thực hiện các
giao dịch giữa những người buôn bán với nhau từ khắp các khu vực châu Âu và
bằng các đồng tiền khác nhau.
Kinh nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động thương mại quốc tế càng
đa dạng và phức tạp; các mối quan hệ đa phương và tính chất tương thuộc của
các nền kinh tế ngày một gia tăng. Khuynh hướng này đã và đang thúc đẩy nhu
cầu về các dịch vụ tài chính trên khắp thế giới. Nhu cầu tài trợ cho các hoạt
động ngoại thương ngày càng tăng.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của hoạt động ngoại thương
hiện nay là môi trường cạnh tranh hết sức quyết liệt giữa các nhà cung ứng hàng
hoá dịch vụ trên thương trường quốc tế. Mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu không

những phải đối đầu với các doanh nghiệp bản xứ mà còn phải cạnh tranh với vô
số doanh nghiệp xuất khẩu khắp toàn cầu. Nguười mua nước ngoài cũng ngày
càng trở nên khắt khe hơn về uy tín chất lượng hàng hoá dịch vụ cung ứng, và
bao giờ cũng chọn nhà cung cấp nào nhiều ưu đãi nhất mà chủ yếu là ưu đãi về
thời hạn thanh toán.
Bên cạnh đó hoạt động ngoại thương bao giờ cũng ẩn chứa những nguy
cơ dẫn đến rủi ro và giao thương giữa các bên mua bán ở các nước khác nhau.
Ngoài những khó khăn thông thường như trong thương mại nội địa các
doanh nghiệp tham gia ngoại thương còn phải đương đầu với những nguy cơ
khác. Những nguy cơ này xuất phát từ nhiều yếu tố đặc thù trong giao thương
quốc tế về thời gian thực hiện giao dịch và khoảng cách về địa lý về loại tiền


thanh toán và những biến động tỷ giá hối đoái, về sự khác biệt luật lệ, tập quán
kinh doanh và các quy định điều tiết giữa các chính phủ…
Dù có nhiều khó khăn , rủi ro như vậy, hoạt động ngoại thương đặc biệt là
hoạt động xuất khẩu vẫn luôc là lĩnh vực đặc biệt quan trọng thu hút sự quan
tâm của nhiều phía.
Về các NHTM, tài trợ ngoại thương nói chung, tài trợ xuất khẩu nói riêng
ra đời và phát triển cùng với các dịch vụ Ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng nhu
cầu đa dạng của doanh nghiệp về phát triển kinh doanh, chống đỡ rủi ro nâng
cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại quốc
tế. Với hoạt động tài trợ của mình các NHTM cung cấp hệ thống giải pháp và
kỹ thuật tài trợ phong phú, hữu hiệu giải quyết phần lớn những khó khăn về tài
chính và uy tín của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu.
Về phía chính phủ các chính sách và biện pháp khuyến khích xuất khẩu
cũng là một trong những nhân tố quyết định mức độ tham gia tài trợ xuất khẩu
của các NHTM. Nhờ vào các chương trình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của
Chính phủ, các quy định pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các NHTM vào mục
tiêu phát triển xuất khẩu….chính phủ các nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng ngày càng mở rộng và phong phú
hơn.
Như vậy, có thể nói sự ra đời và phát triển của tài trợ xuất khẩu là một tất
yếu kháchquan gắn liền với sự phát triển của các quan hệ thương mại quốc tế.
Khi thương mại quốc tế càng phát triển thì kéo theo sự phát triển của tài trợ
ngoại thương mà trong đó tài trợ xuất khẩu là một mảng quan trọng.
b..Bản chất của tài trợ xuất khẩu.
Tài trợ xuất khẩu là một mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ
chuyên biệt của Ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu trong giao
dịch thương mại quốc tế. Mảng dịch vụ Ngân hàng này mang nét chung là Ngân
hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh uy tín cho các doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp ra tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện thương vụ thành công.


Theo nghĩa hẹp, quá trình tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng có thể bắt đầu
từ lúc doanh nghiệp tìm đối tác, thiết kế sản phẩm xuất khẩu, chào hàng, ký kết
hợp đồng, đến khi giao hàng và hoàn thành một hợp đồng ngoại thương.
Mở rộng khái niệm trong một chứng mực nhất định, việc tài trợ xuất khẩu
của Ngân hàng có thể bao hàm cả những giao dịch kinh doanh trước và sau
thương vụ. Với các doanh nghiệp xuất khẩu thì đó là quá trình thu gom hàng
xuất khẩu của thương nhân, mua vật tư, nguyên liệu để chế xuất của nhà sản
xuất đàu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, xuất khẩu … hoặc giai đoạn
bảo hành, bảo trì đối với các dự án xuất khẩu máy móc hoặc xâydựng cơ xưởng
ở nước ngoài .
Đối tượng được tài trợ xuất khẩu là các thương vụ mang tính thương mại
hoặc vì mục tiêu thương mại thông thường đối tượng này là hàng hoá, dịch vụ
hoặc các công trình, dự án
Mục đích của tài trợ xuất khẩu là hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu trong nước
vượt qua được các trở ngại đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh để
nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, XK sản phẩm của họ ra

được nước ngoài như mục tiêu và các chính sách khuýen khích phát triển xuất
khẩu của chính phủ .
c. Vai trò của hoạt động tài trợ xuất khẩu
Tài trợ xuất khẩu là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế mở. Hoạt động
này không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân các Ngân hàng, cho các doanh
nghiệp xuất khẩu mà còn cho cả nền kinh tế.
 Đối với Ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu kinh
doanh chủ yếu là lợi nhuận … Bên cạnh các dịch vụ tiện ích cung cấp cho khách
hàng, các Ngân hàng luôn coi trọng tài trợ ngoại thương bởi nó mang lại nguồn
thu nhập lãi và phí dịch vụ hấp dẫn cho Ngân hàng. Theo ước tính của Ngân
hàng Trung ương nhiều nước, mảng dịch vụ Nhà nước này đóng góp từ 40 –
70% tổng doanh thu của các Ngân hàng tham gia hỗ trợ quốc tế .


Một lợi ích khác hết sức quan trọng đối với các Ngân hàng là mối quan hệ
bền chặt giữa Ngân hàng với khách hàng thương nhân trong thương mại quốc tế
cũng như tầm hoạt động rộng mở khắp toàn cầu của Ngân hàng. Để cung ứng
dịch vụ tài trợ ngoại thương hữu hiệu cho khách hàng, các Ngân hàng liên tục
xác lập và mở rộng quan hệ liên Ngân hàng, mạng lưới Ngân hàng chi nhánh và
hàng đại lý của mình trên khắp thế giới Nhờ vậy mà gián tiếp tăng cơ hội kinh
doanh sinh lợi cho NH đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ mà NH cung cấp.
Mặt khác, việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng về tài chính và trong kinh
doanh ngoại thương giúp NH khẳng định được vị thế chấp tranh của mình và
khả năng phát triển thị trường sản phẩm NH nói chung, dịch vụ ngoại thương
nói riêng.
 Đối với nhà xuất khẩu
Lẽ dĩ nhiên bất kì nhà xuất khẩu nào đang muốn được thanh toán tiền
hàng càng sớm càng tốt, còn nhà xuất khẩu muốn trì hoãn thanh toán ít ra cho
tới khi họ nhận được hàng hoặc đã tiêu thụ được lô hàng ấy. Bởi mức độ cạnh

tranh quyết liệt tên thị trường xuất khẩu nên trong nhiều trừng hợp nhà xuất
khẩu cần phải chào mời các điều khản thanh toán ưu đãi giúp tăng sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Khi đó, với các dịch vụ tài trợ khi giao hàng của NH
nhà xuất khẩu có thể đảm bảo dòng ngân lưu của mình được điều hoà vừa thực
hiện tốt thương vụ với điều khoản thanh toán ưu đãi cho người mua nước ngoài.
Trong những trường hợp khác nhà xuất khẩu có thể cần tài trợ để phục vụ
sản xuất hàng hoá theo đơn đặt hàng hoặc để thu mua hàng hoá xuất khẩu, hoặc
tài trợ các khoản mục chi phí thương vụ khác như chi phí xúc tiến bán hàng bổ
xung, điều chỉnh thuộc tính kĩ thuật của sản phẩm chi phí vận chuyển…. Các
dịch vụ tài trợ trước khi giao hàng cho nhà xuất khẩu chính là đáp ứng nhu cầu
tài trợ này.
Nhà xuất khẩu cũng thường vấp phải vấn đề uy tín trong kinh doanh khi
đặt quan hệ thương mại với các đối tác nước ngoài, chẳng hạn như khả năng
hoàn thành thương vụ, khả năng cung ứng hàng hoá hoặc công trình đúng tiến
độ, đúng chất lượng cam kết…Lúc bấy giờ, nhà xuất khẩu cần đến các loại bảo


lãnh NH thích hợp nhằm khẳng định uy tín kinh doanh của mình trong các
thương vụ xuất khẩu .
Tài trợ xuất khẩu đóng vai trò chất xúc tác kích thích, thúc đẩy hoạt động
kinh doanh xuất khẩu làm cho xuất khẩu phát huy được vai trò của mình đối
với nền kinh tế. Nó là nhân tố đi trước mở đường cho hoạt động xuất khẩu phát
triển theo định hướng của chính phủ. Ví dụ: NH sẽ đi trước thiết lập quan hệ tài
chính với những thị trường mục tiêu dọn sẵn tiền đề cho các nhà xuất khẩu thâm
nhập thị trường đó
Như vậy với vai trò to lớn của mình mảng hoạt động tài trợ xuất khẩu của
NH đang ngày phát triển với nhiều hình thức đa dạng phong phú, phục vụ ngày
càng tốt hơn các nhu cầu tài trợ của các doanh nghiệp xuất khẩu.
1.2 Các loại hình tài trợ xuất khẩu
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá và mậu dịch quốc tế quá

trình toàn cầu hoá, liên kết kinh tế diễn ra trong thế giới ngày càng nhanh và sâu
rộng thì hoạt động tài trợ xuất khẩu cũng ngày càng phát triển đa dạng. Chính vì
vậy việc phân loại nghiệp vụ này có thể theo nhiều cách thức. Sau đây là cách
thức phân loại phổ biến nhất.
1.2.1 Tài trợ ngắn hạn
Tài trợ ngắn hạn là loại hình tài trợ thời hạn dưới 1 năm. Tài trợ ngắn hạn
thường được sử dụng để hỗ trợ vốn lưu động. Mục đích của loại hình tài trợ này
là giúp cho doanh nghiệp có điều kiện tài chính để đảm bảo thanh toán các
khoản thu mua chế biến hàng xuất khẩu. Tài trợ ngắn hạn có nhiều hình thức
1.2.1.1. Tài trợ xuất khẩu trên cơ sở hối phiếu.
Hối phiếu (bill of exchange) là một mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do
một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi thấy hối phiếu, hoặc
đến một ngày xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một
người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho
người cầm hối phiếu.


Hiện nay hối phiéu là một công cụ thanh toán quốc tế được sử dụng hết
sức phổ biến. Với công cụ này, nhà xuất khẩu có thể được Ngân hàng tài trợ
dưới hình thức chiết khấu hối phiếu.
Tín dụng chiết khấu hối phiếu là loại tín dụng ngắn hạn mà Ngân hàng
cấp cho khách hàng (người thụ hưởng) dưới hình thức mua lại hối phiếu chưa
đến hạn thánh toán. Số tiền mua lại quyền thụ hưởng này chính là mức tài trợ
chiết khấu hối phiếu, nó được tính bằng phần còn lại của giá trị hối phiếu sau
khi trừ đi lãi chiết khấu cùng với phí nghiệp vụ theo công thức:
Md=M x [ 1- (rd x t/360)] – C
Trong đó :
Md : mức tài trợ chiết khấu hối phiếu.
t: Thời hạn còn lại của hối phiếu ( tính theo ngày)
rd : lãi suất chiết khấu mà Ngân hàng áp dụng.

C : phí hoa hồng nghiệp vụ.
Dễ dàng thấy yếu tố quan trọng nhất trong cách tính mức chiết khấu là lãi
suất chiết khấu rd. Lãi suất này do Ngân hàng định kỳ công bố dựa trên lãi suất
cơ bản của Ngân hàng trung ương và các lãi suất tài trợ đối chiếu khác. trong tài
trợ ngoại thương, lãi suất chiết khấu Ngân hàng áp dụng có khi cộng thêm khoản
tỷ lệ phụ trội nhằm chống đỡ rủi ro tài trợ. Tỷ lệ phụ thuộc vào khả năng truy
đòi khách hàng nhận tài trợ ( Nhà xuất khẩu ), khả năng thánh toán khi đến hạn
của con nợ ( thường là nhà NK) thời hạn còn lại của hối phiếu, mệnh giá và
đồng tiền của hối phiếu…
Trong giao dịch ngoại thương, người thụ hưởng giá trị hối phiếu thường
là nhà xuất khẩu. Loại tài trợ này giúp cho nhà xuất khẩu có điều kiện thu hồi
vốn nhanh chóng đưa vào hoạt động kinh doanh, thay vì phải chờ hối phiếu đến
hạn thanh toán.
Tài trợ chiết khấu hối phiếu được Ngân hàng áp dụng cho các giao dịch
mà nhà xuất khẩu cấp tín dụng thương mại (bán trả hàng chậm) cho nhà xuất
khẩu nước ngoài dưới hình thức hối phiếu trả chậm do nhà xuất khẩu kí phát. Để


được Ngân hàng xem xét tài trợ chiết khấu, hối phiếu trả chậm này phải là hối
phiếu đã được nhà NK ký chấp nhận.
1.2.1.2. Tài trợ xuất khẩu trên cơ sở chấp nhận thanh toán nhờ thu.
Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi giao
hàng hoặc cung ứng dịch vụ sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người NK và nhờ
Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu đó.
Dựa trên cơ sở cách thức yêu cầu thanh toán của người xuất khẩu, có hai
phương thức nhờ thu là: nhờ thu phỉếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. ứng với
hai phương thức này, Ngân hàng cũng có thể tài trợ cho nhà XK theo các cách
thức khác nhau:
 Với phương thức nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection)
Phương thức này được định nghĩa: là một phương thức thanh toán, trong

đó, không chỉ căn vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi kèm theo,
yêu cầu Ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ hàng hoá của người NK sau khi họ đã
thanh toán tiền hoặc ký chấp nhận thanh toán lên tờ hối phiếu kỳ hạn.
Sử dụng phương thức nhờ thu kèm chứng từ, nhà XK phải chờ đợi một
thời gian đáng kể từ khi giao hàng xuống tàu cho đến khi nhận được tiền thanh
toán từ người NK chuyển về thông qua các Ngân hàng. Không những thế, để
bán được hàng, Nhà XK đôi khi phải chấp nhận điều kiện D/A (chấp nhận
thanh toán đổi chứng từ), tức cho phép người mua trả chậm tiền hàng. Vì vậy
nhà Xk có thể gặp khó khăn về vốn kinh doanh khi sử dụng phương thức này.
Để nhận được tiền hàng sớm hơn, nhà XK sẽ cần đến dịch vụ tài trợ của
Ngân hàng. Trong khuôn khổ phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ,
NH có thể tài trợ cho nhà xuất khẩu bằng các kĩ thuật ứng trước giá trị nhờ thu
và chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu.
- Tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu
Khi thực hiện nghiệp vụ này NH tài trợ ứng trước giá trị hối phiếu cho nhà XK
khi anh ta giao hối phiếu chưa được chấp nhận cho NH trong phương thức thanh
toán nhờ thu. Dạng thức tài trợ này của NH cho phép nhà XK mau chóng nhận


được tiền đưa vào sản xuất kinh doanh thay vì phải chờ đến khi hối phiếu được
nhà XK tiếp nhận và thanh toán.
Mức tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu của NH không nhất định mà tuỳ
thuộc vào mức độ an toàn trong giao dịch và thoả thuận với khách hàng thông
thường nằm trong biên độ 80-90% mệnh giá hối phiếu hoặc séc Khi tài trợ theo
phương thức này, NH tuy không được chuyển quyền sở hữu và thụ hưởng giá trị
hối phiếu song vẫn có quyền truy đòi nhà XK nếu nhà XK từ chối thanh toan hối
phiếu
- Tài trợ chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu
Nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu cũng gần giống như nghiệp vụ
ứng trước các giá trị nhờ thu. Theo đó Ngân hàng tài trợ cấp tín dụng cho nhà

XK dưạ vào bộ chứng từ nhờ thu và thông thường là với điều kiện bảo lưu “
cho phép truy đòi”. Tiếp theo Ngân hàng sẽ gửi bộ chứng từ này để thu nợ tiền
hàng từ nhà NK thông qua NH thu hộ Số tiền thanh toán cuối cùng khi về đến
NH tài trợ sẽ được khấu trừ phần gốc còn phần lãi của khoản tài trợ đã cấp sẽ
được tính theo kỳ hạn và NH theo thoả thuận được quyền ghi nợ tài khoản nhà
XK phần tài trợ này
Khi xem xét yêu cầu tài trợ chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu, Ngân hàng
tường đặc biệt quan tâm đến yếu tố: uy tín, của nhà XK và của nhà NK quy chế
quản lý hối đoái ở quốc gia NK, khả năng thanh lý hàng hoá nếu bị từ chối
thanh toán trong điều kiện D/P, việc chấp nhận thanh toán hối phiếu của nhà NK
có được bảo lãnh hay không theo điều kiện D/A, bộ chứng từ có xác lập đày đủ
quyền sở hữu đối với hàng hoá.
 Với phương thức nhờ thu phiếu trơn.
Áp dụng phương thức này, Ngân hàng có thể tài trợ cho nhà XK theo
phương thức: tài trợ mua hối phiếu nhờ thu.
Đây là một biến dạng của nghiệp vụ ứng trước giá trị nhờ thu. Các ký
thuật tài trợ cũng giống như tài trợ ứng trước giá trị nhờ thu, sau mức độ biện
pháp đảm bảo an toàn tài trợ của NH với phương thức này chặt chẽ hơn.


Trước khi tài trợ NH xem xét khả năng tài trợ mua hối phiếu rất cẩn thận
bởi dạng thức này có tính rủi ro cao. Hàng hoá được nhà XK giao thằng cho nhà
NK, do vậy quyền quyết định thanh toán phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nhập
khẩu. Để phòng vệ, Ngân hàng thường thoả thuận với nhà XK áp dụng điều kiện
“ cho phép truy đòi hoặc mua hối phiếu dựa theo việc thanh toán sau cùng” theo
đó cho phép Ngân hàng truy đòi nhà XK khi bên mua từ chối thnah toán hối
phiếu. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng bảo lưu quyền ghi nợ tài sản của nhà XK
giá trị tài trợ bất kỳ lúc nào mà không cần phải thông báo hay xin phép trước,
Biến dạng tài trợ này thánh một khoản cho vay linh hoạt, thường được gọi là “
call loan” hoặc “demand loan”

1.2.1.3.Tài trợ xuất khẩu trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ.
Tín dụng chứng từ ( Documentary credit) là một văn bản cam kết dùng
trong thanh toán trong đó một Ngân hàng ( Ngân hàng phát triển ) theo yêu cầu
của một khách hàng ( người yêu cầu mở thư tín dụng ) sẽ trả tiền cho người thứ
ba, hoặc trả cho bất cứ người nào theo lệnh của người thứ ba đó ( người thụ
hưởng) hoặc sẽ trả, chấp nhận, chiết khấu hối phiếu do người thụ hưởng phát
hành, hoặc cho phép Ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hay chiết khấu hối
phiếu đó, khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã quy định và mọi điều khoản điều
kiện của thư tín dụng đã được thực hiện đầy đủ.
Tín dụng chứng từ được xem là một phương thức thanh toán quốc tế an
toàn chặt chẽ nhất hiện nay. Phương thức này ra đời như là một giải pháp của
Ngân hàng nhằm tài trợ về uy tín cho nhà NK. Để thuyết phục nhà XK tin tưởng
giao hàng về phiá nhà XK, khi thanh toán bằng phương thức này cũng có thể
nhận được tài trợ từ phía Ngân hàng phục vụ mình. Căn cứ vào L/C mở cho nhà
Xk hưởng lợi Ngân hàng phục vụ nhà XK có thể tài trợ cho anh ta qua hình
thức sau:
- Tài trợ trước khi giao hàng ( Pre –shipment financing)


Trên cơ sở L/C mà NH phục vụ nhà NK đã mở nhà XK sẽ được đảm bảo
thanh toán sau khi giao hàng, nếu anh ta xuất trình bộ chứng từ gửi hàng phù
hợp với nội dung L/C.
Tuy nhiên, không phải lúc nào nhà XK cũng có sẵn hàng để giao ngay sau
khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Lúc này, nhà XK cần vốn để thu mua nguyên
vật liệu, trang trải chi phí sản xuất hàng hoá hay thu gom hàng để xuất. Anh ta
hoàn toàn có thể xin Ngân hàng phục vụ mình cấp một khoản tín dụng dựa trên
cơ sở L/C đã mở để chuẩn bị hàng.
Sau khi giao hàng, nhà XK sẽ trình bộ chứng từ tới Ngân hàng, nếu phù
hợp với các điều khoản trong L/C anh ta sẽ được Ngân hàng phục vụ nhà NK

thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Và ngay khi được Ngân hàng phục vụ nhà NK thanh toán, Ngân hàng bên
nhà XK sẽ giữ lại số tiền bằng khoản cho nhà XK vay cộng với lãi vay, số còn
lại trả cho nhà XK.
Đây là một hình thức tài trợ rất phổ biến, vì một mặt do phương thức L/C
trong thanh toán là phương thức đảm bảo nhất, được sử dụng rộng rãi, mặt khác
do kỹ thuật nghiệp vụ không phức tạp nên dễ dàng áp dụng.
Trong trường hợp L/C trả chậm có xác nhận thì nhà XK có thể nhận tiền
bất cứ lúc nào vì đã có sự xác nhận trả tiền của đại lý tín dụng hoặc bất cứ Ngân
hàng thứ ba nào. Lúc này nhà XK nhận tiền dưới dạng tín dụng chuyển nhượng
toàn bộ quyền sở hữu L/C cho Ngân hàng cấp tín dụng.
- Tài trợ chấp nhận hối phiếu theo L/C ( Acceptance L/C)
Khi nhà XK đồng ý bán hàng trả chậm cho người mua nước ngoài thanh
toán theo phương thức tín dụng chứng từ, người mua sẽ yêu cầu Ngân hàng phát
hành một L/C chấp nhận, theo đó nhà XK xuất trình một bộ chứng từ hoàn hảo,
trong đó có hối phiếu trả chậm ký phát cho Ngân hàng phát hành hoặc Ngân
hàng được chỉ định chấp nhận trong L/C , anh ta sẽ nhận được chấp phiếu của
Ngân hàng. Với vị thế tài chính và uy tín thanh toán vững chắc của Ngân hàng
chấp nhận hối phiếu, nhà Xk dễ dàng được tài trợ triết khấu, chấp phiếu Ngân
hàng với điều kiện ưu đãi.


Để dễ dàng nhận được tài trợ chiét khấu và được hưởng các ưu đãi tài
trợnhư tài trợ lãi suất chẳng hạn, nhà XK có thể thông qua hợp đồng ngoại
thương ký kết với người mua: yêu cầu Ngân hàng phát hành L/C chỉ định hoặc
cho phép một Ngân hàng có uy tín cao ở nước XK thực hiện chấp nhận hối
phiếu do nhà Xk ký phát.
- Tài trợ chiết khấu bộ chứng từ theo L/C( Negotation L/C)
Nếu trong trường hợp ngoại thương quy định phương thức thanh toán
dùng L/C trả chậm thì sau khi giao hàng nhà XK phải mất một thời gian đúng

bằng thời gian trả chậm mới có thể nhận được thanh toán từ phía nhà NK. Nếu
trong khoảng thời gian đó, Nhà NK có nhu cầu về vốn, thì khi đó anh ta có thể
đem bộ chứng từ gửi hàng đến xin chiết khấu tại Ngân hàng.
+Có hai hình thức chiết khấu:
Chiét khấu miễn truy đòi: là hình thức chiết khấu, theo đó Ngân hàng tài
trọ mua đứt bộ chứng từ, nếu bên nước ngoài không chấp nhận thanh toán thì
Ngân hàng sẽ gánh chịu rủi ro, không được truy đòi lại khách hàng. tuy nhiên tỷ
lệ chiết khấu theo phương thức này tương đối cao.
Chiết khấu có truy đòi : là hình thức Ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ
chứng từ nhưng có thể thực hiện truy đòi nếu bên nước ngoài từ chối thanh toán.
Như vậy với Ngân hàng tài trợ chiết khấu có truy đòi thì rủi ro được xem là rất
thấp và tỷ lệ chiết khấu này vì thế cũng thấp.
1.2.1.4. Tài trợ trực tiếp dạng cổ điển
Các phương thức tài trợ XK dạng cổ điển mang nét đặc trưng truyền
thống về kỹ thuật và phương pháp tài trợ, giống như các dạnh thức tín dụng nội
địa tương ứng thông thường khác. Do vậy các dạng thức tài trợ XK đề cập đến ở
phần này cũng bao gồm ba loại tín dụng: tín dụng tứng lần, tín dụng hạn mức và
tín dụng hoàn toàn.
Đối tượng theo phương thức này hết sức đa dạng, có thể là tài trợ cho nhà
XK để thu mua nguyên vật liệu sản xuất hàng hoá để XK hoặc để bổ sung
nguuồn vốn kinh doanh thiếu hụt khi nhà XK bán chịu ( bán trả chậm ) và chưa


nhận được tiền hàng hoặc cũng có thể giúp nhà XK trang trải các khoản chi phsi
phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như chi phí thuê tàu, phí thông
quan XK, thuế XK…
Với phương thức tài trợ trực tiếp dạng cổ điển, nhà XK có thể được tài trợ
bằng đồng bản tệ hay ngoại tệ, tuỳ theo nhu cầu, và thoả thuận giữa khách hàng
và Ngân hàng. Lãi suất áp dụng trong mỗi phương thức tài trợ có thể là lãi suất
cố định hoặc lãi suất linh hoạt, và thường có tham chiếu theo một mức lãi suất

cơ bản trong nước và quốc tế.
Cơ sở để giao dịch gốc để Ngân hàng quyết định tài trợ cho khách hàng
cũng khá rộng. Đó cũng có thể là một dự án để sản xuất kinh doanh XK, là hợp
đồng ngoại thương đã ký kết, hoặc dựa vào L/C xuất khẩu những bộ chứng từ
ngoại thương hoàn hảo… Hình thức đảm bảo tín dụng cũng khá linh hoạt, tuỳ
theo uy tín và năng lực kinh doanh của khách hàng cũng như mứcđộ rủi ro của
giao dịch được tài trợ. Nhà XK có thể được chia theo 3 phương thức nêu trên:
*Tín dụng từng lần:
Đây là dạng tài trợ đơn giản nhất, thường được cấp cho một mục đích tài
chính cụ thể với thời hạn tài trợ nhất định. Việc cấp vốn vay theo dạng này
thường theo một trong hai cách: khấu trừ lãi vay ngay từ đầu kỳ hạn nợ, hoặc trả
lãi vay vào cuối kỳ.
*Tín dụng hạn mức
Tín dụng hạn mức là một cơ chế tài trợ do Ngân hàng và doanh nghiệp
thoả thuận, theo đó cho phép doanh nghiệp được vay đến một mức xác định
trong một thời hạn cụ thể nhất định. Vào đầu kỳ, sau khi hạn mức được xác lập,
cán bộ tín dụng sẽ cho phép doanh nghiệp rút tiền vay trong phạm vi hạn mức
đã cấp. ở khía cạnh kỹ thuật tuy hạn mức tín dụng được xác lập và chỉ có hiệu
lực trong một thời hạn xác định, song hầu hết các thoả thuận tài trợ dạng này
cho thấy một mối quan hệ liên tục và gắn bó giữa các Ngân hàng với khách hàng
và hạn mức có thể được tái lập vào cuối kỳ.
*Tín dụng tuần hoàn:


Cho vay theo hợp đồng tín dụng tuần hoàn cũng như cho vay theo hạn
mức tín dụng nhưng thường được xác lập với kỳ hạn trên một năm. Kỳ hạn tài
trợ thông thường từ hai đến ba năm, trong đó khách hàng có thể vay và hoàn trả
nợ vay nhiều lần.
1.2.1.5.Factoring
Factoring ( bao thanh toán tương đối) là hình thức tài trợ đặc biệt dành

cho nhà XK. Đó là những hoạt động mua bán những khoản thanh toán chưa tới
hạn và ngắn hạn từ những hoạt động xuất khẩu cung ứng hàng hoá dịch vụ.
Hoạt động factoring không sử dụng thư tín dụng cũng như các hối phiếu ngoại
thương, vì hoạt động factoring chỉ áp dụng cho những hoạt động xuất khẩu
thường xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng dài hạn và cho nhiều nhà XK khác
nhau trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm. Đặc điểm
nổi bật của nghiệp vụ này là nhà XK bán các khoản nợ cần đòi với điều kiện
miễn truy đòi, các tổ chức bao thanh toán ( factor) sẽ đảm nhiệm hoàn toàn việc
đòi nợ và chịu mọi rủi ro phát sinh. Tuy nhiên factor chỉ ứng tiền trước cho nhà
XK với một tỷ lệ nhất định theo doanh thu. Nó phụ thuộc vào điều kiện thanh
toán và tình hình kinh tế chính trị ở nước người NK.
Với nhà XK tài trợ factoring có các ưu điểm chính sau:
Giảm bớt các rủi ro thanh toán tới 100% do tổ chức bao thanh toán đã
đảm nhận các rủi ro này.
Không cần thiết phải ký bảo hiểm tín dụng.
Giảm chi phí quản lý do không phải lo lắng, giám sát các khoản phải thu
từ nước ngoài.
Cải thiện được bảng hạch toán cân đối và quan hệ giữa các hạng mục
trong bảng.
Tăng khả năng cạnh tranh thông qua việc dành cho nhà Nk nước ngoài
một thời hạn thanh toán trả chậm.
Với những lợi ích kể trên, factoring tỏ ra một hình thức tài trợ xuất khẩu
khá ưu việt đối với nhà XK.
1.2.2. Tài trợ trung và dài hạn.


Khác với tài trợ ngắn hạn nhằm mục đích hỗ trợ vốn lưu động cho doanh
nghiệp, tài trợ trung và dài hạn được cung cấp để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, xây dựng mới, mở rộng cơ sở hạ tầng, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công
nghệ… Thời gian của tài trợ trung hạn từ 1 đến 5 năm, thời hạn tài trợ dài hạn từ

5 năm trở nên. Dưới đây nghiên cứu một số loại hình tài trợ trung và dài hạn phổ
biến.
1.2.2.1. Cho vay trung và dài hạn.
Cho vay là hình thức cổ điển nhất và cũng là hình thức cơ sở cho các hình
thức tài trợ khác ra đời và phát triển. Cho vay là việc Ngân hàng giao vốn cho
khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định, với cho vay trung và dài hạn.
Thời gian này lớn hơn một năm. Khách hàng vay vốn của Ngân hàng phải đảm
bảo các nguyên tắc vay vốn của Ngân hàng. Nhìn chung các nguyên tắc đó phải
sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải hoàn trả cả gốc và lãi và đúng thời hạn đã
thoả thuận và phải có đảm bảo tiền vay.
Hiện nay đang phát triển nghiệp vụ vay vốn dưới hình thức đồng tài trợ
(syndicated financing) trong đó hai hay nhiều Ngân hàng cùng góp vốn cho vay
đối với một dự án. cho vay hợp vốn phát triển do ngày càng xuất hiện nhiều dự
án quy mô lớn, nhu cầu tăng cao mà khả năng cho vay của một Ngân hàng riêng
lẻ không đáp ứng đủ hoặc do nhu cầu phân tán rủi ro của ngân hàng nà cần tới
sự tham gia góp vốn của nhiều Ngân hàng khác nhau.
1.2.2.2.Forfaiting
Nghiệp vụ forfaiting ( Bao thanh toán tuyệt đối ) có thể được định nghĩa
là mua không hoàn lại các khoản thanh toán chưa tới thời hạn có nguồn gốc từ
hoạt động xuất khẩu đã được Ngân hàng đảm bảo. Nghiệp vụ này nhằm tài trợ
cho các nhà XK, giúp họ giảm thời gian phải chờ thanh toán từ nước ngoài.
Khái niệm nghiệp vụ forfaiting có vẻ giống với khái niệm nghiệp vụ
factoring, cùng mua không hoàn lại những khoản nợ chưa tới thời hạn thanh
toán. Nhưng có thể nhận thấy các điểm khác nhau cơ bản giữa hai nghiệp vụ:


Thời hạn bao thanh toán của factoring từ 6 tháng tới 5 năm , ngoại lệ lên
tới 7 năm. Do vậy mà factoring được xếp vào loại hình tài trợ ngắn hạn trong
khi forfaiting là dạng tài trợ trung và dài hạn.
Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể, riêng lẻ trong toàn bộ

quá trình xuất nhập khẩu trong khi factoring là hoạt động bao thanh toán của nhà
XK cho nhiều đối tượng NK cùng một lúc ở nhiều nước khác nhau.
Factoring phục vụ những hoạt động xuất nhập khẩu không sử dụng tới tín
dụng chứng từ hay hối phiếu trong khi forfaiting dựa trên cơ sở tín dụng chứng
từ hối phiếu và đảm bảo của Ngân hàng.
Các công cụ của nghiệp vụ forfaiting là kỳ phiếu của nhà NK, hối phiếu
hay trên cơ sở huy động tín dụng chứng từ. Trong đó forfaiting với các công cụ
kỳ phiếu tỏ ra có ưu điểm hơn. Với giao dịch này, nhà NK ký phát kỳ phiếu
nhận nợ cho nhà XK hưởng, nhà XK bán kỳ phiếu này cho tổ chức forfaiting
(Forfaiter) và nhà XK không có liên quan gì đến hoạt động thanh toán nữa, mội
rủi ro thanh toán chuyển sang cho Forfaiter. Lệ phí forfaiting do nhà NK chịu.
Đây là hình thức đặc trưng nhất gọi là Forfaiting thuần tuý.
Với forfaiting hối phiếu đòi nợ thì đây là Forfaiting chưa triệt để do nhà
XK ký phát hối phiếu, bán cho Forfaiter và theo luật hối phiếu thì anh ta vẫn
phải chịu trách nhiệm về việc truy đòi hối phiếu. Trong hình thức này nhà XK
phải trả lệ phí Forfaiting đồng thời vẫn chưa thoát hoàn toàn khỏi rủi ro thanh
toán, đó chính là nhược điểm của Forfaiting hối phiếu.
Ngoài hình thức trên còn có nghiệp vụ Forfaiting bộ chứng từ L/C trả
chậm. Về nguyên tắc, Forfaiting bộ chứng từ L/C trả chậm cũng giống với
nghiệp vụ Forfaiting khác nhưng lệ phí Forfaiting lớn hơn do rủi ro thanh toán
Forfaiter phải chịu lớn hơn.
Forfaiting đem lại cho nhà Xk những tiện ích sau:
Tránh 100% rủi ro kinh tế và chính trị mà không cần mua bảo hiểm.
Chuyển từ một khoản thanh toán có kỳ hạn sang thanh toán nhận tiền
ngay mà không ảnh hưởng tới trần mức tín dụng mà Ngân hàng dành cho nhà
XK.


Cải thiện được bảng tổng kết tài sản và khả năg thanh toán.
Chi phí tài trợ cố định do đó có thể tính vào giá của hợp đồng mua bán

Ngăn ngừa rủi ro thay đổi lãi suất chuyển rủi ro tỷ giá hối đoái sang cho
Forfaiter.
1.2.2.3 Tín dụng cho người đặt.
Bên cạnh nghiệp vụ Forfaiting, tín dụng cho người đặt hàng cũng là mộtt
hình thức Ngân hàng hỗ trợ nhà XK giải quyết vấn đề phải chờ thanh toán dài
hạn từ nước ngoài. Tín dụng cho người đặt hàng là hình thức Ngân hàng theo
yêu cầu của nhà XK cấp tín dụng cho người nước ngoài đặt mua hàng hoá, dịch
vụ trong nước nhằm thanh toán trực tiếp các hàng hoá dịch vụ này. Ngân hàng
sẽ chỉ đồng ý tài trợ khi nhà NK được một Ngân hàng hạng nhất trong nước
đứng ra bảo lãnh thanh toán. Đặc điểm của loại tài trợ này là Ngân hàng không
cấp tín dụng thẳng cho người vay ( bên NK) mà chuyển trả trực tiếp cho người
XK theo tiến độ giao hàng. Như vậy với nhà XK việc bán hàng trở thánh bán trả
ngay, còn đối với nhà NK việc mua hàng là mua hàng trả chậm. Hình thức này
còn gọi là tài chính ràng buộc hoặc tín dụng tài chính ràng buộc vào cung ứng.
Trong trường hợp Ngân hàng nhận tài trợ cho nhà XK, thông thường
không bao giờ Ngân hàng tài trợ 100% thương vụ mà chỉ tài trợ tối đa 85% trị
giá hàng, 15% còn lại nhà NK nước ngoài phải trả trước cho nhà XK gần như
dạng tiền đặt cọc. Để được Ngân hàng nhận tài trợ nhà XK phải đáp ứng những
điều kiện sau:
Xuất khẩu hàng có giá trị lớn, thường tối thiểu là 500.000 USD.
Phương thức thanh toán thông lệ trong thương mại quốc tế ( ví dụ như
tiền đặt cọc 15%, thanh toán trả chậm nửa năm 1 lần …)
Thời hạn tín dụng như thông lệ trong nghiệp Ngân hàng ( thời hạn này
phụ thuộc từng loại hàng XK nhưng thông thường không lớn hơn 7 năm)
Đã mua bảo hiểm tín dụng. Ngoài ra nhà XK cam kết đảm bảo cho những
rủi ro chưa được công ty tín dụng bảo hiểm.
Có bảo lãnh không huỷ ngang của một Ngân hàng có tên tuổi tại nước
người đặt hàng.



Khi thực hiện nghiệp vụ này, trước đây Ngân hàng có thể cùng nhà XK
tham gia đàm phán với nhà NK. Hiện nay Ngân hàng nước nhà XK không đàm
phán với nhà NK mà thông qua Ngân hàng của họ. Ngân hàng nước nhà XK sẽ
ký một hiệp định khung với Ngân hàng nước nhà NK quy định những điều
khoản cho việc cung cấp tín dụng chi các hợp đồng tín dụng.
Mục đích của Ngân hàng tài trợ là giúp tăng cường vốn trung và dài hạn
cho Ngân hàng nhận tài trợ để tài trợ cho các doanh nghiệp có nhu cầu NK hàng
về từ nước tài trợ mà về bản chất là mở đường cho việc XK máy móc thiết bị
của doanh nghiệp nước mình vào thị trường nước nhận tài trợ.
1.2.3. Tài trợ dưới hình thức bảo lãnh Ngân hàng.
Trong giao thương quốc tế, các bên XK và NK thường cần đến các dạng
thức bảo lãnh nhằm dự phòng và chống đỡ rủi ro tiềm ẩn xuyên suốt quá trình
thực hiện thương vụ. Các dạng thức bảo lãnh này hầu hết do các NHTM phát
hành do vậy còn có tên là “ Bảo lãnh ngân hàng”
Bảo lãnh ngân hàng là một hợp giữa hai bên, một bên là người phát hành
bảo lãnh, gọi là người bảo lãnh (guarantor) thông thường là một NHTM và một
bên là người thụ hưởng bảo lãnh đó ( beneficiary), trong đó bên bảo lãnh sẽ cam
kêtsex bồi hoàn một khoản tiền cho người thụ hưởng trong trường hợp người
được bảo lãnh (account party ) vi phạm những nghĩa vụ của họ được quy định
trong chứng thư bảo lãnh.
Một đặc điểm quan trọng của bảo lãnh là tính độc lập của nó, nghĩa là nếu
các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh được đáp ứng thì Ngân hàng phải
thanh toán cho bên thụ hưởng mà không viện dẫn những biện hộ phát sinh từ
quan hệ hợp đồng mua bán giữa bên thụ hưởng và bên được bảo lãnh.
Do trong thương mại quốc tế rủi ro ngày càng lớn nên bảo lãnh Ngân
hàng ngày càng có vai trò quan trọng. Nhà NK không tin cậy hoàn toàn vào khả
năg thực hiện hợp đồng của người XK họ sẽ nhờ vào bảo lãnh của Ngân hàng.
người XK nghi ngờ khả năng tài chính của nhà NK nước ngoài nên cũng tìm đến
bảo lãnh Ngân hàng. Như vậy bảo lãnh Ngân hàng có vai trò quan trọng ngăn
chặn những rủi ro có thể phát sinh trong hoạt động ngoại thương đồng thời bù



đắp được những thiệt hại về mặt tài chính cho người thụ hưởng, giúp cho các
nhà xuất nhập khẩu yên tâm hơn khi bước vào kinh doanh.
Những nghiệp vụ bảo lãnh thông dụng dưới góc độ là những nghiệp vụ tài
trợ của Ngân hàng bao gồm:
Bảo lãnh dự thầu ( Tender Guarantee)
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee)
Bảo lãnh tiền ứng trước ( Advance Payment Guarantee)
Bảo lãnh bảo lưu ( Retention money Guarantee)
Bảo lãnh bảo hành ( Maintainance Guarantee)
Bảo lãnh sai sót toàn bộ chứng từ nhờ thu ( Discrepancy Guarantee)
Thư tín dụng dự phòng.
Tóm lại khi hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển thì các
phương thức thanh toán quốc tế cũng ngày càng đa dạng và kéo theo đó là sự đa
dạng của các phương thức tài trợ ngoại thương. Mỗi hình thức thanh toán đòi
hỏi phải có một hình thức tài chính tương ứng, phục vụ nó và đảm bảo cho nó.
Hoạt động tài chính đối ngoại càng thuận lợi bao nhiêu thì mối quan hệ thương
mại càng được mở rộng bấy nhiêu. Chất lượng của hoạt động tài chính ngoại
thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng hàng trong thương mại, tạo điều
kiện cho quá trình lưu thông hàng hoá, tạo thêm sức mạnh cạnh tranh trên thế
giới. Việc đó đã thúcđẩy phát triển sản xuất trong nước và lớn hơn nữa là tạo sự
cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế vì vậy trong những chiến lược kinh tế
đối ngoại NH có vai trò không nhỏ Tuy nhiên NH cũng phải chịu không ít
những rủi ro khi tham gia tài trợ ngoại thương nói chung và tài trợ XK nói riêng.
1.3. Rủi ro trong tài trợ Xuất khẩu.
Hoạt động tài trợ ngoại thương mà cụ thể là tài trợ XK của NH phải
đương đầu với nhiều yếu tố rủi ro hơn là tài trợ thương mại trong nước, nó xuất
phát từ môi trường kinh doanh của khách hàng và Ngân hàng, từ chính khách
hàng nhận tài trợ và cả thao tác nghiệp vụ tài trợ của Ngân hàng. Đó là:

1.3.1.Rủi ro quốc gia và chuyển tiền


Đây là loại rủi ro phát sinh từ biến cố hoàn toàn không liên quan đến các
hoạt động thương mại nó tác động đến khả năng chuyển trả tiền thanh toán của
người mua hay Ngân hàng của người đó cho bên bán ảnh hưởng xấu đến khả
năng thực hiện nghĩa vụ tín dụng của người đi vay(người bán )với Ngân hàng tài
trợ Đó là những rủi ro liên quan đến môi trường kinh tế, xã hội pháp lý và chính
trị.
Những biến cố thuộc loại rủi ro này thông thường là:quá trình quốc hữu
hoá của chính phủ nước người mua, chính phủ xoá bỏ việc thực hiện mọi cam
kết hiện hữu trong hoạt động kinh tế tình trạng mất cân bằng trong cán cân thanh
toán Nhà nước hoặc quy chế quản lí ngoại hối của nước ngoài khiến người mua
không thể chuyển trả bằng ngoại tệ cho dù anh ta vẫn đủ khả năng trả nợ bằng
đồng bản tệ, những rủi ro này như: chiến tranh thiên tai như lũ lụt, bão hoả hoạn
ảnh hưởng xấu đến chuyển tiền…
1.3.2. Rủi ro khách hàng không hoàn trả tín dụng
Rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng sử dụng mọi biện pháp để truy đòi mà
vẫn không đòi được nợ từ khách hàng Tình trạng này được xem xét dưới 2 góc
độ:
- Rủi ro khách hàng mất khả năng thanh toán:
Đây là hiện tượng mà chính nhà kinh doanh XK gặp rủi ro. Chẳng hạn khi
nhà XK đã dùng tiền vay Ngân hàng để xuất khẩu nhưng vì lí do nào đó nhà NK
lại từ bỏ hợp đồng hoặc khi hàng hoá đang trên đường vận chuyển chẳng may
gặp thiên tai bão biển, cướp biển…Đó là những rủi ro cho nhà XK và khi đó nó
gián tiếp gây rủi ro cho Ngân hàng.
- Rủi ro khách hàng không thanh toán.
Trong trường hợp này bản thân con nợ vẫn có khả năng thanh toán nhưng
không chịu hoàn trả Ngân hàng.
1.3.3.Rủi ro về lãi suất

Rủi ro về lãi suất phát sinh do biên dông không cùng chiều giữa lãi suất
phải trả cho nguồn vốn Ngân hàng đi vay với lãi thu được từ việc sử dụng vốn


×