Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tăng cường mạng lưới các tổ chức báo chí trực thuộc Hội nhà báo Việt Nam trong việc huy động tiếng nói cộng đồng nhằm đóng góp sửa đổi Luật báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.81 KB, 16 trang )

HỘI NHÀ BÁO TỈNH HÒA BÌNH

TÊN DỰ ÁN

Tăng cường mạng lưới các tổ chức báo chí trực
thuộc Hội nhà báo Việt Nam trong việc huy động
tiếng nói cộng đồng nhằm đóng góp sửa đổi
Luật báo chí

Báo cáo góp ý cho
Luật Báo chí (sửa đổi)

Hòa Bình, ngày 30 tháng 7 năm 2015

Dự án do Quỹ Hỗ trợ sự tham gia của người dân và trách nhiệm giải trình (PARAFF) tài trợ


PARAFF là Quỹ tài trợ các dự án và hỗ trợ nâng cao năng lực cho tổ chức phi chính phủ, do Cơ
quan Hợp tác và phát triển Đan Mạch-Danida và Cơ quan Phát triển Quốc tế Anh Quốc-DFID đồng
tài trợ, và được Văn phòng Quốc hội quản lý.
Nội dung của báo cáo này do Hội Nhà báo Hòa Bình hoàn toàn chịu trách nhiệm và không phản
ánh quan điểm của Văn phòng Quốc hội, Danida hay DFID.

2


BÁO CÁO ĐÓNG GÓP XÂY DỰNG
LUẬT BÁO CHÍ (SỬA ĐỔI)

Phần I- Thông tin chung
Tên tổ chức thực hiện dự án: Hội Nhà báo Hòa Bình


Tên dự án: Tăng cường mạng lưới các tổ chức báo chí trực thuộc Hội nhà báo Việt Nam trong
việc huy động tiếng nói cộng đồng nhằm đóng góp sửa đổi Luật báo chí.
Mã số dự án (số tham chiếu): C4 - 031
Chủ đề (luật hoặc pháp lệnh): Luật Báo chí (sửa đổi)
Lĩnh vực (nghiên cứu, nâng cao nhận thức, giám sát, tăng cường mạng lưới): Tăng cường
mạng lưới.
Địa bàn thực hiện dự án: Tỉnh Hòa Bình, tỉnh Hà Nam, thành phố Hà Nội.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 12/2014 đến tháng 8/ 2015.
Tổ chức thực hiện: Hội Nhà báo Hòa Bình
Giám đốc dự án: Ông Hà Đức Nam, phó chủ tịch thường trực Hội nhà báo tỉnh Hoà Bình.
Cán bộ dự án: Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Thị Ngọc Hài, Nguyễn Thị Mai Trang.
Kế toán dự án: Nguyễn Thị Phương Dung.
Chuyên gia Tư vấn dự án: Nhà báo Mai Phan Lợi, trưởng đại diện báo Pháp luật TP.HCM tại
Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Khoa học -Trung tâm Truyền thông Giáo dục cộng đồng MEC.
Các hình thức/ công cụ lấy ý kiến:
Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho các thành viên trực thuộc Hội nhà báo Việt Nam.
Thông qua hình thức tập huấn các Hội viên được học hỏi, trao đổi và đưa ý kiến để cùng nhau
thảo luận.
Tổ chức hội thảo tạo không gian cho các nhà báo trao đổi, thảo luận về vai trò phản biện xã
hội của báo chí, chia sẻ kinh nghiệm đối thoại chính sách và vận động chính sách, từ đó khai
thác được những vấn đề nhà báo gặp phải trong quá trình tác nghiệp có liên quan chặt chẽ với
Luật báo chí (sửa đổi)
Tổ chức đối thoại chính sách giữa nhà báo với chính quyền, người dân, các nhà làm luật cùng
các bên liên quan để lấy ý kiến đóng góp xây dựng Luật Báo chí (sửa đổi).
Tổ chức diễn đàn 3 bên Chính quyền – Nhà báo – Người dân nhằm tạo không gian giúp ba
bên có thể trao đổi, chia sẻ, đối thoại về vai trò và nhu cầu của từng bên trong quá trình thực
thi luật báo chí.

3



Phần II- Nội dung báo cáo
II.1- Giới thiệu:


Báo cáo này thuộc Hợp phần 3 của chương trình.



Thông tin trong báo cáo thu được từ những buổi tập huấn, hội thảo, đối thoại chính
sách, diễn đàn, là tổng hợp các ý kiến của các nhà báo, người dân, chính quyền và các
nhà làm luật.



Những hạn chế trong báo cáo này:

+ Hạn chế về thời gian: Luật Báo chí 1989, Luật sửa đổi Luật Báo chí 1999 đã qua hàng chục
năm thực hiện, trải qua nhiều giai đoạn biến chuyển của kinh tế - xã hội nhưng chưa có dịp
nào để tổng kết, đánh giá một cách toàn diện. Vì vậy chỉ với 08 tháng và chủ yếu thông qua
các hoạt động tập trung (hội thảo, đào tạo) nên những vấn đề được trình bày chỉ là những vấn
đề nổi bật nhất, đáng quan tâm nhất trong nhiều vấn đề đáng quan tâm của báo chí. Báo cáo
này cũng chưa xem xét đầy đủ đến nhu cầu, tiến trình và nội dung dự thảo Luật Tiếp cận
thông tin – một dự án luật đang được soạn thảo đồng thời với Luật Báo chí; cũng như chưa có
điều kiện so sánh, đánh giá một cách chi tiết mức độ ảnh hưởng của mạng xã hội đến hoạt
động báo chí.
− Báo cáo gồm 4 phần chính: (i) Bối cảnh thực hiện; (ii) Mục tiêu báo cáo; (iii) Những kết
quả thu được; (iv) Kết luận và đề nghị
II.2- Bối cảnh thực hiện:
Luật Báo chí được Quốc hội thông qua năm 1989 và sửa đổi bổ sung năm 1999 tạo hành lang

pháp lý cho hoạt động báo chí trong nước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
Tính đến tháng 12 năm 2013, cả nước có 838 cơ quan báo in với 1.111 ấn phẩm, trong đó có
199 cơ quan báo, 639 tạp chí; có 67 đài Phát thanh – Truyền hình (PT-TH) với tổng số 179
kênh chương trình PT-TH; 96 cơ quan báo điện tử được cấp phép và 207 trang thông tin điện
tử tổng hợp của các cơ quan báo chí. Tuy nhiên, sau 15 năm thi hành Luật Báo chí đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập không còn phù hợp với thực tiễn, nhất là trong điều kiện phát triển
nhanh chóng của công nghệ thông tin như hiện nay. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi luật
chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn để đảm bảo luật đi vào thực
tiễn cuộc sống hiệu quả, cụ thể là:
(i). Nhận thức về Luật Báo chí và Cơ chế bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân còn hạn
chếthể hiện cả ở 3 phía: bản thân báo chí, người dân và nhà nước. Nguyên nhân khiến cho
nhiều quy định của Luật Báo chí chưa đi vào cuộc sống (dù đã có hiệu lực 25 năm nay) có lý
do chủ quan từ phía báo chí, như thiếu hiểu biết về quyền hạn, trách nhiệm của mình trong
luật, có chỗ còn lạm dụng hoạt động nghề nghiệp cho mục đích cá nhân. Cạnh đó về phía
người dân và xã hội cũng chưa tôn trọng quyền tác nghiệp báo chí, có nơi do thiếu hiểu biết
người dân đã ngăn cản hoặc tự tiện đề ra “lệ làng” cho phóng viên tác nghiệp. Tuy nhiên nổi
bật hơn cả chính là nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức và lãnh đạo cơ quan nhà nước về
quyền tác nghiệp của nhà báo dẫn đến các hệ lụy: Ở cấp thấp thì cán bộ nhà nước có những
hành động cản trở hoặc không có hành vi tác động vào các đối tượng cản trở báo chí tác
nghiệp; ở cấp cao hơn thì chậm xây dựng hoặc đề xuất sửa đổi chính sách (Luật Báo chí, Bộ

4


luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính – sẽ được phân tích cụ thể tại phần “Những kết
quả thu được”) để bảo đảm quyền tác nghiệp báo chí như luật quy định.1
(ii) Công tác chỉ đạo, quản lý nhà nước về báo chí còn thiếu cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho
phối hợp thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân trên Luật báo chí, nhưcơ chế thực
hiện quyền phát ngôn và cung cấp thông tin. Một bộ phận không nhỏ lãnh đạo, người phát
ngôn cơ quan nhà nước vẫn còn xem việc trả lời, cung cấp thông tin cho báo chí như một “đặc

ân” của cơ quan nhà nước “ban phát” dưới dạng xin-cho, chứ chưa hề xem đó là nghĩa vụ,
thậm chí là nhu cầu xây dựng hình ảnh, tạo sự đồng thuận từ dư luận xã hội đối với các quyết
sách của mình. Vì thế tình trạng “né”, “lờ” các đòi hỏi của nhà báo, thực chất là đòi hỏi của xã
hội, vẫn diễn biến phức tạp. 75% các cơ quan nhà nước đã chậm hoặc không trả lời các yêu
cầu từ phía báo chí mà những người để xảy ra tình trạng này không hề phải chịu chế tài nào.2
(iii) Quản lý báo chí trong giai đoạn bùng nổ thông tin và hội nhập quốc tế - vừa là cơ hội vừa
là thách thức lớn đối với năng lực cơ quan quản lý nhà nước. Mạng xã hội đang phát triển rất
nhanh tại Việt Nam với trên 30 triệu người dùng đang hang giờ, hang phút tự thu thập, xử lý
và xuất bản các tin tức mà họ muốn chia sẻ3. Xu hướng này cũng đang khiến cho cách thức
truyền thống tiếp cận tin tức của độc giả thay đổi, tỷ lệ người đọc tin tức từ mạng xã hội tăng
vượt số người đọc báo từ các nguồn chính thống; thêm vào đó với yêu cầu hội nhập quốc tế,
thực hiện các cam kết đa phương Luật Tiếp cận thông tin đang soạn thảo với yêu cầu công
khai mạnh mẽ các hoạt động của nhà nước đã trao cho người dân thêm nhiều cơ hội tiếp cận
thông tin ngoài nguồn báo chí. Thực tiễn này là một thách thức đối với năng lực quản lý báo
chí, bởi sự kiểm soát quá chặt chẽ có thể tạo ra nguy cơ người đọc rời bỏ báo chí và thay vào
đó họ tự đi tìm kiếm thông tin.
(iv) Vấn đề đạo đức, nghiệp vụ báo chí trong bối cảnh cạnh tranh thông tin đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết, như tình trạng thương mại hóa báo chí, giật gân câu khách, đưa tin sai sự thật,
đưa tin xâm phạm đời tư cá nhân, tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật công tác… đòi hỏi công tác
đào tạo, huấn luyện và giám sát việc thực hiện pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp cần
được nâng lên một tầm cao mới. Với các nguồn lực hiện tại, Hội Nhà báo các cấp dù rất cố
gắng nhưng không thể bao quát, tham gia hết các hoạt động của trên 2 vạn nhà báo, đòi hỏi
cần có sự tham gia mạnh mẽ hơn của khán giả, thính giả, bạn đọc cũng như của cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí trong việc nâng cao năng lực về chuyên môn nghiệp vụ cũng như đạo
đức nghề nghiệp cho hội viên, nhà báo.
Trong bối cảnh này, Hội nhà báo tỉnh Hòa Bình xây dựng dự án “Tăng cường mạng lưới các
tổ chức báo chí trực thuộc Hội nhà báo Việt Nam trong việc huy động tiếng nói cộng đồng
nhằm đóng góp sửa đổi Luật báo chí” tập trung vào các hoạt động (i) tăng cường năng lực cho
các thành viên mạng lưới thông qua các cơ hội tập huấn, chia sẻ bài học và kinh nghiệm thực
tế, kiến thức; (ii) thực hiện chuỗi các cuộc đối thoại chính sách cấp địa phương và trung ương

nhằm tạo không gian dân chủ và các cơ hội giúp giới báo chí, các nhà làm luật, chính quyền,
1

Theo Báo cáo về các hành vi cản trở báo chí tác nghiệp (RED Com 2011);

Theo Mức độ phản hồi của cơ quan nhà nước đối với kiến nghị, phê bình của công dân quan
báo chí (MEC 2013):
2

3

TheoNăng lực và nhu cầu truyền thông của CSO Việt Nam (MEC 2015);

5


đại diện người dân, các tổ chức cộng đồng đóng góp ý kiến xây dựng Luật báo chí (sửa đổi)
sát với nhu cầu thực tế; (iii) thực hiện chiến dịch truyền thông để nâng cao nhận thức và huy
động mọi thành viên trong cộng đồng vùng dự án tham gia, qua đó người dân có thể đóng góp
xây dựng Luật báo chí (sửa đổi), và góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình của lãnh đạo địa
phương với giới báo chí và người dân.
II.3- Mục tiêu của báo cáo:
Trên cơ sở đánh giá bối cảnh, trên cơ sở các thông tin, dữ liệu thu thập được và thẩm quyền
của các cấp Hội Nhà báo Việt Nam, mục tiêu của báo cáo là đưa ra ý kiến và bằng chứng
nhằm đóng góp xây dựng dự thảo Luật báo chí theo 04 vấn đề:
(i). Tăng cường cơ chế đảm bảo quyền tự do ngôn luận của công dân và quyền tác nghiệp của
nhà báo theo Luật Báo chí.
(ii) Siết chặt chế tài đối với nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong công tác quản lý và cung
cấp thông tin cho báo chí.
(iii) Kiểm soát báo chí trong bối cảnh hội nhập quốc tế, bùng nổ thông tin

(iv) Việc đào tạo, huấn luyện về nghiệp vụ và trau dồi đạo đức báo chí
II.4- Những kết quả thu được
A/Vấn đề 1: Cơ chế đảm bảo Quyền tự do báo chí
Tại Điều 25 Hiến pháp 2013 đã khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định”. Như vậy để bảo đảm quyền này, Luật Báo chí chỉ được phép đưa ra hướng dẫn cụ
thể hơn để xác lập cơ chế thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí chứ nhất thiết không
được hạn chế hoặc bó hẹp việc công dân, nhà báo thực hiện quyền này.
Tuy nhiên qua tham vấn ý kiến của hội viên Hội Nhà báo Hòa Bình cho thấy, việc phóng viên
bị giam giữ trái phép khi đang hoạt động nghiệp vụ nhưng đối tượng giam giữ (lãnh đạo xã)
không bị xử lý nghiêm có thể khiến cho tình trạng cản trở, hành hung, phá hoại phương tiện
tác nghiệp của nhà báo diễn ra phức tạp. Theo kết quả nghiên cứu của RED Com 2011, có
trên 80% số nhà báo (trong tổng số 384 nhà báo trả lời khảo sát) cho biết từng gặp cản trở với
các mức độ từ thấp đến cao, từ né tránh cung cấp thông tin đến đe dọa, trả thù…
Tại các cuộc tham vấn, nhiều hội viên Hội Nhà báo cho rằng để xảy ra các trường hợp như
vậy là kéo dài là khó chấp nhận, bởi từ năm 1989, Luật Báo chí đã nêu rất rõ ở Điều 2: “Bảo
đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí”. Cụ thể, điều luật này ghi rõ:
“Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; Báo chí, nhà báo hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào
được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo
chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công
dân…”
Sở dĩ nhiều ý kiến quan tâm đến cơ chế bảo hộ này vì tại Điều 12 dự thảo Luật Báo chí có
nhắc lại, nhưng chưa có thể hiện cam kết/cơ chế nào mới hơn, trong khi việc thực thi luật cũ

6


đang có những khoảng trống khiến cho việc tác nghiệp của nhà báo; việc thực thi quyền tự do

ngôn luận của công dân vẫn gặp trở ngại.
Cụ thể, đối với nhà báo hiện ba cơ chế/giải pháp chính là hình sự, hành chính và dân sự đều ít
có hiệu lực, hiệu quả.
(i) Với chế tài hình sự hiện chưa có tội danh cản trở nhà báo tác nghiệp hoặc cản trở quyền tự
do ngôn luận để xử lý các tổ chức, cá nhân cố tình tấn công, hủy hoại phương tiện tác nghiệp
của nhà báo. Đa số các vụ việc tương tự đều được cơ quan tố tụng xem xét theo các tội danh
“Cố ý gây thương tích” hoặc “Hủy hoại tài sản”, tức là xem việc nhà báo tác nghiệp bị cản trở
như xem xét các tranh chấp giữa các công dân thông thường, nên mới phát sinh các giai đoạn
giám định thương tật và giám định giá trị tài sản bị hủy hoại dẫn đến kèo dài tiến trình xử lý.
Trong khi đó ít có đối tượng tấn công nhà báo mong muốn gây thương tật hay muốn gây hư
hỏng phương tiện tác nghiệp, mà chủ yếu là muốn ngăn chặn nhà báo thu thập và công bố
thông tin. Vì thế tuyệt đại đa số các vụ việc cản trở, tấn công nhà báo thời gian qua đều tự hòa
giải hoặc “chìm xuồng” khiến cho các vụ mới tiếp tục xảy ra, mà điển hình là các vụ việc với
phóng viên báo Giao thông và báo Dân Trí vào tháng 6/2015 vừa qua.
(ii) Chế tài hành chính: Từ Luật Báo chí sửa đổi 1999 đến nay Chính phủ đã ban hành nhiều
Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, như Nghị định 31, 56, 02 và
mới nhất là Nghị định 159/2013/NĐ-CP đều có chế tài xử phạt các đội tượng đe dọa, cản trở,
hành hung nhà báo với các mức độ từ thấp đến cao, nhưng suốt 15 năm qua các cơ quan quản
lý nhà nước các cấp chỉ xử phạt được 03 trường hợp cản trở nhà báo vào năm 2012 (một ở
Daklak và 2 ở Cần Thơ). Trong khi đó số nhà báo, cơ quan báo chí bị xử phạt vi phạm hành
chính hàng năm lại rất nhiều, mỗi năm cả tỷ đồng tiền phạt.
(iii) Các biện pháp dân sự: Với trách nhiệm bảo vệ hội viên, những năm qua Hội Nhà báo các
cấp đã rất cố gắng tiếp cận các vụ việc, lên tiếng yêu cầu các cơ quan chức năng xử lý nghiêm
minh các hành vi đe dọa, tấn công nhà báo. Tuy nhiên việc thực hiện nhiệm vụ này vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu, nhiều lúc, nhiều nơi vai trò của Hội còn mờ nhạt, tiếng nói của Hội
chưa được tôn trọng; Cạnh đó các cơ quan báo chí khi có thành viên bị xâm phạm quyền tác
nghiệp còn thiếu sự đoàn kết đấu tranh với tình trạng này, có cơ quan còn ém nhẹm sự việc
hoặc âm thầm hòa giải khiến cho các đối tượng khác xem thường nhà báo. Ngoài ra hiếm khi
có trường hợp cơ quan báo chí, nhà báo sử dụng quyền khởi kiện khi bị xâm phạm do các thủ
tục tố tụng quá rườm rà, phức tạp, nhất là khâu thi hànhán khiến cho giải pháp xử lý tranh

chấp bằng tòa án ít được đề cao.
Những phân tích ở trên là xảy ra đối với nhà báo tác nghiệp. Còn đối với công dân khi thực
hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí thì sao? Theo ý kiến của hội viên Hội Nhà báo Hòa
Bình thì việc pháp luật về báo chí đưa ra quy định công dân phải "xin phép" khi muốn cung
cấp thông tin cho báo chí qua hình thức họp báo là quy định vừa hình thức, vừa tạo điều kiện
cho cán bộ nhà nước sách nhiễu, hạn chế quyền công dân. Trên thực tế cả cơ quan nhà nước,
doanh nghiệp và người dân vẫn dễ dàng "lách" quy định này cách tiến hành các cuộc gặp gỡ
thân mật không cần theo thủ tục, trình tự nào.
Đặc biệt, một tiêu chí bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân chính là việc công dân thực
hiện quyền phát biểu, phê bình, khiếu nại, tố cáo thông qua báo chí và trách nhiệm trả lời của
cơ quan nhà nước. Tuy nhiên nghiên cứu của MEC năm 2013 cho thấychỉ có 10% các kiến
nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của họ gửi đến nhà nước qua báo chí được phản hồi đầy đủ,

7


đúng hạn. Đại diện bạn đọc, các tổ chức xã hội tại Hòa Bình cũng cung cấp các dữ liệu này
với đề nghị có cơ chế bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công dân trên báo chí.
Từ các phân tích trên, chúng tôi đề xuất các Khuyến nghị với vấn đề này như sau:
- Bổ sung vào Điều 12 và điểm đ Khoản 1 Điều 34 dự thảo Luật Báo chí về cơ chế bảo hộ của
nhà nước đối với quyền tác nghiệp báo chí. Cụ thể nêu rõ: "Những hành vi cản trở nhà báo
hoạt động đúng pháp luật bị xử phạt hành chính hoặc bị xử tù theo tội danh cản trở nhà
báo/cản trở quyền tự do ngôn luận
- Sửa đổi Khoản 2 Điều 40 dự thảo Luật Báo chí bỏ quy định "phải được cơ quan nhà nước
chấp thuận", nghĩa là người dân chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo về cuộc họp báo trước
24h với cơ quan nhà nước;
- Sửa Khoản 2 Điều 15 về thời hạn cơ quan nhà nước trả lời các kiến nghị, phê bình, khiếu
nại, tố cáo của công dân thông qua báo chí xuống còn 01 ngày đối với sự việc bình thường và
10 ngày đối với sự việc phức tạp (phù hợp với quy định về nhiệm vụ của báo chí trong Luật
Phòng chống tham nhũng).

B/ Vấn đề 2: Nghĩa vụ của cơ quan nhà nước
Theo quy định của Hiến pháp 2013, tại Điều 28 ghi rõ: “1. Công dân có quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề
của cơ sở,địa phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân”.
Tại Luật Báo chí điều này cụ thể hóa bằng nghĩa vụ: Nhà nước phải chủ động cung cấp thông
tin và thực hiện giải trình theo yêu cầu của nhà báo và công dân. Theo Nghị định 51/2002 thì
thời hạn trả lời các vấn đề của công dân nêu ra qua báo chí là 30 ngày, theo Luật Phòng chống
tham nhũng 2005 thì thời hạn trả lời cho báo chí là 10 ngày.
Thực tế tại các cuộc tham vấn tại Hòa Bình rất nhiều hội viên cho rằng tình trạng né tránh,
không/chậm trả lời báo chí diễn ra hết sức phổ biến, cá biệt còn có tình trạng sử dụng dấu
“Mật” tùy tiện khiến tác nghiệp báo chí khó khăn. Theo khảo sát của MEC năm 2013 với 279
nhà báo ở 19 tỉnh, thành phố trong cả nước thì nhiều cơ quan nhà nước vẫn "né" cung cấp
thông tin và thực hiện trách nhiệm giải trình thể hiện ở số liệu 75% các cơ quan nhà nước im
lặng, chậm trả lời các vấn đề báo nêu. Theo khảo sát của RED năm 2011 thì “cán bộ công
chức” là đối tượng dẫn đầu về cản trở nhà báo và hành vi phổ biến nhất là “né tránh cung cấp
thông tin”.
Thực tế việc cung cấp thông tin và trả lời báo chí trong giai đoạn bùng nổ thông tin không
phải là lợi ích hay nhu cầu của báo chí mà chính là lợi ích, nhu cầu của cơ quan quản lý nhà
nước phụ trách địa bàn, lĩnh vực, bởi khi báo chí chính thống chậm thông tin thì đã có mạng
xã hội thay thế. Vì lẽ đó theo nghiên cứu của MEC năm 2015 đã có những thay đổi trong
nhận thức của Chính phủ, như phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Văn phòng
Chính phủ ngày 15/1/2015 rằng “cần chủ động cung cấp thông tin lên mạng xã hội”, hoặc
việc Bộ Y tế thông báo fanpage chính thức của bộ trưởng để giao lưu với cộng đồng mạng về
lĩnh vực y tế thể hiện đó là nhu cầu của chính cơ quan nhà nước.

8



Tuy nhiên nhận thức này chưa thay đổi ở nhiều cơ quan khác cấp thấp hơn. Trong khi đó dù
Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí (do Thủ tướng ban hành kèm Quyết
định 25/2013) đã nhắc và Nghị định 159/2013 cũng nêu chế tài về các trường hợp không cung
cấp thông tin, nhưng các chế tài này chưa sử dụng lần nào, dù mức phạt chỉ 200-500 ngàn
đồng. Đây có thể xem như một “kẽ hở” đối với người đứng đầu, người phát ngôn cơ quan nhà
nước khi mà tình trạng chậm cung cấp thông tin, cung cấp thông tin sai, cung cấp thông tin
không đầy đủ vẫn diễn ra phức tạp.
Vì vậy chúng tôi đưa ra Khuyến nghị với vấn đề này như sau:
- Bổ sung vào Khoản 2 Điều 15 dự thảo Luật Báo chí: Người đứng đầu cơ quan nhà nước
chịu trách nhiệm dân sự, hành chính và hình sự đối với các hành vi: chậm cung cấp thông tin;
cung cấp thông tin sai; cung cấp thông tin không đầy đủ
C/ Vấn đề 3: Kiểm soát báo chí trong bối cảnh hội nhập quốc tế, bùng nổ thông tin
Không phải bây giờ mà từ những ngày Cách mạng còn là trứng nước, báo chí đã được xem là
một thứ vũ khí sắc bén. Có lẽ vì thế Việt Nam đã sớm có Luật Báo chí (từ 1989) để bảo đảm
cho thứ vũ khí này phát huy ưu điểm, giảm thiểu các tác động không mong muốn. Tư duy này
trước nay đều đúng, song tình thế hiện tại đã thay đổi: báo chí không còn là “độc tôn” cung
cấp thông tin nữa. Khảo sát mới nhất trên Diễn đàn Nhà báo trẻ (trên 11.000 thành viên) vào
cuối tháng 6/2015 vừa qua cho thấy ngay chính các nhà báo tỷ lệ người tiếp cận tin tức, sự
kiện từ mạng xã hội cao hơn tỷ lệ người tiếp cận tin tức từ các báo chính thống.
Trong khi đó dự thảo Luật Báo chí vẫn được soạn thảo theo cách thức truyền thông, quá thiên
về kiểm soát hơn là tạo điều kiện cho báo chí hoạt động, cạnh trạnh với mạng xã hội. Cụ thể
trong 61 điều khoản của dự luật thấy toát lên tinh thần “xin-cho, xét-duyệt” với hàng loạt thủ
tục và điều kiện hết sức chặt chẽ, như các thủ tục và điều kiện:
+ Xin phép xuất bản báo
+ Tiêu chuẩn người đứng đầu: Giám đốc, tổng biên tập
+ Tiêu chuẩn nhà báo/cấp thẻ nhà báo
+ Hồ sơ lập văn phòng đại diện
+ Tiêu chuẩn phóng viên thường trú
V.v…
Đáng nói là trong khi Luật Doanh nghiệp đã “cởi trói” hầu như toàn bộ các thủ tục và điều

kiện thì với các quy định siết chặt báo chí như trên – trong bối cảnh báo chí cũng phải tự thu –
chi cạnh tranh như doanh nghiệp, sẽ vô hình chung tác động mạnh mẽ đến tính năng động của
báo chí, có thể tạo hệ lụy, hệ quả không mong muốn là giảm tính chiến đấu của báo chí trên
trận tuyến thông tin.
Hơn nữa trong dự luật cũng sửa đổi, bổ sung và giữ một số điều/hành vi bị cấm/hạn chế
nhưng sự diễn giải khá chung chung, trừu tượng:
+ "Thông tin không phù hợp lợi ích..." (điểm d Khoản 1 Điều 11)
+ "Thực hiện không đúng quy định trong giấy phép được cấp" (điểm c Khoản 2 Điều 11)

9


Trong thực tế những khái niệm nói trên được hiểu và vận dụng rất khác nhau, đưa vào luật và
nhất là trong khung chế tài hoàn toàn có thể dẫn đến xử lý tùy tiện từ phía cán bộ nhà nước,
như một hội viên Hội Nhà báo Hòa Bình ví von giống “như chiếc thòng lọng lơ lửng trên
đầu”.
Đáng nói là các quy định mang tính kiểm soát báo chí như trên đặt ra trong bối cảnh mạng xã
hội phát triển mạnh mẽ với trên 30 triệu tài khoản facebook ở Việt Nam; giá tối thiểu một
chiếc smartphone (có thể ghi hình, kết nối internet và xuất bản tin tức trên mạng xã hội) đã
giảm từ 500 USD xuống còn 50 USD sẽ có tác động giảm kéo tốc độ và chất lượng đưa tin
của báo chí so với mạng xã hội.
Cạnh đó với việc soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin trao cho người dân nhiều quyền hạn vô
điều kiện trong tiếp cận các thông tin của nhà nước (dự luật này cũng được cho ý kiến tại kỳ
họp Quốc hội vào tháng 10/2015 – đồng thời với dự án Luật Báo chí).
Từ các phân tích trên, chúng tôi đưa ra Khuyến nghị với vấn đề này như sau:
- Giảm bớt nhiều điều kiện, thủ tục quản lý báo chí như bỏ các quy định về cấp thẻ nhà báo,
giao cho các cơ quan báo chí tự chủ, tự chịu trách nhiệm; bỏ các quy định với văn phòng đại
diện và phóng viên thường trú, giao cho các cơ quan báo chí tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Làm rõ các khái niệm chung chung/trừu tượng như đã dẫn ở trên; Nếu không làm rõ được
thì bãi bỏ, vì các mục tiêu quản lý vấn đề này đã được nêu tại Bộ luật Hình sự và Bộ luật Dân

sự.
D/ Vấn đề 4: Nghiệp vụ và đạo đức báo chí
Dự thảo Luật Báo chí đã làm rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội Nhà báo Việt
Nam tại Điều 10. Cụ thể, dự luật nói rõ ngoài việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà báo, Hội còn có trách nhiệm “bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ báo
chí cho hội viên; tham gia giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp nhà
báo; tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách thông tin báo chí; thực hiện các hoạt
động hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật”.
Thực tế thông qua các cuộc hội thảo, tập huấn tại Hòa Bình và một số kết quả nghiên cứu gần
đây cho thấy, một trong những lý do dẫn đến việc nhà báo bị cản trở tác nghiệp, nhà báo vi
phạm pháp luật chính từ nguyên nhân chủ quan từ phía nhà báo, cơ quan báo chí. Cụ thể, theo
kết quả nghiên cứu “Thuận lợi & khó khăn của báo chí đưa tin tham nhũng ở cấp tỉnh” (DFID
2012) thì kiến thức pháp luật, kiến thức chuyên môn hạn chế (như ở một số lĩnh vực đặc thù
như đất đai, tài chính tiền tệ, tư pháp…) là một trong những lý do khiến cho các bài báo
chuyển tải ý kiến công dân chậm/không được cơ quan Nhà nước phản hồi, thậm chí bị khiếu
nại. Thêm vào đó có một số ít trường hợp nhà báo lợi dụng vị trí nghề nghiệp hoặc nhiệm vụ
được giao để phục vụ mục tiêu cá nhân dẫn đến việc phải chịu trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm dân sự và thậm chí là trách nhiệm hình sự. Các biểu hiện cụ thể là đưa tin sai sự thật
gây hậu quả nghiêm trọng; lợi dụng việc xác minh thông tin tố giác để nhận tiền hoặc lợi ích
vật chất; đưa tin xâm phạm đời tư hoặc bí mật nhà nước, bí mật công tác v.v… phải xử lý
bằng các chế tài hành chính, hình sự.
Cạnh đó còn một lý do khác là dưới sức ép cạnh tranh thông tin giữa các báo ngày, báo mạng
điện tử và với mạng xã hội, kỹ năng kiểm chứng, tổng hợp, đánh giá, thẩm định thông tin lại

10


chưa kịp trau dồi khiến cho các sản phẩm báo chí kém chất lượng, non yếu nghiệp vụ vẫn
được xuất bản khiến cho nhiều bạn đọc phản ứng mạnh mẽ.
Từ hiện trạng này đặt ra yêu cầu lớn về đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cũng như trau dồi đạo đức

nghề nghiệp. Hàng năm vì lý do kinh phí hạn chế Hội Nhà báo Hòa Bình chỉ tổ chức được 04
khóa đào tạo nghiệp vụ (4 lớp tập huấn theo chuyên đề: phát thanh, truyền hình, báo in, báo
mạng); chỉ cử được số ít hội viên tham dự các khóa đào tạo do trung ương Hội mở. Về giám
sát việc thực hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp từ trước đến nay mới thực hiện được 05
trường hợp và hiện chưa có công cụ nào hiệu quả bởi bản thân nhiều kiến nghị của trung ương
Hội gửi đi cũng không/chậm được phản hồi.
Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất bổ sung vào Điều 10 dự thảo Luật Báo chí: “Hội Nhà báo
Việt Nam” như sau: “Hội Nhà báo Việt Nam tích cực phối hợp với các cơ quan, tổ chức có
một số lĩnh vực hoạt động tương đồng, phát huy thế mạnh của mỗi bên để hỗ trợ việc đào tạo,
bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ báo chí và tham gia giám sát việc
tuân theo pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp”.
III- Kết luận và đề nghị
Hiến pháp 2013 thay thế Hiến pháp 1991 đã bày tỏ cam kết mạnh mẽ về bảo vệ quyền con
người, quyền cơ bản của công dân, trong đó có các QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ, TỰ DO
NGÔN LUẬN và đây là trụ cột chính trong việc xây dựng dự án Luật Báo chí mới cũng như
là mục tiêu chủ đạo của dự án C4-031 khi tham vấn ý kiến hội viên.
Vì vậy mặc dù có một số hạn chế như đã nêu, song với các phân tích và khuyến nghị nêu tại
báo cáo Ban Quản lý dự án C4-031 Hội Nhà báo Hòa Bình mong muốn đóng góp thêm những
ý kiến có bằng chứng, có trách nhiệm gửi tới các cơ quan nhà nước có liên quan nhằm có
được một đạo luật mới về báo chí hoàn chỉnh, có chất lượng và tạo điều kiện cho báo chí phát
triển mạnh hơn.

11


Các tài liệu tham khảo:
-

Báo cáo về các hành vi cản trở báo chí tác nghiệp (RED Com 2011);
Thuận lợi và khó khăn của báo chí đưa tin tham nhũng ở cấp tỉnh (DFID 2012);

Mức độ phản hồi của cơ quan nhà nước đối với kiến nghị, phê bình của công dân quan
báo chí (MEC 2013):
Năng lực và nhu cầu truyền thông của CSO Việt Nam (MEC 2015);
Một số tình huống trên Diễn đàn Nhà báo trẻ (11.500 thành viên)

12


Phụ lục Các điều luật được góp ý
Điều 10 Hội Nhà báo Việt Nam
Hội Nhà báo Việt Nam đại diện, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà báo, hội viên
hội nhà báo; “bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ báo chí cho hội viên;
tham gia giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp nhà báo; tham gia
xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách thông tin báo chí; thực hiện các hoạt động hợp tác
quốc tế theo quy định của pháp luật.
Hội Nhà báo Việt Nam hoạt động theo quy định của luật này, các quy định của pháp luật về
hội và điều lệ hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Điều 12. Quyền tự do báo chí
1. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ.
2. Tổ chức, cá nhân không được hạn chế, cản trở cơ quan báo chí, nhà báo hoạt động đúng
pháp luật.
3. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm
phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều 34. Quyền và nghĩa vụ của nhà báo
1. Nhà báo có các quyền sau đây:
a) Hoạt động báo chí trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoạt động báo
chí ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ;
b) Khai thác và được cung cấp thông tin trong hoạt động báo chí theo quy định của pháp luật;
khi đến làm việc tại các cơ quan, tổ chức, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo.
c) Khước từ việc viết, biên soạn hoặc tham gia biên soạn tác phẩm báo chí trái với quy định

của pháp luật;
d) Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ báo chí; hưởng chế độ ưu
tiên trong hoạt động báo chí theo quy định của Chính phủ;
đ) Được pháp luật bảo hộ trong hoạt động nghề nghiệp. Không ai được đe doạ, uy hiếp tính
mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phá huỷ, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản
trở nhà báo hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật.
Điều 13. Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân
1. Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới.
2. Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm
khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung thông tin.

13


Điều 38. Họp báo
1. Tổ chức, công dân muốn họp báo phải thông báo bằng văn bản trước 24 giờ của ngày làm
việc tính đến thời điểm dự định họp báo cho cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa
phương nơi tổ chức họp báo.
2. Việc họp báo chỉ được tổ chức khi cơ quan quản lý nhà nước về báo chí chấp thuận; trường
hợp cơ quan quản lý nhà nước về báo chí không có văn bản trả lời trong thời gian quy định tại
khoản 1 Điều này, tổ chức, công dân được tiến hành họp báo.
Nội dung họp báo phải đúng với nội dung đã được cơ quan quản lý nhà nước về báo
chí chấp thuận.
Điều 15. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn
luận trên báo chí của công dân
1. Các cơ quan, tổ chức bảo đảm để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí được quy định tại Điều 12 và Điều 13 của Luật này.
2. Khi cơ quan, tổ chức nhận được ý kiến, kiến nghị, phê bình, khiếu nại của tổ chức, công
dân và tố cáo của công dân do cơ quan báo chí chuyển đến hoặc đã đăng, phát trên báo chí thì

trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hoặc từ ngày báo chí đăng, phát, người
đứng đầu cơ quan, tổ chức phải thông báo cho cơ quan báo chí biết kết quả hoặc biện pháp
giải quyết.
Nếu quá thời hạn nêu trên mà không nhận được thông báo của cơ quan, tổ chức thì cơ quan
báo chí có quyền chuyển ý kiến, kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của công dân đến cơ
quan cấp cao hơn có thẩm quyền giải quyết hoặc đưa vấn đề đó lên báo chí.
Điều 39. Trả lời trên báo chí
1. Người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí; cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu
có trách nhiệm trả lời trên báo chí.
2. Cơ quan, tổ chức, công dân có quyền yêu cầu cơ quan báo chí trả lời vấn đề mà cơ quan
báo chí đã thông tin; cơ quan báo chí có trách nhiệm trả lời trên báo chí.
Điều 43. Phản hồi thông tin
1. Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có căn cứ cho rằng cơ quan báo chí thông tin sai sự thật,
xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của mình có quyền nêu ý kiến
phản hồi bằng văn bản hoặc khởi kiện tại tòa án.
2. Cơ quan báo chí phải đăng ý kiến phản hồi của tổ chức, cá nhân. Thời điểm đăng, phát thực
hiện theo quy định về đăng cải chính tại khoản 5 Điều 42 Luật này.
Điều 26. Văn phòng đại diện, phóng viên thường trú của cơ quan báo chí
1. Điều kiện đặt văn phòng đại diện:
a) Có trụ sở để đặt văn phòng đại diện ổn định từ 03 năm trở lên;

14


b) Trưởng, phó trưởng văn phòng đại diện phải có thẻ nhà báo được cấp tại cơ quan báo chí
có văn phòng đại diện.
2. Tiêu chuẩn phóng viên thường trú
Phóng viên thường trú thuộc văn phòng đại diện hoặc hoạt động độc lập phải có thẻ nhà báo
được cấp tại cơ quan báo chí xin đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú;

không bị kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên trong thời hạn 01 năm tính đến khi đề nghị
đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú.
3. Cơ quan báo chí có nhu cầu đặt văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương gửi 01 bộ hồ sơ đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi
cơ quan báo chí đặt văn phòng đại diện. Hồ sơ đề nghị đặt văn phòng đại diện gồm:
a) Văn bản đề nghị cho phép đặt cơ quan đại diện có ý kiến chấp thuận của cơ quan chủ quản
báo chí;
b) Bản sao có chứng thực Giấy phép hoạt động báo chí;
c) Tài liệu chứng minh đáp ứng đủ điều kiện tại điểm a khoản 1 Điều này;
d) Danh sách nhân sự văn phòng đại diện;
đ) Sơ yếu lý lịch, bản sao Thẻ nhà báo có chứng thực của Trưởng, phó trưởng văn phòng đại
diện, phóng viên thường trú thuộc văn phòng đại diện;
e) Văn bản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của văn phòng đại diện.
4. Cơ quan báo chí chưa có văn phòng đại diện, có nhu cầu cử phóng viên thường trú hoạt
động độc lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi 01 bộ hồ sơ đến Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ quan báo chí cử phóng viên thường trú.
Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị cho phép cử phóng viên thường trú của cơ quan báo chí;
b) Bản sao có chứng thực Giấy phép hoạt động báo chí;
c) Sơ yếu lý lịch, bản sao Thẻ nhà báo có chứng thực của phóng viên thường trú;
5. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương phải có văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận việc đặt văn
phòng đại diện, cử phóng viên thường trú. Trường hợp không chấp thuận, phải nêu rõ lý do.
6. Khi có sự thay đổi về địa điểm, trưởng, phó trưởng văn phòng đại diện, phóng viên thường
trú; đình chỉ, chấm dứt hoạt động của văn phòng đại diện, phóng viên thường trú, cơ quan báo
chí phải thông báo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
nơi đặt văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú và Bộ Thông tin và Truyền thông trước
05 ngày, kể từ ngày có sự thay đổi.
7. Văn phòng đại diện, phóng viên thường trú chỉ được hoạt động tại địa phương khi được
chấp thuận bằng văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt

văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú.

15


8. Hoạt động của văn phòng đại diện, phóng viên thường trú phải đúng nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm do cơ quan báo chí giao và tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí, các
quy định pháp luật khác.
9. Văn phòng đại diện, phóng viên thường trú ngừng hoạt động ngay sau khi cơ quan báo chí
có văn phòng đại diện, phóng viên thường trú đã bị đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép hoạt
động báo chí hoặc thu hồi thẻ nhà báo đối với phóng viên thường trú độc lập theo quyết định
của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Văn phòng đại diện, phóng viên thường trú bị thu hồi văn bản chấp thuận khi vi phạm nghiêm
trọng các quy định của pháp luật.

16



×