Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận môn kế toán định giá doanh nghiệp vận dụng kế toán định giá doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.76 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: KẾ TOÁN ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

VẬN DỤNG KẾ TOÁN ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
KHI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HÓA

THỰC HIỆN: NHÓM 1 – LỚP CH17A-KT (ngày)

HÀ NỘI (4 – 2012)
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: KẾ TOÁN ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

VẬN DỤNG KẾ TOÁN ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
KHI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HÓA

THỰC HIỆN: NHÓM 1 – LỚP CH17A-KT (ngày)

HÀ NỘI (4 – 2012)
2



BIÊN BẢN PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC CỦA NHÓM 1
Thành phần tham gia:
Các thành viên trong nhóm 1 (đủ)
Địa điểm:
Phòng C23
Thời gian:
11h ngày 25 tháng 3 năm 2012
Nội dung:
Phân công công việc để chuẩn bị thảo luận trên cở đề tài được giao.
Trên cơ sở nhóm trưởng đưa đề cương sơ bộ, các thành viên đóng góp ý
kiến sửa đề cương sơ bộ sau đó phân chia thành từng việc như sau:
STT

Họ và tên

1
Nguyễn Thị Kim
2
Giáp Minh Nguyệt
3

Nguyễn Đức

4
Trương Thị
5
6

Nguyễn Thị Linh

Hà Hải

7
Nguyễn Thị Phương

Nhiệm vụ

Ghi
chú

Các nhân tố ảnh hưởng đến cổ phần
Anh hóa + Những bất cập trong định giá ở
doanh nghiệp Việt Nam
Kế toán định giá khi cổ phần hóa +
Ánh
Các nhân tố ảnh hưởng đến cổ phần
hóa
Thuyết trình + Những bất cập trong
Bằng
định giá ở doanh nghiệp Việt Nam
Tổng quan về cổ phần hóa+ Những
Bình
bất cập trong định giá ở doanh
nghiệp VN
Tổng hợp + Các phương pháp định
Chi
giá khi cổ phần hóa DN
Làm slide + Tổng quan về cổ phần
Điệp
hóa

Kế toán định giá khi cổ phần hóa +
Dung
Các phương pháp định giá khi cổ
phần hóa DN

Thời hạn: Các thành viên nộp sản phẩm cá nhân và các ý kiến đóng góp
vào ngày 4 tháng 4 (riêng bản tổng hợp lần 1 nộp vào ngày 7 tháng 4 qua mail,
bản chính thức hoàn thành vào ngày 12 tháng 4)
Ấn định, ngày 15 tháng 4 họp và đánh giá.
Biên bản được lập vào ngày 25 tháng 3 năm 2012.
Trưởng nhóm

Thư ký

Nguyễn Thị Linh Chi

Hà Hải Điệp
3


BIÊN BẢN NGHIỆM THU CÔNG VIỆC NHÓM 1
Thành phần tham gia:
Các thành viên trong nhóm 1 (đủ)
Địa điểm:
Phòng C23
Thời gian:
11h ngày 15 tháng 4 năm 2012
Nội dung:
1. Các thành viên tự nhận xét đánh giá về tiến độ, nội dung, chất lượng
công việc.

Đồng chí Kim Anh: Nội dung cả bài đạt và phần công việc của tôi hoàn
thành đúng hẹn mặc dù sẽ có nhiều thiếu sót.
Đồng chí Bình: Nội dung đầy đủ, Slide đẹp.
Đồng chí Bằng: Nhìn chung bài làm đã gặt hái được nhiều thành công, đã
bao quát được nội dung trọng tâm của đề tài. Nhưng nhược điểm là chưa gắn với
1 công ty cụ thể làm trung tâm nghiên cứu nên tính thuyết phục người nghe sẽ
chưa cao.
2. Các thành viên đưa đề xuất hoàn thiện
Đồng chí Dung và đồng đồng chí Ánh: Đưa thêm thực tế về 1 công ty là
cần nhưng sẽ cần nhiều thời gian. Vì vậy, các thành viên có nhiều kinh nghiệm
hơn sẽ tìm và nói thêm cho bài thuyết trình phong phú còn bài thảo luận nên giữ
nguyên.
100% thành viên đồng ý với ý kiến trên.
3. Kết luận:
Các thành viên đều đồng ý là bài thảo luận đã gặt hái được những thành
công nhất định và chấp nhận bài thảo luận lần này là bản chính thức được công
bố.
Biên bản được lập vào ngày 15 tháng 4 năm 2012.
Trưởng nhóm

Thư ký

Nguyễn Thị Linh Chi

Hà Hải Điệp

4


BIÊN BẢN HỌP ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI THÀNH VIÊN

Thành phần tham gia:
Các thành viên trong nhóm 1 (đủ)
Địa điểm:
Phòng C23
Thời gian:
11h ngày 15 tháng 4 năm 2012
Nội dung:
1. Các thành viên tự phê bình và phê bình
2. Các thành viên tự xếp loại và nhóm biểu quyết:
STT
Họ và tên
1
Nguyễn Thị Kim

Anh

Cá nhân xếp loại
B

Nhóm xếp loại
B
B
A

2
3

Giáp Minh Nguyệt

Ánh


Nguyễn Đức

Bằng

B
A

4

Trương Thị

Bình

A

A

5

Nguyễn Thị Linh

Chi

A

A

6


Hà Hải

Điệp

A

A

7

Nguyễn Thị Phương

Dung

B

B

Biên bản được lập vào ngày 15 tháng 4 năm 2012.
Trưởng nhóm

Thư ký

Nguyễn Thị Linh Chi

Hà Hải Điệp

5



CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp
Cổ phần hóa là cách gọi tắt của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần ở Việt Nam. Chương trình cổ phần hóa bắt đầu
được Việt Nam thử nghiệm trong các năm 1990-1991 và chính thức được thực
hiện từ năm 1992.
1.1.2. Bối cảnh cổ phần hóa
Đổi mới tư duy quản lý kinh tế bắt đầu diễn ra mạnh sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 12 năm
1986. Một trong những tư duy quản lý đã thay đổi đó là cải cách khu vực doanh
nghiệp nhà nước, bao gồm tăng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, yêu cầu
phải chuyển sang hình thức kinh doanh hạch toán kinh tế, lời ăn lỗ chịu.
Để có thể tiến hành cải cách kinh tế bắt đầu từ nửa sau của thập kỷ 1990,
Việt Nam đã đề nghị sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của các thể chế tài
chính toàn cầu như Nhóm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng
Phát triển châu Á và các nhà tài trợ mà hầu hết là những nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. Một trong những cái giá Việt Nam phải trả là phải tiến hành
một số cải cách theo đề nghị của những tổ chức và nhà tài trợ - những cải cách
mà vào thời điểm đầu thập niên 1990 Việt Nam còn chưa nhận thức đầy đủ sự
cần thiết và do đó rất miễn cưỡng thực hiện. Trong số những cải cách miễn
cưỡng này có tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Để tránh gây ra mâu
thuẫn sâu sắc với bộ phận cán bộ và nhân dân lo ngại về sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân, Chính phủ Việt Nam đã quyết định sẽ không bán đứt các
doanh nghiệp của mình cho các cá nhân, thay vì đó tiến hành chuyển các doanh
nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần. Tài sản của doanh nghiệp được
chia thành các cổ phần bán cho cán bộ công nhân trong doanh nghiệp và phần
còn lại do nhà nước sở hữu. Tùy từng doanh nghiệp, phần cổ phần do nhà nước
sở hữu có thể nhiều hay ít, từ 0% tới 100%.
1.1.3. Thực trạng cổ phần hóa tại Việt Nam.
Có thể phân tích thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp ở một số khía cạnh sau:

- Đối tượng cổ phần hóa. Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa
chọn doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban
đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô
6


lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã
cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp
cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh
nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại
doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện
cổ phần hóa.
Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến
độ thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện
được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp
chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra.
- Cơ cấu vốn điều lệ. Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh
nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn
nào ở gần 30% số doanh nghiệp.
Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới
chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số
vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
(khoảng 3,6%).
Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần
“chi phối” của nhà nước.
- Cơ cấu cổ đông. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ,
công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm
24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần.

Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó
mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh
nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực
quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm
cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là
trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO).
Phân tích một số bài viết nghiên cứu về quá trình cổ phần hóa trên báo chí,
chẳng hạn bài “Cổ phần hóa – quỹ đạo nào để bảo toàn, phát triển thị trường
vốn?” đăng trên báo Tài chính; qua những thông tin từ Ban Chỉ đạo đổi mới
7


doanh nghiệp, có thể nhận thấy việc đánh giá về hiệu quả cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước có những ý kiến không giống nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, sau khi cổ phần hóa, có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả,
góp phần tăng ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động
vốn xã hội cũng tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo
thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động
kém hiệu quả vì trước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp này đã hoạt động rất
kém, nội bộ mất đoàn kết, không thống nhất; mặt khác còn do sự can thiệp
không đúng của chính quyền địa phương…
Thứ hai, theo kết quả nghiên cứu, đến thời điểm này chưa có doanh nghiệp nhà
nước nào sau khi cổ phần hóa biến thành tư nhân hóa. Tuy nhiên, trong đánh giá
của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Đặng Văn
Thanh – người tham gia đoàn giám sát của Quốc hội – bên cạnh việc công nhận
một số kết quả do cổ phần hóa mang lại, cũng đã chỉ rõ: có tình trạng, một số
doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đang dần chuyển hóa thành doanh
nghiệp tư nhân do một số cổ đông đã bán, chuyển nhượng số cổ phần của mình,
hoặc làm trung gian thu gom cổ phần cho tư nhân ngoài doanh nghiệp nắm giữ,

có trường hợp đã nắm hơn 50% tổng giá trị cổ phần danh nghĩa để trở thành chủ
nhân đích thực của doanh nghiệp. Theo ông Thanh, đây là điều trái với chủ
trương cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước.

8


CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TRONG
TRƯỜNG HỢP CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
2.1. Quan điểm về giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp là giá trị hiện tại các khoản thu nhập từ kết quả hoạt
động kinh doanh (HĐKD) của doanh nghiệp trong tương lai và giá trị thương
hiệu của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất
nhiều nhân tố: các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
2.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp
2.2.1. Các nhân tố bên ngoài
Các nhân tố này không thuộc phạm vi kiểm soát của chính doanh nghiệp
và chịu tác động bởi bối cảnh kinh tế xã hội của quốc gia và những quy định của
Nhà nước, bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình lạm phát, lãi suất tín
dụng, hoạt động của TTCK, …tất cả các nhân tố này đều tác động đến tỷ lệ hoàn
vốn, thu nhập dự kiến, tỷ suất rủi ro,… và do đó ảnh hưởng đến giá trị doanh
nghiệp.
2.2.2. Các nhân tố bên trong
Đây là các nhân tố nằm trong khả năng kiểm soát của chính doanh nghiệp:
2.2.2.1. Hiện trạng tài sản cố định (TSCĐ)
- Tài sản trong một doanh nghiệp bao gồm: tài sản lưu động (TSLĐ) và
TSCĐ. Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp là sản xuất, kinh doanh hay
thương mại, dịch vụ mà cơ cấu và tỷ trọng tài sản trong các doanh nghiệp khác
nhau sẽ khác nhau.
- Đối với các doanh nghiệp sản xuất: do đặc điểm phải sử dụng nhiều máy

móc thiết bị, phương tiện làm việc để tạo ra sản phẩm nên cơ cấu TSCĐ sẽ
chiếm tỷ trọng lớn, do vậy TSCĐ là một trong những yếu tố quyết định kết quả
sản xuất kinh doanh (SXKD). Như vậy, hiện trạng TSCĐ ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh
nghiệp.
2.2.2.2. Giá trị thương hiệu của doanh nghiệp
Thương hiệu là một tài sản vô hình đặc biệt, nó được xem là tài sản quan
trọng nhất do những hiệu quả kinh tế mà thương hiệu mang lại. Thương hiệu
ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng, nhà đầu tư góp phần tạo ra giá
trị cho cổ đông. Giá trị thương hiệu là những lợi ích mà doanh nghiệp có được
khi sở hữu thương hiệu này, những lợi ích này bao gồm:
9


- Có thêm khách hàng mới: nhờ có lợi thế về thương hiệu mà người tiêu
dùng tin tưởng vào chất lượng và uy tín của sản phẩm, qua đó công ty có thể
phát triển và thu hút thêm lượng khách hàng mới thông qua chương trình tiếp
thị.
- Duy trì khách hàng trung thành: sự trung thành về thương hiệu sẽ giúp
công ty duy trì lượng khách hàng trung thành của mình, do họ quen thuộc với
thương hiệu mà họ đã từng sử dụng, nên sẽ không có thói quen thay đổi sự lựa
chọn khác. Sự trung thành sẽ được tạo ra bởi 4 nhân tố trong tài sản thương hiệu
là: sự nhận biết thương hiệu, chất lượng cảm nhận, thuộc tính thương hiệu, và
các yếu tố khác. Chất lượng cảm nhận và thuộc tính thương hiệu cộng thêm sự
nổi tiếng của thương hiệu sẽ tạo thêm niềm tin và lý do để khách hàng mua sản
phẩm.
- Thiết lập một chính sách giá cao hợp lý: tài sản thương hiệu sẽ giúp cho
công ty thiết lập một chính sách giá cao và ít lệ thuộc hơn đến các chương trình
khuyến mãi. Trong khi với những thương hiệu có vị thế không tốt thì thường
phải sử dụng chính sách khuyến mãi nhiều để hỗ trợ bán hàng.

- Mở rộng kênh phân phối, phát triển thương hiệu: tài sản thương hiệu sẽ
tạo một nền tảng cho sự phát triển thông qua việc mở rộng thương hiệu. Một
thương hiệu mạnh sẽ làm giảm chi phí truyền thông rất nhiều khi mở rộng
thương hiệu, tận dụng tối đa kênh phân phối.
- Tạo rào cản với đối thủ cạnh tranh: tài sản thương hiệu còn mang lại lợi
thế cạnh tranh và cụ thể là sẽ tạo ra rào cản để hạn chế sự thâm nhập thị trường
của các đối thủ cạnh tranh mới.
2.2.2.3. Trình độ quản lý
Chính là bộ máy quản lý của doanh nghiệp, một doanh nghiệp với một đội
ngũ cán bộ quản lý giỏi, được sự hỗ trợ tích cực của bộ máy điều hành năng
động chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp và ngược lại.
2.2.2.4. Loại hình kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, loại hình kinh doanh có ảnh hưởng quan
trọng đến giá trị doanh nghiệp. Một loại hình kinh doanh có tỷ suất sinh lợi cao,
ổn định và đang có xu hướng phát triển, mở rộng thì các doanh nghiệp này sẽ
được quan tâm hơn và sẽ có cơ hội nâng cao giá trị lớn hơn. Ngược lại, các
doanh nghiệp ở những ngành nghề kinh doanh đang có xu hướng co lại, tỷ suất
lợi nhuận thấp và rủi ro cao thì giá trị cũng bị giảm đi.
2.2.2.5. Vị trí địa lý
10


Một vị trí địa lý thuận lợi, phù hợp với ngành nghề kinh doanh, gần các
trung tâm buôn bán, gần mặt đường lớn, thuận tiện trong vận chuyển thì doanh
nghiệp sẽ có rất nhiều thuận lợi khi quan hệ giao dịch với khách hàng, nắm bắt
nhanh nhạy nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, để điều chỉnh kế hoạch sản xuất,
kinh doanh của mình…Vị trí địa lý tốt sẽ là một lợi thế của doanh nghiệp và
chắc chắn sẽ làm cho giá trị của doanh nghiệp cao hơn giá trị sổ sách rất nhiều.
2.2.2.6. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ

- Bảng Cân đối kế toán - CĐKT
- Bảng Kết quả hoạt động kinh doanh – KQHĐKD
Các báo cáo này phản ánh tình hình “sức khỏe” của doanh nghiệp vào
thời điểm cần định giá. Với các báo cáo tài chính này, người ta có thể đánh giá
được khả năng tạo ra tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả
năng dự đoán dòng tiền, cơ cấu tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp, phân tích
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3. Phương pháp định giá doanh nghiệp
2.3.1. Phương pháp tài sản
Khái niêm: Phương pháp tài sản là phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh
nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
+ Giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán là tổng giá trị tài sản thể hiện trong
Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
Giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo sổ kế toán bằng giá trị
doanh nghiệp theo sổ kế toán trừ (-) các khoản nợ phải trả, số dư Quỹ phúc lợi,
khen thưởng và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có).
+ Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có
của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp có tính đến khả
năng sinh lời của doanh nghiệp.
+ Xác định giá trị thực tế tài sản:
Đối với tài sản là hiện vật:
Chỉ đánh giá lại những tài sản mà công ty cổ phần tiếp tục sử dụng.
Giá trị thực tế của tài sản = Nguyên giá tính theo giá thị trường nhân (x)
Chất lượng còn lại của tài sản tại thời điểm định giá.
Giá trị lợi thế kinh doanh
11


Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp =

Giá trị phần vốn nhà
nước theo sổ kế toán tại thời điểm định giá x
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên vốn nhà nước bình quân 3 năm trước thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp
Lãi suất trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 10 năm trở lên tại
thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
+ Giá trị quyền sử dụng đất.
(Việc tính giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp theo
quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 19 Nghị định 187/2004/NĐ-CP)
+ Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp:
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bằng tổng giá trị thực tế của
doanh nghiệp trừ (-) các khoản nợ thực tế phải trả, số dư Quỹ phúc lợi, khen
thưởng và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có). Trong đó, nợ thực tế phải
trả là tổng giá trị các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp trừ (-) các khoản nợ
không phải thanh toán.
+Giá trị thực tế của tổng công ty:
Trường hợp cổ phần hóa toàn bộ tổng công ty nhà nước ngoài việc thực hiện các
quy định chung phải thực hiện theo hướng dẫn sau:
Đối với tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập:
a. Giá trị thực tế toàn tổng công ty gồm giá trị thực tế toàn bộ tài sản của
Văn phòng tổng công ty (kể cả các đơn vị hạch toán phụ thuộc), các công ty
thành viên hạch toán độc lập, các đơn vị sự nghiệp (nếu có).
b. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước toàn tổng công ty gồm giá trị thực tế
phần vốn nhà nước của Văn phòng tổng công ty, các công ty thành viên hạch
toán độc lập, các đơn vị sự nghiệp (nếu có).
Đối với tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập:
a. Giá trị thực tế toàn tổng công ty để cổ phần hoá là giá trị thực tế toàn bộ
tài sản hiện có của công ty mẹ.
b. Giá trị thực tế vốn nhà nước là giá trị thực tế vốn nhà nước tại công ty

mẹ.
2.3.2. Phương pháp dòng tiền chiết khấu
Khái niệm: Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) là phương pháp xác
định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong
tương lai.
12


Đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chủ
yếu trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây
dựng, tin học và chuyển giao công nghệ, có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn
nhà nước bình quân 5 năm liền kề trước khi cổ phần hoá cao hơn lợi suất trả
trước của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 10 năm trở lên tại thời điểm gần
nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
+ Căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp:
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 5 năm liền kề trước khi xác
định giá trị doanh nghiệp.
Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá
từ 3 năm đến 5 năm sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
Lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 10 năm trở lên ở
thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp và hệ số chiết
khấu dòng tiền của doanh nghiệp.
Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao.
+ Giá trị thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm định giá theo phương
pháp DCF được xác định như sau:
Giá trị thực tế doanh nghiệp
=
Giá trị thực tế phần vốn nhà nước
+
Nợ thực tế phải trả

+
Số dư quỹ khen thưởng, phúc lợi
+
Nguồn kinh phí sự nghịêp
Trong đó:
Nợ thực tế phải trả = Tổng nợ phải trả trên sổ kế toán trừ (-) Giá trị các
khoản nợ không phải thanh toán cộng (+) Giá trị quyền sử dụng đất của diện
tích đất mới được
+ Chênh lệch tăng của vốn nhà nước giữa giá trị thực tế và giá trị ghi trên
sổ kế toán được hạch toán như một khoản lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp,
được xác định là tài sản cố định vô hình, được khấu hao theo quy định của pháp
luật hiện hành.
+ Đối với tổng công ty, các ngân hàng thương mại đủ điều kiện thực hiện
xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu thì lợi
13


nhuận và vốn Nhà nước được xác định theo quy định của pháp luật hiện hành về
quản lý tài chính đối với tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước.
Ví dụ 1:
Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp DCF
Xác định giá trị thực tế vốn Nhà nước của Công ty A thời điểm 31/12/2000
Với số liệu tài chính của Công ty từ năm 1996-2000 như sau:
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Lợi nhận sau thuế 160 275 236 177 292
Vốn Nhà nước (không bao gồm số dư Quỹ khen thưởng, phúc lợi)
790 998
1110 1329 1337
1. Dự toán lợi nhuận sau thuế của 4 năm tương lai:

* Tính tỷ lệ tăng trưởng bình quân ổn định lợi nhuận sau thuế trong quá khứ (từ
1996-2000):
292= 160 (1+T)4
T = 16,2%
P sau thuế năm 2001 = P sau thuế năm 2000 x 116,2% = 292 x 116,2% = 339tr
(thường thì P sau thuế của năm kế tiếp năm xác định giá trị doanh nghiệp lấy
theo số ước của doanh nghiệp)
Tương tự xác định của các năm tiếp theo:
P sau thuế 2002=394tr
P sau thuế 2003=458tr
P sau thuế 2004=532tr
(Dự kiến việc phân phối P sau thuế trong các năm tương lai: 50% để chia cổ tức,
30% tăng vốn , 20% trích Quỹ dự phòng tài chính, Quỹ khen thưởng, phúc lợi)
2. Ước tính khoản lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức (dự kiến là 50% ):
Chỉ tiêu này phụ thuộc vào quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh
D1=50% x Psau thuế 2001=50%x339=170tr
D2= 50% x Psau thuế 2002=197tr
D3= 50% x Psau thuế 2003=229tr
D4= 50% x Psau thuế 2004=266tr
3. Dự kiến vốn Nhà nước 4 năm tương lai (2001-2004)
Năm 2001 = Vốn Nhà nước năm 2000+30% lợi nhuận sau thuế năm 2001=
1439tr
14


Năm 2002 = Vốn Nhà nước năm 2001+30% lợi nhuận sau thuế năm 2002=
1557tr
Năm 2003 = Vốn Nhà nước năm 2002+30% lợi nhuận sau thuế năm 2003=
1694tr

Năm 2004 = Vốn Nhà nước năm 2003+30% lợi nhuận sau thuế năm 2004=
1853tr
4. Xác định tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước bình quân (2001-2004):
R = (R1+R2+R3+R4)/4
R1: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2001 = 339/1439= 0,235
R2: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2002 = 394/1577= 0,25
R3: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2003 = 458/1694= 0,27
R4: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2004 = 532/1853= 0,287
R = 0,26
5. Xác định Chỉ số g (tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của cổ tức):
g=bxR
b: tỷ lệ lợi nhuận sau thuế dùng để bổ sung vốn.
Trường hợp này b được xác định = 30% lợi nhuận sau thuế
g= 30% x 0,26 = 0,078
6. Xác định tỷ lệ chiết khấu (hay tỷ lệ hoàn vốn cần thiết):
K

=

Rf + Rp = 8,3% + 9,61% = 17,91%

Rf: lãi suất trái phiếu Chính phủ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp = 8,3%
Rp: = 9,61% (giả định xác định theo chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán trên thế
giới tại Niên giám định giá 1999, Ibbotson Associates, Inc)
7. Ước tính giá trị vốn Nhà nước năm trong tương lai thứ 3 (n=3)
P2003
(Pn) =
D 2004
K - g=
266

0,1791 - 0,078
=
266
0,1011
=
2.631trđ
8. Tính giá trị vốn Nhà nước tại thời điểm xác định giá (31/12/2000):
Giá trị thực tế vốn Nhà nước =
170
(1 + 0,1791)1
+
197
(1 + 0,1791)2
+
229
15


(1 + 0,1791)3
+
2631
(1 + 0,1791)3
=
(144 + 141 + 139) + 1604 = 2028 tr
Như vậy giá trị thực tế vốn Nhà nước của Công ty A tại thời điểm xác định là
2028 triệu đồng.
Giá trị thực tế doanh nghiệp = Giá trị thực tế vốn NN + Nợ phải trả + Quỹ khen
thưởng, phúc lợi + Nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có)
Ví dụ 2:
Xác định giá trị thực vốn Nhà nước của Công ty B thời điểm 31/12/2000

Số liệu quá khứ của Công ty từ năm 1996-2000 như sau:
Đơn vị: triệu đồng
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Lợi nhuận sau thuế452 498 578 570 623
Vốn Nhà nước (không bao gồm số dư Quỹ khen thưởng, phúc lợi)
4500
4605 4809 5448 5734
Công ty xây dựng kế hoạch chi tiêu lợi nhuận sau thuế 4 năm trong tương lai
như sau:
Năm 2001 2002 2003 2004
Lợi nhuận sau thuế800 1100 1500 2000
Số liệu này phải được Công ty chứng minh là khả thi.
(Dự kiến việc phân phối P sau thuế trong các năm tương lai: 50% để chia cổ tức,
30% tăng vốn, 20% trích Quỹ dự phòng tài chính, Quỹ khen thưởng, phúc lợi)
1. Khoản lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức (dự kiến là 50% lợi nhuận sau thuế):
D1 = 50% x P sau thuế 2001 = 50% x 800 =400tr
D2 = 50% x P sau thuế 2002 = 50% x 1100 =550tr
D3 = 50% x P sau thuế 2003 = 50% x 1500 =750tr
D4 = 50% x P sau thuế 2004 = 50% x 2000 =1000tr
2. Dự kiến vốn Nhà nước 4 năm tương lai (2001-2004)
Năm 2001 = Vốn Nhà nước năm 2000+30% lợi nhuận sau thuế năm 2001=
5974tr
Năm 2002 = Vốn Nhà nước năm 2001+30% lợi nhuận sau thuế năm 2002=
6304tr
16


Năm 2003 = Vốn Nhà nước năm 2002+30% lợi nhuận sau thuế năm 2003=
6754tr
Năm 2004 = Vốn Nhà nước năm 2003+30% lợi nhuận sau thuế năm 2004=

7354tr
3. Xác định tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước bình quân (2001-2004):
R = (R1+R2+R3+R4)/4
R1: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2001 = 800/5974= 0,134
R2: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2002 = 1100/6304= 0,174
R3: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2003 = 1500/6754= 0,222
R4: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 2004 = 2000/7354= 0,272
R = 0,20
4. Xác định Chỉ số g (tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của cổ tức):
g=bxR
b: tỷ lệ lợi nhuận sau thuế dùng để bổ sung vốn.
Trường hợp này b được xác định = 30% lợi nhuận sau thuế
g = 30% x 0,2 = 0,6
5. Xác định tỷ lệ chiết khấu (hay tỷ lệ hoàn vốn cần thiết)
K
=
Rf + Rp = 8,3% + 9,61% = 17,91%
Rf: Lãi suất trái phiếu Chính phủ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp =
8,3%
Rp: = 9,61% (Giả định theo chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán trên thế giới tại
Niên giám định giá 1999, Ibbotson Associates, Inc)
6. Ước tính giá trị vốn Nhà nước năm trong tương lai thứ 3 (n=3)
P2003
(Pn) =
D 2004
K - g=
1000
0,1791 - 0,06
=
1000

0,1191
=
8396 trđ
7. Tính giá trị vốn Nhà nước tại thời điểm xác định giá (31/12/2000):
Giá trị DCF
=
400
(1 + 0,1791)1

+

550

(1 + 0,1791)2

+

750
17


(1 + 0,1791)3

+

8396

(1 + 0,1791)3
=
(339 + 395 + 457) + 5121 = 6312 tr

Như vậy giá trị thực tế vốn Nhà nước của Công ty B tại thời điểm xác định là
6312 triệu đồng.
Giá trị thực tế doanh nghiệp = Giá trị thực tế vốn NN + Nợ phải trả + Quỹ khen
thưởng, phúc lợi + Nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có).
2.4. Những bất cập trong định giá doanh nghiệp ở Việt Nam
2.4.1. Đối với tài sản hữu hình
Như đã đề cập ở chương 2, hiện nay tại Việt Nam có hai phương pháp
chính được sử dụng khi tiến hành định giá giá trị tài sản hữu hình. Tuy
nhiên, việc sử dụng hai phương pháp này đều thể hiện những bất cập riêng
trong quá trình sử dụng cho mục đích định giá.
2.4.1.1. Phương pháp định giá phân tích chiết khấu dòng
Phương pháp này gồm hai biến chính là dòng tiền tương lai và tỷ suất
sinh lời mong muốn. Thực tế, phương pháp này là được sử dụng nhiều nhất.
Về lý thuyết, phương pháp này có thể được áp dụng dễ dàng khi hai biến này
có thể dự đoán được với độ tin cậy nhất định. Theo số liệu của
PricewaterhouseCoopers, có khoảng 90% nhà đầu tư sử dụng phương pháp
phân tích chiết khấu dòng tiền.
Về thực tiễn khi áp dụng, phương pháp này khá phức tạp vì nó đòi hỏi
khả năng phân tích, dự đoán tốt tình hình hoạt động kinh doanh trong tương lai,
xác định tỷ lệ chiết khấu của doanh nghiệp. Thông tin là một trong những yếu
tố quan trọng đối với phương pháp này. Điều này đòi hỏi người định giá phải
có tầm quan sát tốt, nhận định những rủi ro, dự báo được xu hướng vĩ mô (lạm
phát, lãi suất, chỉ tiêu kinh tế) và vi mô (các yếu tố tác động có khả năng làm
thay đổi dòng tiền của doanh nghiệp), cũng như dự báo được tìm năng hoạt
động của doanh nghiệp. Với những yếu tố này thì trình độ kỹ năng của các
chuyên viên định giá tại Việt Nam còn hạn chế, chưa có khả năng nắm bắt và
bao quát hết tầm nhìn của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, đối với doanh nghiệp dự kiến bị phá sản, phương pháp này
không xem doanh nghiệp là sự đầu tư luôn tiếp diễn và tạo ra dòng tiền dương
18



cho nhà đầu tư. Ngay cả đối với các doanh nghiệp đang thua lỗ nhưng còn có
thể tồn tại được cũng rất khó khăn khi áp dụng vì dòng tiền sẽ phải được dự báo
cho đến khi đạt được dòng tiền dương bởi việc chiết khấu về hiện tại một dòng
tiền âm sẽ cho ra kết quả giá trị doanh nghiệp âm.
2.4.1.2. Phương pháp giá trị tài sản thực
Phương pháp này khi sử dụng hiện nay gặp khó khăn khi thiếu thông
tin thị trường để xác định giá trị còn lại, giá trị thị trường của tài sản hữu hình.
Hiện nay, việc xác định định tỷ lệ hao mòn của tài sản để xác định giá trị còn
lại là một vấn đề không dễ chút nào khi tại Việt Nam còn thiếu những thông
tin, cơ sở để đảm bảo chính xác việc xác định giá trị hao mòn của tài sản, đặc
biệt là những tài sản lớn có giá trị như nhà xưởng, máy móc trang thiết bị, …
Thực tế việc xác định giá trị tài sản này đòi hỏi người định giá phải hiểu biết
thật sâu sắc nguyên lý và giá trị sử dụng của tài sản để có thể khi xác định giá
trị tài sản vào thời điểm định giá, xác định giá trị đã qua sử dụng, giá trị còn lại
của tài sản thực tế có thể sử dụng được bao lâu để tạo ra hiệu quả làm việc
trong tương lai.
Khi xác định giá trị tài sản hữu hình, “gốc giá trị” để xác định chính là
giá trị thể hiện trên bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, giá trị này được xây dựng
dựa trên chi phí lịch sử, khi doanh nghiệp bán đi thì giá trị lịch sử sẽ không còn
phù hợp, chỉ có giá trị thị trường hợp lý mới là quan trọng. Do vậy, một sự điều
chỉnh theo giá thị trường bắt buộc sẽ phải được thực hiện. Bất cập xảy ra khi
việc xác định giá trị thị trường tại thời điểm định giá vẫn thiên về giá trị sổ sách
nhiều hơn do đó không dự đoán được giá trị tương lai của tài sản hữu hình
mang lại cho doanh nghiệp.
Định giá doanh nghiệp bằng phương pháp này thường mất nhiều thời
gian và chi phí. Để xác định giá thị trường của các loại tài sản hữu hình
khác của doanh nghiệp, cần phải có sự tham gia nhiều chuyên gia chuyên
định giá cho nhiều loại tài sản khác nhau. Do đó, doanh nghiệp mất nhiều thời

gian để tìm kiếm các chuyên gia và chi phí cho việc định giá các tài sản của
doanh nghiệp.
Phương pháp này cũng không đưa ra hướng dẫn cụ thể cho việc định giá
các tài sản vô hình như danh tiếng, uy tín trên thị trường, nhãn hiệu hàng hóa,
sở hữu trí tuệ… do đó việc xác định giá trị của tài sản vô hình sẽ phụ thuộc rất
nhiều vào chủ quan của người định giá dẫn đến việc giá trị của chúng có thể
được định giá quá cao hoặc quá thấp so với giá trị thực.
19


Vì giá trị hữu hình chỉ là giá thị trường của tổng tài sản thực của doanh
nghiệp tại thời điểm định giá nên tiềm năng tăng trưởng trong tương lai của
doanh nghiệp không được tính đến trong phương pháp này. Giá trị doanh
nghiệp theo phương pháp này không phải là giá trị tương lai mà doanh nghiệp
sẽ tạo ra. Nếu áp dụng phương pháp này để định giá doanh nghiệp có tiềm
năng tăng trưởng trong tương lai, giá trị của doanh nghiệp có thể được đánh
giá thấp vì khả năng tăng trưởng cao trong tương lai của doanh nghiệp không
được tính đến.
Phương pháp định giá giá trị tài sản thực có thể áp dụng cho doanh
nghiệp “có vấn đề” đang trong giai đoạn thua lỗ có dòng tiền tương lai âm vì
đối với các doanh nghiệp này việc dự đoán dòng tiền tương lai sẽ rất khó khăn
vì doanh nghiệp có khả năng bị phá sản.
2.4.2. Đối với tài sản vô hình
Trước đây, tài sản hữu hình được xem là phần chính trong giá trị doanh
nghiệp. Việc thẩm định khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp vẫn dựa vào những chỉ số như suất sinh lợi của vốn đầu tư, tài
sản và của vốn chủ sở hữu; tất cả đều không xét đến các tài sản vô hình.
Tuy nhiên, cũng giống như các tài sản hữu hình, tài sản vô hình có đặc
điểm:
+ gắn liền với chủ thể nhất định;

+ mang lại lợi ích cho chủ thể đó.
Ngoài những đặc điểm nêu trên, tài sản vô hình còn có đặc điểm nổi bật,
mà chính nhờ đặc điểm này người ta dễ dàng “nhận ra” chúng, đó là không có
hình thái vật chất cụ thể.
Tại Việt Nam, nếu căn cứ vào Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày
31/12/2001 của Bộ Tài Chính, chuẩn mực số 04 về tài sản cố định vô hình, thì
tài sản vô hình: là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá
trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp
dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận
TSCĐ vô hình. Theo tiêu chuẩn này thì tài sản vô hình bao gồm:
- Quyền sử dụng đất
- Nhãn hiệu hàng hóa
- Quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế
- Phần mềm máy tính
- Giấy phép và giấy phép nhượng quyền
20


- Công thức và cách thức pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu
Và trong tiêu chuẩn này thì việc xác định giá trị tài sản vô hình của
doanh nghiệp chính là xác định giá trị còn lại sau khi trừ đi khấu hao lũy kế của
tài sản đó. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn ở đây chính là việc xác định giá trị tài
sản vô hình của doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Vì theo tiêu chuẩn này,
các yếu tố cần xem xét khi xác định thời gian hữu ích của tài sản vô hình làm
căn cứ để tính khấu hao bao gồm:
- Khả năng sử dụng dự tính của tài sản;
- Vòng đời của sản phẩm và các thông tin chung về các ước tính liên
quan đến thời gian sử dụng hữu ích của các loại tài sản giống nhau được sử
dụng trong điều kiện tương tự;
- Sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ;

- Tính ổn định của ngành sử dụng tài sản đó và sự thay đổi về nhu cầu
thị trường đối với các sản phẩm hoặc việc cung cấp dịch vụ mà tài sản đó đem
lại;
- Hoạt động dự tính của các đối thủ cạnh tranh hiện tại
hoặc tiềm năng;
- Mức chi phí cần thiết để duy trì, bảo dưỡng;
- Thời gian kiểm soát tài sản, những hạn chế về mặt pháp lý và những
hạn chế khác trong quá trình sử dụng tài sản;
- Sự phụ thuộc thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình với các tài
sản khác trong doanh nghiệp.
Khó khăn đầu tiên ở chỗ doanh nghiệp chưa xác định và xây dựng đầy đủ
hạng mục tài sản vô hình của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp nhiều khi
không biết chính xác tài sản vô hình của doanh nghiệp mình bao gồm những gì
để xây dựng, vun đắp, khai thác để đến khi tiến hành định giá cho mục đích
thâu tóm - hợp nhất thì không biết thống kê và tính toán giá trị tài sản vô hình.
Tất cả những yếu tố trên thực tế sẽ gặp khó khăn khi đem ra để cân nhắc
và xem xét, xác định giá trị tài sản vô hình. Nguyên nhân một phần là do trình
độ xử lý thông tin và kỹ năng nghề nghiệp của người định giá khi phân tích
chính xác các yếu tố trên. Bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng thông tin thị
trường tại Việt Nam chưa được công khai, minh bạch một cách rõ ràng nên việc
nắm bắt các yếu tố này sẽ gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Các số liệu kinh tế
vĩ mô và vi mô (doanh nghiệp) làm đầu vào cho mọi phương pháp, kỹ thuật
định giá chưa được thống kê, cung cấp đầy đủ theo từng thời kỳ.
21


Mặc dù Bộ tài chính đã có thông tư 146/2007/TT-BTC ban hành
06/12/2007 về việc hướng dẫn xác định giá trị tài sản vô hình đối với các doanh
nghiệp nhà nước khi chuyển sang CTCP. Theo thông tư này thì có hai phương
pháp để định giá giá trị tài sản vô hình:

- Phương pháp tài sản
- Phương pháp chiết khấu dòng tiền
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cảm thấy không hợp lý và rất khó áp dụng.
Một phần, thông tư này đưa ra và chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà
nước định giá khi chuyển sang loại hình CTCP, trong khi đó hoạt động M&A
không chỉ giới hạn ở loại hình doanh nghiệp này, mà đang trong quá trình cạnh
tranh, cần tiến hành định giá để thâu tóm hoặc hợp nhất giúp doanh nghiệp
vững mạnh hơn và nâng cao hiệu quả cạnh tranh.
Thông tư này đưa ra việc xác định “Giá trị lợi thế kinh doanh” gồm “giá
trị lợi thế vị trí địa lý” + “giá trị thương hiệu”. Tuy nhiên, việc xác định các
giá trị trong thông tư này thiên về giá trị sổ sách nhiều hơn và các tiêu chí để
xác định khi áp dụng thực tế cũng rất khó áp dụng. Phương pháp định giá trên
giá trị tài sản không phản ánh được khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Còn
phương pháp chiết khấu dòng tiền phức tạp và cần đầy đủ thông tin (thường chỉ
có được ở những nền kinh tế phát triển).
Giá trị thương hiệu là một phần rất quan trọng trong giá trị tài sản vô
hình của doanh nghiệp, góp phần nâng cao giá trị của doanh nghiệp. Hiện nay
trên thế giới, có khá nhiều phương pháp định giá thương hiệu. Tuy nhiên, việc
xác định giá trị thương hiệu chưa được doanh nghiệp quan tâm do một phần
việc sử dụng các phương pháp để định giá thương hiệu khi áp dụng tại Việt
Nam thường gặp khó khăn. Có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó phải kể đến
hệ thống sổ sách kế toán của Doanh nghiệp chưa được minh bạch. Khi tiến
hành định giá thương hiệu thì doanh nghiệp phải thực hiện các nghiên cứu và
đánh giá về thị trường một cách bài bản và nghiêm túc, đặc biệt trong trường
hợp doanh nghiệp muốn kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương hiệu
cho các đối tác.
Phương pháp định giá thương hiệu của tổ chức Interbrand sử dụng là
phương pháp sử dụng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, nếu áp dụng tại Việt
Nam khi định giá các thương hiệu Việt thì không dễ dàng chút nào. Nếu đặt
thương hiệu đang xem xét vào khung 7 tiêu chí (như đã đề cập trong chương 1)

ta sẽ xác định chỉ số “sức mạnh của thương hiệu” đang xem xét. Căn cứ chỉ số
22


sức mạnh thương hiệu ngành (những thương hiệu cạnh tranh), Interbrand xây
dựng mối tương quan giữa chỉ số sức mạnh thương hiệu với tỷ lệ chiết khấu
ứng với thị trường ngành của thương hiệu đang xét. Đây thực sự là vấn đề khó
khi áp dụng tại thị trường Việt Nam vì các chỉ tiêu về ngành chưa được xây
dựng hoặc nếu có chỉ là sơ sài và chưa thể hiện độ chính xác cao.
Trên cơ sở mối tương quan này, sẽ xác định tỷ lệ chiết khấu thu nhập
thương hiệu khi biết “chỉ số sức mạnh” của thương hiệu. Phương pháp này
sẽ khó áp dụng hiệu quả ở Việt Nam vì còn thiếu căn cứ để tạo ra các cơ sở cho
việc ứng dụng phương pháp.
Bên cạnh đó, tại Việt Nam, phương pháp xác định giá trị lợi thế của
doanh nghiệp vô tình xem là giá trị thương hiệu của doanh nghiệp, trên thực tế
không được xem là có độ chính xác cao. Vì giá trị thương hiệu “hợp lệ” phải
là giá trị được tính toán và đánh giá bởi một tổ chức độc lập và có uy tín, nhưng
các doanh nghiệp tại Việt Nam chưa chú trọng đến việc định giá giá trị thương
hiệu cho doanh nghiệp của mình, điều này vô tình sẽ làm giảm đi đáng kể tổng
giá trị của doanh nghiệp

23


CHƯƠNG 3. KẾ TOÁN ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP KHI CỔ PHẦN HÓA

3.1. Kế toán kết quả kiểm kê
a. Căn cứ vào Báo cáo kết quả kiểm kê tài sản, phản ánh giá trị tài sản
thừa qua kiểm kê, ghi:
Nợ các TK 111, 152, 155, 156, 211…

Có TK 3381 - Tài sản thừa chờ giải quyết.
b. Căn cứ vào Báo cáo kết quả kiểm kê tài sản, phản ánh giá trị tài sản
thiếu qua kiểm kê, ghi:
Nợ TK 1381 - Tài sản thiếu chờ xử lý
Có các TK: 111, 152, 155, 156, 211…
c. Căn cứ vào kết quả đánh giá lại tài sản để xác định giá trị doanh nghiệp
- Trường hợp giá trị tài sản được đánh giá lại cao hơn giá trị tài sản đang
phản ánh trên sổ kế toán, số chênh lệch tăng do đánh giá lại tài sản, ghi:
Nợ các TK 152, 153, 154, 155, 156, 211…
Có TK 412 - Chênh lệch đánh giá lại tài sản.
- Trường hợp giá trị tài sản được đánh giá lại nhỏ hơn giá trị tài sản đang
phản ánh trên sổ kế toán, số chênh lệch nhỏ hơn do đánh giá lại tài sản, ghi:
Nợ TK 412 - Chênh lệch đánh giá lại tài sản
Có các TK 152, 153, 154, 155, 156, 211…
3.2. Kế toán xử lý những vấn đề về tài chính trước khi xác định giá trị
doanh nghiệp
a. Kế toán xử lý kết quả kiểm kê:
- Căn cứ vào biên bản xử lý tài sản thiếu qua kiểm kê, ghi:
Nợ các TK 111, 331, 334… (Phần tổ chức, cá nhân phải bồi
thường)
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Phần tài sản thiếu sau khi trừ phần bồi
thường của các tổ chức cá nhân)
Có TK 1381 - Tài sản thiếu chờ xử lý.
- Căn cứ vào biên bản xử lý tài sản thừa qua kiểm kê, ghi:
Nợ TK 3381 - Tài sản thừa chờ giải quyết.
Có TK 331 - Phải trả cho người bán (Nếu tài sản thừa của người
bán)
Có TK 338 - Phải trả, phải nộp khác (3388)
(Tài sản thừa của đối tượng khác)
24



Có TK 711 - Thu nhập khác (Đối với tài sản thừa không xác định
được nguyên nhân và không tìm được chủ sở hữu).
b. Căn cứ kết quả xử lý tài sản doanh nghiệp không cần dùng, tài sản ứ
đọng, tài sản chờ thanh lý trước khi xác định giá trị doanh nghiệp
* Trường hợp điều chuyển tài sản cho các đơn vị khác, căn cứ vào
biên bản giao nhận tài sản theo quyết định điều chuyển tài sản của cơ
quan có thẩm quyền để xử lý như sau:
- Đối với hàng tồn kho điều chuyển cho đơn vị khác, ghi:
Nợ TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh
Có các TK 152, 153, 155, 156.
- Đối với TSCĐ điều chuyển cho đơn vị khác, ghi:
Nợ TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh (Giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình.
* Trường hợp nhượng bán, thanh lý tài sản không cần dùng, tài sản
ứ đọng:
- Phản ánh số thu về nhượng bán, thanh lý TSCĐ không cần dùng,
TSCĐ chờ thanh lý, ghi:
Nợ các TK 111, 112, 131
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (nếu có)
Có TK 711 - Thu nhập khác.
- Phản ánh số thu về nhượng bán hàng tồn kho ứ đọng, không cần dùng,
ghi:
Nợ các TK 111, 112, 131
Có TK 3331 – Thuế GTGT phải nộp
Có TK 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ.
- Phản ánh chi phí về nhượng bán, thanh lý tài sản cố định không
cần dùng, TSCĐ chờ thanh lý, ghi:

Nợ TK 811 - Chi phí khác
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (Nếu có)
Có các TK 111, 112, 331.
- Phản ánh giảm TSCĐ đem nhượng bán, thanh lý, ghi:
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình.
25


×