Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

RÀ SOÁT KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VỀ DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA CÁC QUY ĐỊNH CHUYÊN NGÀNH VỚI CAM KẾT WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 81 trang )

Tầng 9, Tòa nhà Minexport, 28 Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam
Tel: 04 62702158 Fax: 04 62702138
Email: ; Website: www.mutrap.org.vn

BÁO CÁO
RÀ SOÁT KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VỀ DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT
NAM VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA CÁC QUY
ĐỊNH CHUYÊN NGÀNH VỚI CAM KẾT WTO
MÃ HOẠT ĐỘNG : SERV-4

Thực hiện:

Ông Andras Lakatos

Trưởng nhóm

Bà Eugenia Laurenza
Ông Trương Đình Tuyển

Chuyên gia trưởng

Ông Hoàng Thọ Xuân
Bà Hoàng Thị Tuyết Hoa
Ông Ngô Chung Khanh

12/2009

Báo cáo này được xây dựng với sự hỗ trợ tài chính của Liên minh châu Âu. Các quan điểm trong báo cáo là của
các tác giả, không phải là ý kiến chính thức của Liên minh châu Âu hay của Bộ Công Thương

1




MỤC LỤC
1. 
2. 

Lời giới thiệu ...................................................................................................................... 3 
Cơ cấu ngành phân phối toàn cầu ....................................................................................... 3 
2.1 
Thế nào là dịch vụ phân phối? .................................................................................... 3 
2.2 
Ý nghĩa kinh tế của ngành phân phối ......................................................................... 6 
2.3 
Cơ cấu ngành phân phối ............................................................................................. 7 
3.  Khuôn khổ pháp lý cho ngành phân phối ......................................................................... 10 
3.1 
Các xu hướng quản lý ngành phân phối ................................................................... 10 
3.2 
Quy định đối với các cơ sở bán lẻ quy mô lớn ......................................................... 16 
3.3 
Chi phí của quy định đối với ngành phân phối......................................................... 19 
3.4 
Các quốc gia nghiên cứu .......................................................................................... 20 
3.2.1  Trung Quốc ........................................................................................................... 20 
3.2.2  Hàn Quốc .............................................................................................................. 22 
3.2.3  Nhật Bản ............................................................................................................... 23 
3.2.4  Một số nước thành viên ASEAN .......................................................................... 25 
3.2.5  Pháp ...................................................................................................................... 32 
3.2.6  Bỉ .......................................................................................................................... 35 
3.2.7  Thông lệ của các thành viên WTO trong việc vận dụng Kiểm tra nhu cầu kinh tế

trong lĩnh vực phân phối ................................................................................................... 36 
4.  Khuôn khổ thể chế và pháp lý cho lĩnh vực phân phối ở Việt Nam................................. 43 
4.1 
Chính sách của Chính phủ đối với lĩnh vực phân phối............................................. 43 
4.2 
Khuôn khổ thể chế cho việc quản lý lĩnh vực phân phối ......................................... 49 
4.2.1  Các cơ quan quản lý trung ương và địa phương ................................................... 49 
4.2.2  Vận hành khuôn khổ quản lý trong lĩnh vực phân phối ....................................... 50 
4.3 
Quy định về gia nhập thị trường ............................................................................... 55 
4.4 
Quy định ảnh hưởng đến hoạt động của các nhà phân phối ..................................... 58 
5.  Đánh giá các quy định trong lĩnh vực phân phối ở Việt Nam .......................................... 58 
5.1 
Mở cửa thị trường ..................................................................................................... 59 
5.1.1  Sự phù hợp với WTO của các quy định ảnh hưởng đến tiếp cận thị trường ........ 60 
5.1.2  Tác động của cam kết WTO đối với các quy định trong lĩnh vực phân phối ....... 69 
5.1.3  Đánh giá các quy định về gia nhập thị trường so với các thông lệ tốt của quốc tế ..
.............................................................................................................................. 73 
5.2 
Đánh giá tác động của các quy định đối với hoạt động của ngành phân phối.......... 74 
5.3 
Các vấn đề thực tiễn trong việc phân phối sản phẩm ở Việt Nam do sự thiếu hiệu
quả, các yêu cầu hành chính, sự thiếu minh bạch trong thực thi pháp luật vv… ................. 76 
6.  Khuyến nghị chính sách ................................................................................................... 77 
Tài liệu tham khảo .................................................................................................................... 80 

2



1.

Lời giới thiệu

Thị trường phân phối mở cửa và cạnh tranh là điều kiện thiết yếu cho sự vận hành của nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chính phủ nhiều quốc gia kể cả phát triển và đang phát triển tiếp
tục hạn chế cạnh tranh trên thị trường phân phối và duy trì nhiều biện pháp hạn chế đối với
hoạt động thương mại dịch vụ phân phối, ví dụ như các quy định về giờ mở cửa hay rào cản
đối với việc gia nhập thị trường bằng các yêu cầu đăng ký (cửa hàng), ngưỡng (threshold) về
chỗ ngồi và/hoặc diện tích cửa hàng, làm giảm hiệu suất của ngành phân phối cũng như áp lực
cạnh tranh, dẫn đến tăng trưởng việc làm thấp và giá tiêu dùng tăng cao.
Ở Việt Nam, công tác quản lý bán lẻ còn thiếu các văn bản có tính pháp lý. Nhiều quy định
hiện hành đã phần nào trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với những yêu cầu quản lý của thời
kỳ hậu WTO. Trong khi đó, một số quy định được ban hành sau khi Việt Nam đã trở thành
thành viên của WTO chưa tạo được cơ sở rõ ràng cho việc thực thi cam kết bao gồm cả việc
kiểm tra nhu cầu kinh tế (Economic Need Test – ENT) khi mở điểm bán lẻ thứ 2. Một số nhà
quản lý cho rằng cần có các quy định về điều này khi cạnh tranh của nước ngoài ngày càng
gay gắt do phải mở cửa theo cam kết WTO/GATS (World Trade Organization/General
Agreement on Trade in Services) của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực sửa đổi
những quy định hiện hành và xây dựng các văn bản mới về dịch vụ phân phối để đảm bảo hệ
thống phù hợp hơn với WTO, đồng thời củng cố ngành phân phối, bảo vệ các nhà phân phối
nhỏ và siêu nhỏ.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ
phân phối nước ngoài. Bên cạnh những cam kết cụ thể về dịch vụ phân phối, Việt Nam còn có
các nghĩa vụ liên quan đến cấp phép và các nghĩa vụ chung theo GATS, kể cả liên quan đến
những quy định trong nước (“sau biên giới”) có ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ phân
phối của các nhà cung cấp nước ngoài.
Việt Nam đã thực hiện những bước cần thiết để đảm bảo các luật và quy định trong nước phù
hợp với WTO nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khoảng cách. Ngoài ra, ở nhiều lĩnh vực, Việt Nam
cần rà soát các quy định quản lý và thông lệ thực hiện nhằm chuẩn bị cho ngành phân phối

trong nước đối phó với cạnh tranh của nước ngoài khi các cam kết mở cửa có hiệu lực theo
từng giai đoạn. Hơn nữa, Việt Nam vẫn còn một số vấn đề trong việc thực thi luật và quy
định, dẫn đến quá trình tự do hóa chưa thực sự đầy đủ và thỏa mãn. Vì thế, Việt Nam phải
thực hiện những biện pháp mở cửa thị trường phù hợp với WTO và tăng cường chất lượng
quản lý trong ngành phân phối, nghĩa là phải thực hiện cải cách hệ thống các quy định để đảm
bảo loại bỏ những rào cản không cần thiết đối với cạnh tranh, đổi mới và tăng trưởng, đồng
thời đáp ứng được các mục tiêu chính sách công cần thiết.
2.

Cơ cấu ngành phân phối toàn cầu

2.1

Thế nào là dịch vụ phân phối?
3


Phân phối là mắt xích liên kết chủ yếu giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng cuối cùng, đóng
vai trò quan trọng trong việc hình thành giá cả.
Theo hệ thống phân loại sản phẩm của Liên hợp quốc (Central Product Classification – CPC),
ngành phân phối bao gồm bốn loại hình dịch vụ chính: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán
buôn, dịch vụ bán lẻ và dịch vụ nhượng quyền. Báo cáo này về ngành phân phối chỉ tập trung
vào dịch vụ bán buôn và bán lẻ. Dịch vụ bán buôn là việc bán hàng cho các nhà bán lẻ, cho
người tiêu dùng công nghiệp, thương mại, tổ chức và các đối tượng kinh doanh khác, thậm
chí cho cả các nhà bán buôn khác. Các nhà bán lẻ bán hàng hóa phục vụ tiêu dùng cá nhân
hoặc tiêu dùng của hộ gia đình.1
Việc định nghĩa và định lượng chính xác dịch vụ phân phối là rất khó. Ranh giới giữa sản
xuất, bán buôn và bán lẻ liên tục thay đổi, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế tại từng thời
điểm, các quyết định của cá nhân hay chiến lược của công ty. Các công ty liên tục hợp nhất
hoặc “phân tách” một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hợp đồng, dẫn đến tình trạng

“bán hợp nhất” rất phức tạp.
Vì thế, việc định nghĩa chính xác bán buôn và bán lẻ khó thực hiện được. Thực tế là ranh giới
giữa 2 ngành này ngày càng mờ nhạt.
Ở các quốc gia khác nhau, bán buôn có chức năng và tầm quan trọng khác nhau. Hoạt động
bán buôn luôn thay đổi và nhiều hình thức tổ chức bán buôn đồng thời cùng tồn tại trong một
giai đoạn phát triển nhất định. Theo khái niệm truyền thống, bán buôn thực hiện chức năng
“người trung gian”: nhà bán buôn mua sản phẩm từ các nhà sản xuất hay các nhà bán buôn
khác, sau đó bán lại cho nhà bán lẻ. Đến lượt mình, nhà bán lẻ bán sản phẩm cho các cá nhân
và hộ gia đình. Mặc dù vẫn phản ánh đúng bản chất hoạt động bán buôn ở một số ngành hoặc
một số quốc gia, khái niệm này không còn là định nghĩa thỏa đáng về “dịch vụ” bán buôn
trong nền kinh tế hiện đại. Mặc dù nhà bán buôn chủ yếu mua hàng từ nhà sản xuất và bán
hàng cho nhà bán lẻ, những người tiêu dùng công nghiệp hay các nhà bán buôn khác, họ còn
đảm nhận nhiều chức năng có giá trị gia tăng, bao gồm: bán hàng và xúc tiến, mua hàng và
phân loại, chia lô, lưu kho, vận tải, cung cấp tài chính, gánh rủi ro, cung cấp thông tin thị
trường và các dịch vụ quản lý. Vì vậy, dịch vụ bán buôn có thể định nghĩa phức tạp hơn là
chức năng cầu nối những khác biệt về địa điểm, thời gian, số lượng và giá cả trong chuỗi phân
phối.
Chức năng của ngành phân phối là cung cấp dịch vụ phân phối cùng với hàng hóa hoặc dịch
vụ.2 Để thực hiện việc mua hoặc tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, người tiêu dùng phải phát sinh
nhiều loại chi phí giao dịch hay phân phối. Những chi phí này liên quan đến nhiều dịch vụ
khác nhau được cung cấp bởi nhà phân phối. Betancourt (2004) đã xác định 5 nhóm chi phí
giao dịch hay phân phối mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Mỗi nhóm tương đương với một
1
2

Tổ chức Thương mại thế giới, 1998
Betancourt, 2004

4



loại dịch vụ bán lẻ cụ thể.
1. Chi phí liên quan đến môi trường của địa điểm. “Môi trường của địa điểm” xác định
mức chi phí tâm lý mà khách hàng phải gánh chịu do bản chất của môi trường bán lẻ.
Có lẽ đây là loại dịch vụ khó định nghĩa và định lượng nhất; tuy nhiên có thể hiểu bản
chất của loại dịch vụ này bằng ví dụ về sự khác biệt giữa dịch vụ cung cấp bởi một
cửa hàng giảm giá và một cửa hàng cao cấp. Sản phẩm bán tại cửa hàng cao cấp sẽ có
mức giá cao hơn bởi phải mất chi phí cho các nguồn lực cần thiết để tạo ra một môi
trường bán lẻ cao cấp, kể cả chi phí thuê địa điểm tại khu vực đắt đỏ hơn.3
2. Nhóm dịch vụ thứ hai được cung cấp bởi nhà phân phối là dịch vụ phân loại sản phẩm,
có thể chia thành: phân loại theo chiều rộng (các dòng sản phẩm – product line) hoặc
phân loại theo chiều sâu (các loại sản phẩm khác nhau trong cùng một dòng sản
phẩm).
3. Nhóm dịch vụ thứ ba là sự tiện lợi của địa điểm (accessibility). Đây là loại dịch vụ dễ
định nghĩa và định lượng nhất trong nhiều trường hợp. Ở cấp độ đơn giản nhất, đó là
khoảng cách đến cơ sở bán lẻ. Yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đi lại và thời
gian của khách hàng cho hoạt động tiêu dùng và thanh toán. Một hệ thống bán lẻ có
thể tăng cường sự tiện lợi cho khách hàng bằng cách thiết lập nhiều cơ sở bán lẻ trong
cùng khu vực thị trường, tuy nhiên bố trí này cũng làm chi phí cao hơn so với việc vận
hành một cơ sở bán lẻ duy nhất.
4. Nhóm dịch vụ thứ tư là sự bảo đảm về giao hàng, có thể chia ra thành hai loại: giao
hàng tại thời điểm mong muốn và theo hình thức mong muốn. Giao hàng tại thời điểm
mong muốn đạt được bằng cách tăng thời gian mở cửa hoặc cung cấp tín dụng. Giao
hàng theo hình thức mong muốn bao gồm việc thực hiện các chức năng: chia lô hàng,
chịu rủi ro thông qua bố trí chuyển giao quyền sở hữu hoặc cung cấp bảo hành.
5. Nhóm dịch vụ thứ năm được cung cấp bởi các cơ sở bán lẻ là thông tin về giá cả, sự
sẵn có và các đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ cung cấp, kể cả thông tin về chính
cơ sở bán lẻ. Việc cung cấp dịch vụ này ở mức cao thông qua (ví dụ như) quảng cáo
và bố trí đội ngũ nhân viên bán hàng sẽ dẫn đến gia tăng chi phí đối với hệ thống bán
lẻ nhưng mặt khác làm giảm chi phí về thông tin, điều chỉnh và lưu kho của khách

hàng.
Việc phân loại các chi phí nêu trên giúp ta dễ hiểu hơn bản chất của các loại dịch vụ, tuy
nhiên không đủ để định nghĩa một cách chính xác về mặt pháp lý từng loại dịch vụ thuộc năm
nhóm trên. Tuy nhiên, việc định nghĩa không thuộc phạm vi xem xét của báo cáo này. Các
định nghĩa có thể tìm thấy trong Danh mục phân loại các ngành dịch vụ4 của WTO được xây
3
4

Ibid
Tài liệu GATT MTN.GNS/W/120

5


dựng trong quá trình đàm phán Vòng Uruguay (chủ yếu dựa trên Hệ thống phân loại các sản
phẩm trung tâm tạm thời của Liên hợp quốc có hiệu lực tại thời điểm đó) hiện vẫn được các
Thành viên WTO viện dẫn đến. Tuy nhiên, nhiều thay đổi đáng kể đã diễn ra kể từ khi Danh
mục này được xây dựng, do đó, ta có thể viện dẫn đến phiên bản hiện hành của CPC để có
định nghĩa đầy đủ hơn về các loại hình dịch vụ do các nhà bán lẻ và bán buôn cung cấp.
2.2

Ý nghĩa kinh tế của ngành phân phối

Ngành phân phối đóng vai trò rất quan trọng ở hầu hết các nền kinh tế. Quy mô kinh tế của
ngành này trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng đều rất lớn, do đó cần đến những nguồn lực
khổng lồ. Trong nhóm G-7 (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh, Ý, Canada), phân phối đóng
góp vào GDP từ 8% - 15%, vào việc làm từ 11% - 19%. Trong giai đoạn 1950–1983, các hoạt
động bán buôn và bán lẻ đóng góp trung bình 13.5% vào GDP của một nhóm gồm 74 quốc
gia. Ở nhiều quốc gia, bán buôn và bán lẻ chỉ đứng thứ 2 sau hoạt động sản xuất nếu xét đến
đóng góp vào GDP. Tại Hoa Kỳ, mỗi năm bán lẻ chiếm từ 50% - 60% tổng đóng góp của toàn

bộ ngành phân phối vào GDP.5
Anderson và Betancourt (2002) giải thích mức độ đóng góp của phân phối vào GDP theo từng
quốc gia. Họ thấy rằng, xét nhiều quốc gia ở các giai đoạn phát triển khác nhau, đóng góp
bình quân cũng như sự phát triển của ngành phân phối ban đầu tăng nhưng sau đó giảm; và
nếu tỷ lệ nhập siêu trên GDP càng tăng, đóng góp của ngành phân phối càng lớn. Kết quả này
có thể quy về bản chất của hoạt động phân phối và cách thức thể hiện trên tài khoản thu nhập
quốc gia (national income account). Các đại lý kinh tế (economic agent) có một số phương
thức để đưa sản phẩm đến tay khách hàng nước ngoài. Ba phương thức quan trọng nhất là: tự
phát triển mạng lưới phân phối ở nước ngoài; tận dụng các nhà nhập khẩu ở nước ngoài với
vai trò nhà bán buôn; và tận dụng các nhà xuất khẩu tại nước mình với vai trò tương tự. Chỉ
khi họ sử dụng phương thức thứ 3, hoạt động của họ mới được tính cho ngành phân phối của
nước xuất khẩu. Khi xuất khẩu tăng, các hoạt động của ngành phân phối sẽ tăng tương ứng
với khối lượng xuất khẩu thông qua các nhà bán buôn đồng thời là nhà xuất khẩu. Ngược lại,
nếu nhập khẩu tăng, phân phối tại nước nhập khẩu sẽ tăng thông qua phương thức thứ 1 hoặc
thứ 2 hoặc những kênh phân phối khác, ví dụ như các nhà sản xuất nước ngoài bán hàng trực
tiếp cho các nhà bán lẻ ở nước nhập khẩu cũng dẫn đến tăng trưởng phân phối ở nước nhập
khẩu.
Các dữ liệu so sánh về giá trị gia tăng và việc làm của phân phối bán lẻ ở cấp độ quốc tế hiện
chưa có. Dữ liệu khả quan nhất có được bằng cách gộp các số liệu về đóng góp của bán buôn
và bán lẻ (kể cả của lĩnh vực nhà hàng khách sạn) cho GDP ở từng quốc gia là từ 9 - 21% và
cho việc làm là 15 - 28%. Phân phối là ngành có mức độ cạnh tranh cao nhất với số lượng
doanh nghiệp lớn và tỷ lệ gia nhập/thoái lui ở mức cao. Trong năm 1990, tỷ lệ doanh nghiệp
trong ngành phân phối trên tổng số doanh nghiệp đạt xấp xỉ 20% tại Hoa Kỳ và Đan Mạch,
5

Betancourt, 2004

6



40% tại Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, ý nghĩa kinh tế của khu vực bán lẻ lớn hơn nhiều so với đóng góp đơn thuần vào
GDP. Quả thực, vì một số lý do, nhiều hoạt động bán lẻ được gom vào các ngành khác chứ
không phải ngành bán lẻ trong tài khoản thu nhập quốc gia. Điều này đặc biệt đúng với bán lẻ
dịch vụ, ví dụ như với các cơ sở ăn uống, ta khó phân biệt rạch ròi được hoạt động sản xuất và
hoạt động phân phối, khiến các dịch vụ bán lẻ mà các cơ sở này cung cấp bị che khuất.
2.3

Cơ cấu ngành phân phối

Mỗi quốc gia có cơ cấu phân phối bán lẻ khác nhau rõ rệt. Cơ cấu này được quyết định bởi
nhiều yếu tố như trình độ phát triển, địa lý kinh tế, truyền thống văn hóa, quá trình đô thị hóa,
cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, v.v…
Nhân tố chính quyết định cơ cấu ngành phân phối là trình độ phát triển của quốc gia. Hình
ảnh ngành phân phối ở nhiều nước đang phát triển ngày nay tương tự với ở các nước phương
Tây ở đầu thế kỷ 20: kênh marketing chủ đạo là một cửa hàng bách hóa tổng hợp ở các thị
trấn nhỏ, còn ở những thành phố lớn là những cửa hàng nhỏ có địa điểm thuận lợi chuyên
cung cấp một số hữu hạn chủng loại mặt hàng, ngoài ra có thể có thêm những cửa hàng tổng
hợp bán hàng hóa đa dạng hơn. Tuy nhiên, mô hình phát triển của các quốc gia không đồng
nhất, phụ thuộc vào đặc trưng quốc gia như mật độ dân số, mức độ đô thị hóa, hay thị hiếu
của công chúng (chẳng hạn như ưa chuộng các cửa hàng gần nơi sinh hoạt). Bản chất của
chính sách công (như các quy định về quy hoạch phân khu hay những hạn chế đối với các cửa
hàng lớn) cũng phản ánh sự phát triển của ngành phân phối.6 Sự biến đổi mô hình phát triển
truyền thống của ngành phân phối ở các nước đang phát triển có nguyên nhân là quá trình
toàn cầu hóa (đặc biệt là sự thâm nhập của chuỗi cung ứng toàn cầu vận hành bởi các nhà
phân phối hoặc sản xuất xuyên quốc gia và trào lưu “siêu thị hóa”). Điều này nghĩa là ngành
phân phối hiện đại ở các nước đang phát triển hiện nay đang ở giai đoạn phát triển thấp hơn
so với ở các nước phát triển. Bên cạnh đó, sự lan tỏa của phân phối hiện đại ở các nước đang
phát triển ngày nay cũng nhanh hơn rõ rệt so với ở các nước phát triển phương Tây vào thế kỷ
trước, ví dụ như bán lẻ phải mất khoảng 70 – 80 năm mới có thể trở thành một bộ phận hoàn

chỉnh của ngành phân phối Hoa Kỳ, trong khi đó, tại Braxin, sự phát triển tương tự diễn ra chỉ
trong 20 năm.
Ngành bán lẻ là một lĩnh vực đa dạng với cơ cấu khác nhau đáng kể tại mỗi quốc gia và có
nhiều hình thức bán lẻ để thích ứng với điều kiện thị trường của từng địa phương. Rõ ràng
nhất là sự khác biệt giữa các cơ sở bán lẻ nội thị với các khu mua sắm nằm ngoài thành phố.
Phương thức bán lẻ cũng khác nhau tùy thuộc vào mặt hàng bán. Mặc dù có sự khác biệt về
trình độ phát triển, cơ cấu và chính sách ở mỗi quốc gia, ta có thể khái quát về ngành phân
phối như sau: Thứ nhất, ở hầu hết các quốc gia, phần lớn các doanh nghiệp bán lẻ chỉ có một
6

Phần này được trích trong tài liệu của Tổ chức Thương mại thế giới 1998

7


cửa hàng và là doanh nghiệp cá thể. Tuy nhiên, các cửa hàng độc lập như vậy không mạnh về
doanh thu mà mạnh về công ăn việc làm, đặc biệt ở các quốc gia có hệ thống bán lẻ phát triển.
Thứ hai, phần lớn ngành bán lẻ tham gia kinh doanh thực phẩm, cả về phương diện số lượng
doanh nghiệp lẫn doanh thu. Một số nhóm mặt hàng bán lẻ quan trọng khác là dệt may, may
mặc và giầy dép, thiết bị gia dụng và phương tiện động cơ. Cuối cùng, ngành này thường đặc
trưng với mức lương tương đối thấp và sử dụng nhiều lao động kỹ năng thấp. Tuy nhiên, sự
thay đổi về thị hiếu của người tiêu dùng và công nghệ được phản ánh qua mức độ phức tạp
của sản phẩm cũng tạo ra sự chuyển biến hướng tới dịch vụ chất lượng cao và vì vậy thúc đẩy
nhu cầu về lao động có kỹ năng cao.
Ngành bán lẻ có tính năng động cao và thay đổi nhanh chóng, xuất hiện sự phân hóa về xu
hướng: tập trung vào một số phân đoạn thị trường (ở cấp độ quốc gia và quốc tế) hay phát
triển các hình thức cạnh tranh mới liên quan đến thương mại điện tử. Gần đây, bốn xu hướng
quan trọng đã định hình trong ngành bán lẻ:
i)


Sự gia tăng tập trung của các nhóm. Xu hướng tập trung nổi trội nhất trong phân
ngành thực phẩm trong số các phân ngành khác;

ii)

Sự hình thành các nhóm thu mua chung;

iii)

Sự hợp nhất theo chiều dọc của bán buôn và bán lẻ, trong đó thị phần của các nhà
bán lẻ có thương hiệu ngày càng tăng;

iv)

Sự gia tăng quốc tế hóa trong ngành bán lẻ cho phép đạt được tính kinh tế theo quy
mô và phạm vi.

Quốc tế hóa ngành bán lẻ vẫn là một xu hướng tương đối mới và phần lớn các nhà bán lẻ vẫn
chỉ hoạt động trong nước. Phần lớn các nhà bán lẻ đều giới hạn hoạt động ra nước ngoài của
mình trong phạm vi khu vực các nước láng giềng. Trong số các nhà bán lẻ có đầu tư xuyên
lục địa, các nhà bán lẻ châu Âu nổi bật nhất với Carrefour (Pháp) dẫn đầu, thiết lập chi nhánh
ở 31 quốc gia trong năm 2005. Các nhà bán lẻ mở chi nhánh tại các nước đang phát triển có
xu hướng áp dụng 1 công thức chung: Trong giai đoạn đầu sau khi mở chi nhánh ở một quốc
gia, nhà bán lẻ chủ yếu bán các sản phẩm của các nhà cung cấp đã có quan hệ, tỷ lệ nhập khẩu
tương đối cao. Tuy nhiên, khi nhà bán lẻ đã kết nối được với các nhà cung cấp địa phương thì
tỷ lệ nội địa của sản phẩm cung cấp sẽ tăng lên nhanh chóng. Trong giai đoạn 3, tỷ lệ nhập
khẩu lại tăng do sự phát triển của chuỗi cung ứng trong khu vực (Nordås, Geloso Grosso and
Pinali (2007).
Nhiều nghiên cứu cho thấy các nhà bán lẻ quốc tế tìm kiếm nguồn hàng chủ yếu từ quốc gia
nơi họ đặt chi nhánh. Bằng cách trở thành một bộ phận trong chuỗi cung ứng của nhà bán lẻ

quốc tế, dần dần các nhà cung cấp địa phương sẽ phục vụ thị trường trong nước của chính nhà
bán lẻ. Nordås, Geloso Grosso và Pinali (2007) dẫn chứng trường hợp của tập đoàn Wal-Mart
8


hiện đang nhập khẩu xà phòng và chất tẩy rửa từ chi nhánh ở Mexico để bán ở Hoa Kỳ. Một
ví dụ khác là việc tập đoàn Tesco’s đầu tư vào Thái Lan và sau đó lại xuất khẩu hàng từ Thái
Lan vào Anh. Nghiên cứu cũng cho thấy các nhà bán lẻ còn phát triển các hệ thống mua hàng
trong khu vực và đưa các nước nghèo tham gia vào chuỗi cung ứng của họ. Một ví dụ điển
hình là các nhà bán lẻ của Pháp đã mua rau quả từ Madagascar, tạo điều kiện cho nông dân
địa phương chuyển sang sản xuất với trình độ công nghệ cao hơn và hiệu quả hơn, từ đó, đảm
bảo cho họ thu nhập cao và ổn định hơn. Từ các ví dụ nói trên, Nordås, Geloso Grosso và
Pinali (2007) kết luận hoạt động ở nước ngoài của các nhà bán lẻ tạo điều kiện cho hàng nhập
khẩu từ nước sở tại vào thị trường trong nước của nhà bán lẻ và đồng thời thúc đẩy thương
mại giữa các nước mà nhà bán lẻ đặt chi nhánh.
Trong vài thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin (IT), quá trình đô thị hóa và sự gia tăng sở
hữu ô tô đã làm thay đổi đáng kể ngành bán lẻ. Bán lẻ đã trở thành một bộ phận không thể
tách rời của chuỗi cung ứng, có sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các khâu từ sản xuất, vận
chuyển đến phân phối và tài chính nhờ công nghệ thông tin. Đối với một số loại hàng tiêu
dùng, bao gồm thực phẩm và may mặc, nhà bán lẻ trở thành lực lượng đi đầu trong chuỗi
cung ứng, cho thấy sự chuyển biến trong thương mại từ cơ chế cung/đẩy sang cơ chế cầu/kéo.
Đơn đặt hàng được tạo ra bắt đầu từ việc theo dõi theo thời gian thực (real-time) hành vi của
người tiêu dùng thông qua các dữ liệu thu thập được từ các cơ sở bán lẻ của nhà bán lẻ. Các
đơn hàng này được ghi vào hệ thống barcode đọc bằng laser, được lưu trữ và chuyển tới nhà
cung cấp thông qua các hệ thống máy tính. Hàng hóa đều đặn chạy theo hướng ngược lại để
lấp đầy các giá hàng. Thông thường, hàng hóa được kiểm tra trên đường đi bằng thẻ điện tử.
Phương pháp này được gọi là “bán lẻ linh hoạt – lean retailing” – xuất phát từ hiệu quả làm
giảm đáng kể lượng hàng tồn kho và thời gian cung cấp. Các nhà bán lẻ linh hoạt ngày càng
tìm kiếm, thu mua hàng hóa trực tiếp từ các nhà cung cấp bất kể trong nước hay nước ngoài.
Do đó, các nhà bán lẻ đã dần bỏ qua các nhà bán buôn và phát triển các phòng ban thu mua,

các nhóm người mua (buyer group) và mạng lưới doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B)
thông qua internet (Nordås, Geloso Grosso and Pinali (2007).
Đây là một xu hướng chung trong đó các nhà bán buôn truyền thống mất đi vai trò trong
mạng lưới phân phối, trong khi chuỗi cung ứng trở thành lực lượng chính trong phân phối.
Tuy nhiên, ta không thể khái quát hóa xu hướng giảm của bán buôn các mặt hàng tiêu dùng
cho tất cả các loại hàng hóa. Ví dụ, bán buôn nguyên vật liệu, hàng rời (bulk goods) và hàng
chuyên dụng không chịu tác động của xu hướng này. Ngoài ra, mặc dù trong một số lĩnh vực,
bán buôn có xu hướng giảm cả về số lượng cơ sở kinh doanh và tầm quan trọng, dịch vụ bán
buôn do các bên khác thực hiện, xét về mặt chức năng trong chuỗi phân phối, vẫn tiếp tục gia
tăng.
Vì các nhà sản xuất ở châu Âu và Bắc Mỹ tập trung cho thị trường lục địa của mình bằng cách
sắp đặt lại các xí nghiệp và tập trung hóa phân phối trong khi các nhà bán lẻ cũng đang quốc
tế hóa hoạt động, các công ty của cả hai khu vực sản xuất và bán lẻ đều cần đến các dịch vụ
9


hậu cần hợp nhất (integrated logistic services). Trong khi ở khu vực Bắc Mỹ những năm gần
đây đã có nhiều vụ mua lại và sáp nhập các công ty bên thứ ba cung cấp dịch vụ hậu cần, ở
châu Âu vẫn chưa có nhà cung cấp dịch vụ xuyên châu Âu nào thực sự hiện diện.
Ở phạm vi quốc tế, các mạng lưới sản xuất / phân phối bao gồm các chuỗi sản xuất theo chiều
dọc mở rộng khắp các quốc gia trong khu vực và toàn cầu.7 Các bên tham gia chủ chốt là các
doanh nghiệp thuộc các ngành công nghệ máy móc, bao gồm sản xuất máy cái, máy móc
điện, thiết bị vận tải và máy móc chính xác, mặc dù một số công ty trong các ngành khác như
dệt may và may mặc cũng đã phát triển mạng lưới của mình. Các mạng lưới sản xuất tương tự
giữa Hoa Kỳ và Mexico, Đức và Hungary/Cộng hòa Séc đã hình thành. Các mạng lưới ở khu
vực Đông Á nổi bật nhất (ít nhất là ở thời điểm này) nhờ các đặc điểm sau: Trước hết, các
mạng lưới này đã trở thành một bộ phận quan trọng trong từng nền kinh tế trong khu vực. Các
hoạt động sản xuất và thương mại quốc tế của mỗi quốc gia không thể thiếu các mạng lưới
này. Thứ hai, các mạng lưới này có sự tham gia của nhiều quốc gia với mức thu nhập khác
nhau. Những khác biệt về giá và các lợi thế địa điểm được tận dụng hiệu quả để hình thành

các mạng lưới sản xuất theo chiều dọc. Thứ ba, các mạng lưới này bao gồm các mối quan hệ
trong và ngoài công ty. Giữa các công ty đa quốc gia (MNEs) và các công ty trong nước ở
mỗi quốc gia hình thành các mối quan hệ liên kết phức tạp.
3.

Khuôn khổ pháp lý cho ngành phân phối

3.1

Các xu hướng quản lý ngành phân phối

Mỗi quốc gia có khuôn khổ pháp lý khác nhau đối với ngành phân phối. Theo truyền thống,
ngành phân phối là ngành có tính cạnh tranh cao, ít rào cản thương mại, tỉ lệ gia nhập/thoái lui
cao, có nhiều đối thủ cạnh tranh cỡ tương đối nhỏ.8 Bức tranh truyền thống này đặc trưng cho
các quốc gia phát triển hàng trăm năm trước, giải thích việc không có các quy định hạn chế
gia nhập. Nhìn chung, các quy định ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường và các cơ sở bán
lẻ chủ yếu bắt nguồn từ các quy ước truyền thống (như chợ phiên tổ chức vào một ngày trong
tuần), cùng với các yếu tố kinh tế là các yếu tố văn hoá, thói quen và thị hiếu của người tiêu
dùng.
Một đặc trưng phổ biến (với rất ít trường hợp ngoại lệ) trong nền kinh tế thị trường là chính
phủ không quản lý thông qua sở hữu trực tiếp: chính phủ không sở hữu hoặc điều hành các
doanh nghiệp bán buôn hoặc bán lẻ. Các doanh nghiệp chủ yếu là của tư nhân. Các trường
hợp ngoại lệ xuất hiện ở một số quốc gia với một số mặt hàng tiêu dùng nhất định (như thuốc
lá, đồ uống có cồn): chính phủ tham gia trực tiếp chủ yếu vì các lý do liên quan đến chính
sách y tế, sức khỏe, môi trường và các giá trị cộng đồng…
Như đề cập ở trên, ngành phân phối có tính cạnh tranh cao, ít chịu sự điều tiết quản lý của nhà
7
8

Tham khảo Ando và Kimura (2005)

Boylaud và Nicoletti (2001)

10


nước hơn so với các dịch vụ hạ tầng, mạng lưới hay dịch vụ chuyên môn (bác sĩ, luật sư,
v.v…). Tuy nhiên, ngành phân phối là đối tượng của nhiều quy định có tác động hạn chế kinh
doanh và hạn chế thương mại ở các cấp độ khác nhau. Đồng thời, trong khi một số quy định
áp dụng cho cả nhà phân phối trong nước và nước ngoài, một số khác chỉ áp dụng cho các nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Ngành bán lẻ có xu hướng chịu ảnh hưởng của các quy định có tác động hạn chế gia nhập và
hạn chế thương mại nhiều hơn so với ngành bán buôn (bán buôn thường không phải là ngành
bị quản lý chặt). Tuy nhiên, do sự khác biệt giữa bán buôn với bán lẻ ngày càng mờ nhạt (vì
các bên tham gia ngày càng hợp nhất), các quy định tác động đến bán lẻ cũng ảnh hưởng đến
bán buôn.
Ngành bán buôn ở các nước quản lý chặt chẽ sẽ bị quản lý bằng các biện pháp hạn chế thương
mại. Hầu hết các biện pháp mà các Thành viên WTO áp dụng hạn chế việc cung cấp dịch vụ
của chi nhánh hoặc doanh nghiệp nước ngoài. Cơ chế đầu tư nước ngoài của hầu hết các
Thành viên WTO đều có các biện pháp có tính áp dụng chung nhằm hạn chế việc tiếp cận thị
trường dịch vụ bán buôn. Các biện pháp áp dụng có thể bao gồm cả việc cấm doanh nghiệp
bán buôn nước ngoài thiết lập hiện diện thương mại nhằm bảo hộ các đơn vị bán buôn trong
nước. Mặc dù việc cấm có thể áp dụng ở cả các nước đang phát triển cũng như phát triển, biện
pháp này thường có phạm vi cụ thể và chỉ áp dụng đối với một số sản phẩm nhất định. Đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào dịch vụ bán buôn thường bị hạn chế bởi yêu cầu phải có phê
duyệt của cơ quan có thẩm quyền đối với việc lập cơ sở mới hay mua lại doanh nghiệp trong
nước đang hoạt động, hay hạn chế cổ phần / vốn góp của nước ngoài. Chính phủ cũng có thể
áp dụng các biện pháp như hạn chế việc mở rộng hoạt động của doanh nghiệp có vốn nước
ngoài sau khi đã thành lập. Thông thường, các biện pháp này được thực hiện theo phán xét
chủ quan (discretion) của cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý nhà nước có thể sử
dụng các biện pháp thiếu minh bạch như: kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) hoặc đánh giá “lợi

ích quốc gia” để quyết định phê duyệt hay không đối với dự án đầu tư. Các hạn chế khác liên
quan đến hiện diện thương mại: doanh nghiệp nước ngoài phải chọn một trong những hình
thức pháp lý nhất định hoặc phải liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ trong nước hoặc thoái
đầu tư. Mặc dù việc cấm lập chi nhánh nhìn chung gắn với việc bảo vệ người tiêu dùng, trong
ngành bán buôn, lý do thường là yêu cầu hiện diện thương mại đầy đủ. Những hạn chế trực
tiếp ảnh hưởng đến việc thành lập hoặc hoạt động của một cơ sở nước ngoài (đã có hiện diện
thương mại) cộng với các hạn chế về yếu tố đầu vào như đất đai hoặc lao động sẽ khiến vấn
đề càng trở nên trầm trọng.
Trong lĩnh vực bán lẻ, các quy định có thể phân thành 5 nhóm lớn theo mục đích chính sách:
(1) hạn chế về địa điểm (quy định về quy hoạch phân vùng và sử dụng đất để giảm thiểu các
ảnh hưởng về không gian); (2) kiểm soát giá cả (để bảo vệ người tiêu dùng); (3) cơ cấu doanh
nghiệp (bằng luật cạnh tranh để ngăn chặn độc quyền); (4) bảo đảm sự ổn định của thị trường
(kiểm soát sự gia nhập của các công ty mới để tránh dư thừa công suất); và (5) bảo vệ người
11


tiêu dùng (quy định cấp phép / kiểm tra để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng).
Một nhóm quy định thứ 6 có thể đưa vào danh mục trên vì chúng ngày càng được sử dụng
phổ biến ở các nước phát triển – tiêu chuẩn của bản thân nhà phân phối. Báo cáo này sẽ không
phân tích chi tiết tiêu chuẩn do các nhà phân phối tự đặt ra do ngoài phạm vi nghiên cứu, tuy
nhiên, ta cần lưu ý đến tầm quan trọng của các tiêu chuẩn này, đặc biệt là tiêu chuẩn của các
nhà bán lẻ thực phẩm. Các tiêu chuẩn này có thể cao hơn quy định chính thức, có tác động
hạn chế nghiêm trọng đến các nhà sản xuất. Động cơ của việc xây dựng các tiêu chuẩn tư
nhân có thể là cam kết về chất lượng, chiến lược đặc định hóa sản phẩm hay sự sợ hãi về các
vụ kiện có thể xảy ra. Ở các nước đang phát triển, đôi khi các tiêu chuẩn tư nhân còn được sử
dụng để thay thế trong trường hợp không có các tiêu chuẩn chính thức hoặc có các tiêu chuẩn
chính thức nhưng hiệu lực kém.
Nhiều quy định về bán lẻ của các nước phát triển và đang phát triển ngày nay hình thành từ
những lo ngại của công chúng về sự cạnh tranh giữa bán lẻ hiện đại9 và bán lẻ truyền thống,
cũng như mâu thuẫn giữa các siêu thị và các nhà cung cấp, khi mô hình bán lẻ hiện đại ngày

càng phổ biến và có thể gây tổn thất cho các nhà bán lẻ truyền thống.
Các nước thường áp dụng hai loại quy định sau đây đối với dịch vụ phân phối10:


Các quy định về điều kiện của nhà phân phối và số lượng nhà phân phối có thể tham
gia thị trường (gia nhập thị trường hay tiếp cận thị trường); và



Các quy định về điều kiện hoạt động của nhà phân phối khi đã hiện diện trên thị
trường (các quy định về hoạt động).

Về tiếp cận thị trường, các hạn chế chủ yếu liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp, bao
gồm các thủ tục gia nhập (đăng ký kinh doanh), các quy định về thành lập, mở rộng doanh
nghiệp và địa điểm của cơ sở thương mại, quy định về hoạt động và sản phẩm, sự tồn tại của
các doanh nghiệp độc quyền trong nước về một số mặt hàng và các rào cản pháp lý đối với
việc lập cơ sở quy mô lớn.
Các quy định có tác động hạn chế hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ chủ yếu là quy định về
thời gian mở cửa và giá cả. Các quy định về thời gian mở cửa được đặt ra vì các lý do tôn
giáo hay bảo vệ quyền lợi của người lao động. Ở một số quốc gia như Pháp, giờ mở cửa được
quy định gián tiếp thông qua bộ luật lao động. Những khác biệt về văn hóa và lịch sử là
nguyên nhân chính dẫn đến những khác biệt lớn giữa các quốc gia ngày nay. Quy định về thời
gian mở cửa có xu hướng bị bãi bỏ để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nhìn chung, sự
linh hoạt làm tăng phúc lợi của người tiêu dùng, thúc đẩy việc làm và càng nâng cao vị thế
của các doanh nghiệp lớn so với các cửa hàng nhỏ lẻ, tuy nhiên, tác động đối với doanh thu
9

Các hình thức bán lẻ hiện đại bao gồm các cửa hàng bán lẻ như siêu thị, đại siêu thị, các khu trung tâm mua
sắm và các cửa hàng bán lẻ.
10


Báo cáo của Boylaud và Nicoletti (2001)

12


không đạt hiệu quả như mong đợi. Việc kiểm soát giá tồn tại ở hầu hết các quốc gia OECD
nhưng chỉ áp dụng với một số mặt hàng. Các hạn chế giá chủ yếu áp dụng đối với dược phẩm,
thuốc lá và xăng dầu. Trái lại, các quy định về hoạt động xúc tiến tương đối phổ biến vì lý do
bảo vệ người tiêu dùng và đối phó với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, song song với
việc xây dựng các quy định về an toàn, vệ sinh sản phẩm, nhãn mác và tiêu chuẩn chất lượng.
Các quốc gia hiện vẫn chưa nhất trí được với nhau về sự cần thiết phải quản lý các hoạt động
xúc tiến cũng như cách thức quản lý chúng. Một số quốc gia không có quy định cụ thể (Áo,
Canada, Cộng hòa Séc, Hungary, Thụy Sĩ, Anh), trong khi một số quốc gia khác có quy định
về mọi lĩnh vực (Đức, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan) và một số khác chỉ xây dựng quy định đối
với một số khía cạnh nhất định. Bán hạ giá để thu hút khách hàng bị cấm hoặc hạn chế ở ½ số
các quốc gia được nghiên cứu (một số quốc gia châu Âu và Mexico)
Một số chính phủ áp dụng các ngoại trừ về sản phẩm, tức là hạn chế quyền kinh doanh một số
loại hàng hóa nhất định như dược phẩm, các sản phẩm y tế và chỉnh hình; hàng nông sản và
động vật sống; thực phẩm, đồ uống và thuốc lá; kim loại quý. Quyền kinh doanh các mặt hàng
này dành riêng cho các doanh nghiệp nhà nước (có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc không)
hay cho các nhà phân phối trong nước. Trong những trường hợp đó, các quy định quốc tế
(Điều XVII GATT và Điều VIII GATS hay các điều khoản trong các hiệp định mậu dịch tự
do) sẽ hạn chế quyền lực của nhà nước đối với thương mại và đảm bảo cơ hội tiếp cận thị
trường cho các nhà sản xuất nước ngoài. Ngoài ra, các chính phủ có thể áp dụng các biện
pháp hạn chế tiếp cận thị trường khác như yêu cầu về quốc tịch và cư trú; đăng ký và cấp
phép cho những người không cư trú; kiểm tra nhu cầu kinh tế, v.v… Cuối cùng, một số hạn
chế nền (horizontal) cũng có tác động nhất định đối với ngành phân phối, chẳng hạn như các
yêu cầu về phê duyệt; hạn chế về mua hàng, thuê bất động sản; hạn chế phần vốn nắm giữ;
các biện pháp thuế và trợ cấp, v.v... Nhìn chung, các ngoại trừ về sản phẩm có tác dụng hạn

chế hoạt động của doanh nghiệp, trong một số trường hợp thậm chí còn ngăn chặn gia nhập
thị trường của các đối thủ tiềm năng.
Bảng 1 tóm tắt các loại quy định chính được áp dụng trên thế giới. Danh sách này không đầy
đủ và chỉ nên coi là ví dụ.

Bảng 1
Mục tiêu và các loại quy định chính đối với ngành bán lẻ
Các quy định hạn chế gia nhập thị

Các quy định hạn chế hoạt động

trường và lập cơ sở
Quy định hạn chế quyền sử dụng đất:



Không cho phép mua/thuê đất, hoặc
Cho phép mua/thuê đất nhưng chỉ
trong diện tích nhất định; hoặc

Quy định đòi hỏi nhà bán buôn phải có giấy
phép nhập khẩu, chẳng hạn:
• Hạn chế số lượng giấy phép nhập khẩu
cấp cho nhà bán buôn.
13




Không hạn chế mua/thuê đất


Quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài:
• Hạn chế đầu tư trực tiếp nước


ngoài;
Yêu cầu nhà phân phối nước ngoài
phải có giấy phép đặc biệt.

Quy định ảnh hưởng đến đầu tư:
• Các yêu cầu thực hiện



(performance);
Thẩm định của chính phủ đối với
đầu tư;
Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENTs).

Quy định ảnh hưởng đến di chuyển của thể

Quy định hạn chế xúc tiến hàng hóa, chẳng hạn
như quy định rằng các doanh nghiệp phân phối
không được phép hoặc bị hạn chế quảng cáo
hay xúc tiến các dịch vụ bán lẻ của mình.

Yêu cầu giấy phép đối với ban lãnh đạo, các
cán bộ chủ chốt và/hoặc các giám đốc hoặc nhà
quản lý.


Quy định về:




nhân: việc nhập cảnh của các giám đốc điều
hành, quản lý cấp cao hoặc nhân viên nước
ngoài.
Ví dụ: yêu cầu về quốc tịch hoặc cư trú đối

Quy hoạch phân khu;
Bảo vệ môi trường;
Hạn chế giờ mở cửa.

với các cán bộ chủ chốt, áp dụng đối với tất
cả hoặc một số giám đốc, nhà quản lý của
công ty phân phối.
Quy định buộc cơ sở phải đáp ứng yêu cầu
nội địa như:
• Sử dụng lao động địa phương.

Hiện diện của doanh nghiệp độc quyền nhà
nước (không cho phép các nhà phân phối trong
nước hay nước ngoài được phân phối một số
loại hàng hóa nhất định).

Luật và chính sách cạnh tranh
Bảo vệ người tiêu dùng
Nguồn: của các chuyên gia, dựa trên báo cáo của Boylaud và Nicoletti (2001): “Cải cách quy
định trong phân phối bán lẻ”, Nghiên cứu kinh tế của OECD số 32, 2001/I và Kalirajan, K.:

“Hạn chế đối với thương mại dịch vụ phân phối”, Báo cáo của Ban nghiên cứu về năng suất,
AusInfo, Canberra, tháng 8/2000.

14


Mexico
Úc
Hoa Kỳ
Thổ Nhĩ Kỳ
Thành lập: trong nước
Hoạt động: trong nước
Thành lập: nước ngoài
Hoạt động: nước ngoài

Luxembourg

Biểu 1
Các chỉ số về quản lý trong ngành bán lẻ

Áo
Canada
Ailen
Anh
Thụy Điển
Phần Lan
Tây Ban Nha
Hy Lạp
Hà Lan
Đức

Bồ Đào Nha
Đan Mạch
Ý
Nhật Bản
Thụy Sĩ
Bỉ
Pháp
Hàn Quốc

Tài liệu làm việc của Phòng Kinh tế OECD, số. 399, xuất bản bởi OECD

New Zealand

Chỉ số hạn chế nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Chỉ số càng cao thì mức độ hạn chế càng lớn
Nguồn: Baek, Y., R. S. Jones và M. Wise (2004), "Cạnh tranh trên thị trường sản phẩm và Hoạt động kinh tế ở Hàn Quốc",

Bảng 1 thể hiện chỉ số hạn chế của các quy định trong ngành phân phối ở một số nước OECD.

Kalirajan (2000) cho rằng Bỉ, Ấn Độ, Indonesia, Pháp, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines,
Thụy Sĩ và Thái Lan là các quốc gia có nhiều quy định hạn chế phân phối nhất. Đặc trưng của
15


các nền kinh tế này là yêu cầu chặt chẽ về thành lập cũng như hạn chế về mua/thuê đất thương
mại, hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài và hạn chế đối với các cửa hàng lớn. Các nền kinh tế
này cũng hạn chế hoạt động của doanh nghiệp như yêu cầu về quốc tịch đối với ban lãnh đạo
và yêu cầu sử dụng lao động địa phương. Trong khi đó, Singapore và Hồng Kông là hai quốc
gia có nền kinh tế mở cửa nhất. Các nền kinh tế này có rất ít quy định hạn chế, chủ yếu là hạn
chế sử dụng lao động nước ngoài.
3.2


Quy định đối với các cơ sở bán lẻ quy mô lớn

Các cơ sở bán lẻ quy mô lớn là đối tượng chính của các quy định khắt khe. Trong khi các
chuỗi bán lẻ lớn có lợi ích không thể phủ nhận được (lợi ích của người tiêu dùng về phương
diện sự tiện lợi, giảm chi phí hàng hóa, thời gian và chi phí vận tải; thu hút lượng khách hàng
đóng thuế trong một phạm vi rộng; gia tăng việc làm, thu nhập; kích thích hồi phục kinh tế ở
các cộng đồng thành thị; kích thích các hoạt động kinh tế khác và tạo việc làm liên quan;
v.v…), những người chỉ trích cho rằng các cơ sở này cũng có những tác động tiêu cực về mặt
xã hội, kinh tế và môi trường đối với cộng đồng nơi đặt cơ sở bán lẻ. Đặc biệt, các cửa hàng
này có những biểu hiện thống trị, lãng phí không gian và ảnh hưởng xấu đến cộng đồng cũng
như những doanh nghiệp nhỏ. Một cơ sở bán lẻ quy mô lớn thường cần đến 1.000 chỗ đỗ xe
và phát sinh hàng nghìn lượt đi lại bằng ô tô mỗi ngày. Những người chỉ trích còn nêu rằng
tương ứng với mỗi đồng thuế mà các cơ sở này nộp vào công quỹ, những người trả thuế cuối
cùng thậm chí còn phải gánh chịu chi phí cao hơn. Bên cạnh đó, tương ứng với mỗi công việc
lương thấp được tạo ra từ các cơ sở này, một số công việc có mức thu nhập “đủ sống” khác
trong cộng đồng có thể đã bị mất đi.
Về mặt lý thuyết, số lượng các công cụ mà các nhà hoạch định chính sách có thể áp dụng đối
với các cơ sở bán lẻ quy mô lớn tương đối phong phú. Tuy nhiên trong thực tế, việc lựa chọn
chính sách nào để giải quyết các thách thức đặt ra phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể. Vì thế mỗi
quốc gia phải vận dụng các công cụ quản lý khác nhau. Về cơ bản, các nhà hoạch định chính
sách phải cân bằng được các mục tiêu mâu thuẫn nhau: một mặt là thúc đẩy cạnh tranh thương
mại; mặt khác là bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp địa phương, các nhóm lợi ích và
người tiêu dùng.
Các quốc gia có ngành phân phối hoạt động chủ yếu theo phương thức truyền thống, ở đó, các
nhà bán lẻ quy mô lớn (supermarketer) còn tương đối yếu hoặc không tồn tại thường có xu
hướng áp dụng những biện pháp hạn chế mang tính phân biệt đối xử đối với các nhà bán lẻ
nước ngoài vì họ là đối tượng có khả năng cung cấp các dịch vụ phân phối hiện đại. Sự xuất
hiện của các nhà bán lẻ nước ngoài bị coi là mối đe dọa đến các giá trị quốc gia, truyền thống
văn hóa hay đơn giản là mối đe dọa về sự cạnh tranh không cân sức với các nhà sản xuất và

phân phối trong nước.

16


Hộp 1
Tranh luận ở Ấn Độ xoay quanh
việc mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối quy mô lớn
Cuộc tranh luận về việc mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà bán lẻ quy mô lớn kéo dài trong
nhiều năm tại Ấn Độ, nơi có những quy định nghiêm ngặt để bảo vệ các cửa hàng nhỏ. Các
doanh nghiệp lớn trong nước như Tata hay các nhà bán lẻ xuyên quốc gia đều háo hức muốn
gia nhập thị trường phân phối lớn thứ hai thế giới này.
Hiện tại, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các hoạt động bán lẻ thuần túy vẫn chưa được
pháp luật cho phép. Chính phủ Ấn Độ chỉ mới cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phân
phối bán lẻ một số sản phẩm thương hiệu nhất định (bán lẻ cho một thương hiệu duy nhất).
Theo đó, các công ty nước ngoài thuộc nhóm nhất định có thể bán hàng thông qua cơ sở bán
lẻ thành lập ở Ấn Độ.
Theo một báo cáo chính sách của Vụ Xúc tiến và Chính sách Công nghiệp Ấn Độ (DIPP),
việc mở cửa thị trường cho FDI sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh tế mới và tạo ra nhiều việc làm.
FDI trong ngành bán lẻ sẽ tạo ra những liên kết đối với khu vực sản xuất, chế tạo, thúc đẩy
bán lẻ trong nước cũng như xuất khẩu. Các công ty đa quốc gia đầu tư vào hoạt động bán lẻ ở
Ấn Độ cũng sẽ tìm kiếm nguồn hàng Ấn Độ cho các cơ sở bán lẻ quốc tế của mình, từ đó làm
gia tăng xuất khẩu của Ấn Độ. Các chuỗi bán lẻ ở Ấn Độ sẽ có cơ hội hợp nhất với các chuỗi
cung ứng toàn cầu bởi FDI sẽ mang đến công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng và tiếp thị.
Các nhà bán lẻ có tổ chức ở Ấn Độ không tán thành việc cho phép các công ty đa quốc gia
(Multinational Companies - MNCs) gia nhập bán lẻ trong nước bởi chiến lược định giá của
các công ty này có thể loại bỏ cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, luận điểm này bị phản
bác bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bán lẻ tại các nước đã tự do hóa thương mại cho thấy
các nhà bán buôn và các nhà chế biến thực phẩm buộc phải cải tiến, tăng cường xuất khẩu và
tăng trưởng thông qua việc tìm kiếm nguồn cung trong nước.

Tiến sĩ A.K. Dua, Vụ trưởng Vụ Xúc tiến và Chính sách Công nghiệp đã kết luận về quan
điểm của Chính phủ Ấn Độ như sau:
“Xét đến cấu trúc xã hội hiện tại của Ấn Độ, ngành bán lẻ cần được mở cửa. Chính phủ sẽ
đảm bảo việc gia nhập thị trường của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu không làm mất đi việc làm
hiện có trong ngành bán lẻ.” Tuy nhiên, ông khẳng định thêm rằng: “Vấn đề thực sự là liệu
ngành bán lẻ thiếu tổ chức của chúng ta có trụ được trước phương thức bán lẻ có tổ chức và
tận dụng được tính kinh tế theo quy mô hay không... Cho dù đó là những công ty lớn trong
nước như Reliance đã tuyên bố sẽ gia nhập ngành bán lẻ, hay các MNC như Walmart, thì tác
động đối với những cửa hàng nhỏ lẻ truyền thống (mom-and-pop shop) vẫn chẳng có gì thay
17


đổi. Nếu bạn bị giết, bất kể sát thủ là người nước ngoài hay người trong nước, thì có gì khác
biệt đâu?”
Ở các quốc gia có ngành phân phối phát triển, các quy định đối với các nhà bán lẻ quy mô lớn
(supermarketer) không nhằm vào người nước ngoài mà được áp dụng theo nguyên tắc đối xử
quốc gia (ít nhất là về hình thức). (Điều này không có nghĩa đối xử quốc gia phải là một đặc
trưng của các quy định về phân phối. Nếu các mục tiêu chính sách công chỉ liên quan đến
cảnh quan, giao thông đường bộ, bảo vệ môi trường và bảo tồn các địa điểm di tích, v.v… thì
việc phân biệt đối xử giữa nhà bán lẻ trong nước và nước ngoài là vô nghĩa.)
Đối với nhiều nền kinh tế có mức thu nhập trung bình ở Đông Nam Á, thập niên 90 được coi
là thời kỳ phát triển thịnh vượng của các nhà bán lẻ xuyên quốc gia và các trung tâm mua sắm
lớn. Các nhà bán lẻ trong nước cảm thấy rằng đây là quá trình “quốc tế hóa mau lẹ” của các
chuỗi phân phối xuyên quốc gia, đặc biệt là các nhà bán lẻ quy mô lớn, khi chớp được cơ hội
tạo ra bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Quá trình quốc tế hóa nhanh chóng
của ngành bán lẻ ở những quốc gia này, chủ yếu là Thái Lan và Malaysia đã không chỉ thay
đổi truyền thống mua hàng và diện mạo của môi trường đô thị, mà còn thay đổi số phận của
các thị xã, cộng đồng, đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách và quy hoạch những sự lựa
chọn khó khăn. Phản ứng chính sách đối với tình trạng này là việc ban hành các quy định
kiểm soát địa điểm và hoạt động của các cơ sở bán lẻ nước ngoài quy mô lớn. Mục tiêu đặt ra

bao gồm: duy trì sự tồn tại của các nhà phân phối nhỏ lẻ, duy trì bản chất truyền thống của các
trung tâm đô thị, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến kinh tế xã hội của các cộng đồng đô thị.
Bảng 2 tóm tắt các quy định hiện hành đối với ngành phân phối ở Indonesia, Malaysia và Thái
Lan. Các quy định này cũng có thể thấy ở các quốc gia khác, tất nhiên không nhất thiết phải
bao gồm tất cả các quy định này.

Bảng 2
Phân loại các cơ chế quản lý áp dụng đối với các nhà bán lẻ xuyên quốc gia quy mô lớn
(Transitional Companies – TNCs)
Loại quy
định

Giải thích

Chính sách đối với
nhà đầu tư nước ngoài
Luật đất đai và tài sản

Luật

Các luật chuyên ngành điều chỉnh các loại hình sở
hữu bất động sản

Luật cạnh tranh

Luật

Các luật chuyên ngành nhằm thúc đẩy cạnh tranh và
ngăn chặn hành vi thương mại không lành mạnh trên
thị trường, thường bao gồm luật chống độc quyền và

luật bảo vệ người tiêu dùng
18


Luật và chính sách về

Quy định

Các luật chuyên ngành và/hoặc các quy định điều

FDI

dưới luật

chỉnh sự di chuyển vốn (khác với đầu tư gián tiếp)
qua biên giới theo hướng cho phép các nhà đầu tư có
quyền kiểm soát đối với các tài sản có được, do đó
điều chỉnh cả hoạt động đầu tư mới, sáp nhập và mua
lại

Chính sách đối với
nhà bán lẻ xuyên quốc
gia quy mô lớn
Hạn chế về vốn góp

Quy định
dưới luật

Quy định về ngưỡng vốn góp được phép nắm giữ đối
với các TNC muốn gia nhập thị trường bán lẻ của

nước sở tại

Yêu cầu mức vốn tối
thiểu

Quy định
dưới luật

Yêu cầu về vốn tối thiểu đối với doanh nghiệp muốn
tham gia thị trường bán lẻ

Thủ tục lập cơ sở mới

Quy định
dưới luật

Yêu cầu vốn góp và các yêu cầu khác đối với doanh
nghiệp muốn tham gia thị trường bán lẻ

Nghiên cứu tác động
kinh tế xã hội

Quy định
dưới luật

Yêu cầu đánh giá trước rủi ro/tác động kinh tế xã hội
của dự án bán lẻ đối với các doanh nghiệp đang hoạt
động và cộng đồng địa phương

Nghiên cứu tác động


Quy định

Yêu cầu đánh giá tác động của dự án đối với sức

đối với môi trường
và/hoặc bảo tồn di tích
lịch sử

dưới luật

khỏe và môi trường con người, rủi ro về mặt sinh thái
đối với những thay đổi về môi trường và sức khỏe
trong khu vực hoặc cộng đồng cụ thể

Quy hoạch phân vùng

Quy định
dưới luật

Quy định về mục đích sử dụng đất ở các vùng đã
được quy hoạch, phân tách cộng đồng này với cộng
đồng khác

Yêu cầu về số dân
phục vụ

Quy định
dưới luật


Yêu cầu ngưỡng quy mô dân số tối thiểu để cho phép
lập cơ sở bán lẻ trong một cộng đồng nhất định

Quy định
dưới luật

Tiêu chuẩn về hình thức và diện tích xây dựng đối
với cơ sở bán lẻ quy mô lớn và các trung tâm mua

Tiêu chuẩn xây dựng
và tiêu chuẩn diện tích

sắm, cấm một số hình thức và/hoặc giới hạn diện tích
cụ thể ở một số khu vực nhất định

cơ sở
Thời gian mở cửa

Quy định
dưới luật

Hạn chế thời gian hoạt động của các cơ sở bán lẻ quy
mô lớn, cụ thể là thời gian mở cửa và/hoặc đóng cửa

Khác

Quy định
dưới luật

Các quy định khác về lưu kho, quản lý và marketing,

cung cấp dịch vụ bổ trợ, v.v.

Nguồn: Mutebi, Alex M. (2007): “Các biện pháp quản lý đối với các cơ sở bán lẻ xuyên quốc
gia quy mô lớn tại các thành phố Đông Nam Á”, Nghiên cứu đô thị, 44:2, 357 – 379
3.3

Chi phí của quy định đối với ngành phân phối
19


Các quy định đối với ngành phân phối làm giảm phúc lợi xã hội. Các quy định này làm gia
tăng chi phí đáng kể. Điều này ngụ ý rằng kết quả thu được sẽ rất lớn nếu giảm thiểu được các
quy định đối với ngành phân phối. Ước tính tại Nhật, các hạn chế đối với ngành phân phối
làm giảm tiêu thụ thực tế từ 5-8% mỗi năm. Ở Canada và Úc, tổn thất này ở mức 2-5%. Ở
Hoa Kỳ, tổn thất có thể lên đến mức cao nhất là 2,5% và thấp nhất là 0,25%. Điều này cho
thấy các quy định về phân phối có tác động tiêu cực không kém gì các rào cản thương mại.
Sự đồng thuận về các nhà bán lẻ TNC quy mô lớn ngày nay cho thấy cạnh tranh dường như là
cơ chế tốt nhất để tối đa hóa phúc lợi kinh tế, trong khi quản lý chỉ đem lại những kết quả
đáng thất vọng. Đây là một trường hợp cho thấy không giống như cạnh tranh, quản lý làm
phát sinh chi phí xã hội, tác động suy giảm hiệu suất kinh tế và việc dỡ bỏ các quy định cũng
tốn chi phí, công sức và thời gian đáng kể. Tuy nhiên, cạnh tranh và quản lý đều hướng tới
các mục tiêu chung là ngăn chặn những hoạt động sử dụng sức mạnh thị trường sai trái, đồng
thời tạo thuận lợi cho việc phân bổ nguồn lực hiệu quả. Trong trường hợp cạnh tranh không
đáp ứng được mục tiêu nói trên, việc quản lý phải được thực hiện dưới hình thức nhất định
với ý nghĩa là biện pháp thay thế cho cạnh tranh hay một biện pháp tạm thời áp dụng cho đến
khi cạnh tranh lành mạnh được khôi phục. Do đó, các chính sách quản lý và cạnh tranh cần
được phối hợp để phát huy tính chất củng cố lẫn nhau và tối ưu hóa phúc lợi kinh tế.
3.4

Các quốc gia nghiên cứu


Đông Á là khu vực có ngành bán lẻ phát triển nhanh chóng. Thực tế này không phải một điều
bí ẩn bởi vì từ trước đến nay châu Á là lục địa có mật độ dân số cao nhất thế giới và các nước
châu Á bị coi là kém phát triển về hoạt động bán lẻ (trừ một số quốc gia ngoại lệ). Thực tế
đang dần thay đổi khi các nhà bán lẻ hàng đầu thế giới như Carrefour, Metro, Tesco và WalMart tăng cường hoạt động trong khu vực, nhấn mạnh thị trường Đông Á là tâm điểm trong
chiến lược toàn cầu. Bên cạnh đó, dù không được báo chí phương Tây hay các tài liệu học
thuật đề cập đến nhưng các nhà bán lẻ quy mô lớn của Nhật Bản cũng đang ra sức giành giật
thị phần ở tất cả các thị trường chủ chốt trong khu vực.
3.2.1

Trung Quốc

Trung Quốc bắt đầu mở cửa thị trường phân phối một thời gian dài trước khi gia nhập WTO.
Các nhà bán lẻ nước ngoài được phép gia nhập thị trường Trung Quốc trong chương trình thử
nghiệm từ năm 1992. Tuy nhiên, những cửa hàng đầu tiên của người nước ngoài chỉ thực sự
mở cửa vào năm 1995 bởi thời gian trước đó Trung Quốc đặt ra hàng loạt hạn chế mà các nhà
phân phối của các thành viên GATT/WTO chưa từng gặp bao giờ. Bên cạnh việc hạn chế hoạt
động bán lẻ của nước ngoài dưới hình thức liên doanh, chính phủ Trung Quốc còn áp dụng
chiến lược phân bố quy hoạch vùng quốc gia hết sức khắt khe, hạn chế chương trình thí
nghiệm trong 11 tỉnh ở vùng duyên hải phía đông. Đến năm 2001, sau 15 năm thương lượng
kéo dài với nhiều nhân nhượng, Trung Quốc đã được chấp nhận là thành viên của WTO. Sự
kiện này buộc Trung Quốc phải dỡ bỏ toàn bộ các rào cản thương mại và mở cửa thị trường
20


bán lẻ trong vòng 3 năm. Tuân thủ nghĩa vụ này, năm 2004, chính phủ Trung Quốc đã ban
hành những sửa đổi chính sách mới nhất liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
các ngành thương mại, bao gồm bán lẻ, chấm dứt cuộc thử nghiệm kéo dài 12 năm. Những
chính sách mới nhất ra đời năm 2004 đã dỡ bỏ toàn bộ các hạn chế, hứa hẹn một thị trường
mở cửa và bình đẳng đối với các nhà bán lẻ quốc tế. Việc dỡ bỏ này cho phép các nhà bán lẻ

nước ngoài được “khai thác nền kinh tế địa phương ở các miền khác nhau.”
Mặc dù những chính sách mở cửa này đã đem lại cho các nhà bán lẻ xuyên quốc gia nhiều sự
tự do hơn trước, chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục can thiệp vào ngành bán lẻ thực phẩm.
Trong khi chính quyền trung ương đã cắt giảm vai trò quản lý của mình thì việc phân cấp tài
chính lại làm gia tăng quyền hạn của các cơ quan địa phương. Để đối phó với thách thức của
việc mở cửa thị trường bán lẻ và cho phép cạnh tranh toàn cầu sau khi gia nhập WTO Chính
quyền Thượng Hải đã sáp nhập 4 doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, tạo ra một tập đoàn có
đủ tiềm lực cần thiết cả về quy mô và phạm vi để cạnh tranh với sự gia nhập và mở rộng của
các nhà bán lẻ xuyên quốc gia.
Kinh nghiệm mở cửa thị trường bán lẻ của Trung Quốc cho thấy các nhà bán lẻ trong nước đã
khuếch trương những nguy cơ của cạnh tranh với nước ngoài. Thực tế là dù Trung Quốc phải
tự do hóa thị trường bán lẻ theo cam kết WTO, các nhà bán lẻ trong nước vẫn giữ vai trò như
trước ở thị trường trong nước. Mặc dù các TNC bán lẻ bắt đầu chiếm dần thị phần thông qua
khai thác lợi thế cạnh tranh về công nghệ thông tin, hậu cần hay kỹ năng quản lý chuỗi cung
cấp, bí quyết kinh doanh, v.v… các nhà bán lẻ trong nước vẫn giữ vị thế quan trọng trên thị
trường bán lẻ thực phẩm ở Trung Quốc. Mặc dù các nhà bán lẻ trong nước luôn cảm thấy yếu
thế hơn đối thủ cạnh tranh ở các mặt này, họ lại có những tài sản vô hình mà các đối thủ TNC
không có, bao gồm sự hiểu biết về người tiêu dùng Trung Quốc, mối quan hệ mật thiết với
chính quyền trung ương và địa phương (đây là yếu tố tiên quyết giúp họ có được những địa
điểm thuận lợi và nhận những khoản vay ưu đãi của ngân hàng) và sự hợp tác lâu dài với các
nhà cung cấp địa phương – mối quan hệ mà các TNC bán lẻ phải tạo dựng khi gia nhập thị
trường. Đặc biệt, kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001, các nhà bán lẻ thực
phẩm trong nước thuộc sở hữu tư nhân đã gia tăng đáng kể thị phần của mình trên thị trường.
Bảng 3
Tự do hóa ngành bán lẻ ở Trung Quốc
Các giai

Những cải cách chính

đoạn và

thời kỳ
Giai đoạn
1 (1992–
95)

Các FDI bán lẻ được cho phép hoạt động theo chương trình thí điểm tại 6 thành
phố (Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Châu, Đại Liên và Thanh Đảo)
và 5 đặc khu kinh tế (Thẩm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn và Hải Nam)
với một số hạn chế về tỷ lệ vốn nắm giữ, sự phát triển các chuỗi bán lẻ và lượng
hàng nhập khẩu từ nước ngoài
21


Giai đoạn

Các nhà bán lẻ nước ngoài được phép xây dựng chuỗi bán lẻ tại Bắc Kinh dưới

2 (1995–
99)

hình thức liên doanh (với một đối tác Trung Quốc nắm giữ phần vốn chi phối).
Thị trường bán buôn cũng được mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Năm
1995, Carrefour xây dựng 2 cửa hàng mua sắm lớn đầu tiên ở Bắc Kinh và
Thượng Hải. Năm 1996, siêu thị đầu tiên của Wal-Mart cũng được đưa vào hoạt
động tại Thẩm Quyến.

Giai đoạn

Nhiều hạn chế quan trọng được bãi bỏ nhằm xúc tiến việc Trung Quốc gia nhập


3 (1994–
2004)

WTO. Các FDI bán lẻ được phép hoạt động ở tất cả các tỉnh lỵ. Các nhà bán lẻ
nước ngoài mua và xuất khẩu khối lượng lớn sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc
sẽ được nắm giữ phần vốn chủ đạo trong liên doanh. Tương ứng với chiến lược
“phát triển phía Tây” của Trung Quốc, các công ty liên doanh sẽ được đãi ngộ
đặc biệt nếu thiết lập cơ sở và hoạt động ở phía Tây Trung Quốc.

Giai đoạn

Tuân thủ nghĩa vụ WTO, tháng 4/2004, Trung Quốc đã dỡ bỏ tất cả các hạn chế

4 (2004
trở đi)

còn lại. Các nhà bán lẻ nước ngoài được phép (1) lập cơ sở kinh doanh, kể cả
bán buôn và bán lẻ, tại bất cứ địa điểm ở Trung Quốc; (2) hoạt động với hình
thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh; và (3) bán
hàng thông qua các kênh, bao gồm truyền hình, điện thoại, thư từ, mạng Internet,
và máy bán hàng tự động. Ngoại trừ đối với các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài, chính quyền cấp tỉnh phân cấp cho cơ quan chức năng trực thuộc
phê duyệt việc gia nhập thị trường của các công ty mới. Tháng 12/2004, Tesco
gia nhập thị trường Trung Quốc bằng cách mua lại 50% phần vốn của Hymall.

Nguồn: Tacconelli, Wance và Neil Wrigley: “Những thách thức về tổ chức và chiến lược đối
phó của các TNC bán lẻ trong giai đoạn hậu WTO ở Trung Quốc”, Địa lý kinh tế, 85(1):4973, 2009
3.2.2

Hàn Quốc11


Ngành bán lẻ của Hàn Quốc chủ yếu vận hành bởi các cơ sở kinh doanh gia đình nhỏ lẻ, dẫn
đến tình trạng Hàn Quốc có năng suất lao động trong ngành bán lẻ thấp nhất (khoảng 30%
hiệu suất của Hoa Kỳ) trong số các nước OECD. Các quy định nhằm bảo hộ các cửa hàng nhỏ
lẻ truyền thống (mom-and-pop shop) và thúc đẩy đầu tư vào sản xuất đã cản trở sự phát triển
của ngành bán lẻ, dẫn đến tình trạng năng suất thấp trong ngành này. Những quy định gián
tiếp như quy hoạch phân vùng và các thủ tục phức tạp để lập cơ sở bán lẻ quy mô lớn cũng tác
động đáng kể đến thị trường bán lẻ. Những quy định về việc lập cơ sở bán lẻ của Hàn Quốc
được coi là ngặt nghèo nhất trong khu vực OECD.
Các cơ sở bán lẻ có diện tích trên 1.000m2 bị cấm thành lập ở các khu dân cư và khu công
nghiệp. Các khu thương mại không có quy định về việc xây dựng các cơ sở quy mô lớn nhưng
các khu vực này chỉ chiếm khoảng 0,2% tổng diện tích đất. Hơn thế, phần lớn những khu vực

11

Baek và Wise (2004)

22


này đã bị chiếm giữ bởi các doanh nghiệp khác, do đó quỹ đất để xây dựng các cửa hàng quy
mô lớn còn quá ít. Việc xây dựng lại các tòa nhà cũ đòi hỏi những cuộc đàm phán lê thê và
phức tạp để đạt được sự đồng thuận của nhiều chủ sở hữu. Từ năm 1996 đến nay, Hàn Quốc
đã cho phép xây dựng các cửa hàng chiết khấu (discount store) có diện tích đến 10.000m2 ở
“các khu vực xanh tự nhiên” thuộc các quận đô thị. Tuy nhiên, các quy định như giới hạn về
tỷ lệ xây dựng trên đất (building-to-land) hay thể tích trên đất (volume-to-land) đã cản trở
việc xây dựng các cơ sở bán lẻ quy mô lớn tại các khu vực này. Mức tối đa xây dựng cho
phép tương ứng là 20% và 100% ở các khu vực xanh tự nhiên, do đó việc xây dựng các khu
mua sắm lớn sẽ không sinh lời.
Các thủ tục phức tạp trong việc xin cấp giấy phép lập cơ sở bán lẻ quy mô cũng là rào cản

lớn. Chủ đầu tư còn phải được chính quyền địa phương chấp thuận về đánh giá tác động đối
với giao thông và phê duyệt về xây dựng. Tương tự như ở một số thành viên OECD khác,
việc phân cấp cho chính quyền địa phương làm tăng khả năng cạnh tranh trong ngành bán lẻ
bởi các cơ quan địa phương thậm chí còn phải chịu áp lực nặng nề hơn các cơ quan trung
ương từ các cơ sở kinh doanh đang hoạt động và các nhóm lợi ích đặc quyền khác. Trong một
số trường hợp, chính quyền địa phương còn áp nhiều loại thuế phí, là gánh nặng bổ sung cho
chủ đầu tư. Tuy nhiên, Hàn Quốc không có quy định đối với hoạt động bán lẻ như giờ mở cửa
và quản lý giá.
Năm 1996, Hàn Quốc đã bãi bỏ phần lớn các hạn chế về quy mô và số lượng cơ sở bán lẻ một
bên nước ngoài có thể xin thành lập. Kể từ đó, một số biện pháp khác đã được thực hiện nhằm
thúc đẩy tự do hóa như dỡ bỏ những hạn chế còn lại đối với cửa hàng bách hóa và trung tâm
mua sắm của người nước ngoài. Đồng thời, Hàn Quốc cũng áp dụng kiểm tra nhu cầu kinh tế
đối với các cơ sở bán lẻ xe ô tô đã qua sử dụng và xăng dầu. Tuy nhiên, những rào cản đề cập
ở trên bao gồm quy hoạch phân vùng, các thủ tục cấp phép tốn kém thời gian có lẽ là những
vấn đề phiền toái nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài với vốn hiểu biết hạn chế về môi
trường quản lý của Hàn Quốc.
3.2.3

Nhật Bản

Ở Nhật Bản, các nhà bán lẻ quy mô lớn từ lâu đã bị pháp luật hạn chế nhằm mục đích bảo hộ
các nhà bán lẻ quy mô nhỏ hơn. Luật về Cơ sở bán lẻ quy mô lớn là một đặc trưng của hệ
thống phân phối Nhật Bản trong gần 40 năm qua, với hình thức này hay hình thức khác, đã
cản trở việc thành lập các cửa hàng lớn. Việc bảo hộ các doanh nghiệp bán lẻ quy mô nhỏ bắt
đầu với “Luật về Cửa hàng bách hóa” được thông qua từ năm 1937. Đạo luật này tạm dừng
hiệu lực vào năm 1947 và được áp dụng trở lại vào năm 1956, đòi hỏi việc lập cửa hàng bách
hóa mới ở bất cứ nơi nào trên đất nước Nhật Bản phải được cơ quan chính phủ (trước Thế
chiến lần thứ 2 là Bộ Công Thương, hay Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế (MITI) sau
Thế chiến) phê duyệt.
Năm 1973, Luật Cơ sở bán lẻ quy mô lớn thay thế Luật Cửa hàng bách hóa, quy định diện

23


tích sàn của cửa hàng chứ không phải bản chất hoạt động của cửa hàng là tiêu chí cho việc
phê duyệt của MITI. Ngưỡng quy định là 3.000m2 tại các thành phố lớn và 1.500m2 ở các nơi
khác. Hầu hết các cửa hàng có diện tích sàn lớn hơn ngưỡng này sẽ được coi là cửa hàng bách
hóa.
Năm 1978, phạm vi áp dụng của Luật này được mở rộng, điều chỉnh cả các cửa hàng dự kiến
thành lập với diện tích sàn trên 500m2. Nếu muốn kinh doanh ở một khu vực nhất định, một
nhà bán lẻ quy mô lớn phải thông báo cho Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc
tế. Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế sẽ nghiên cứu tác động của cơ sở này
đối với các nhà bán lẻ nhỏ hơn trong khu vực. Nếu thấy có tác động tiêu cực đáng kể, Bộ
trưởng sẽ yêu cầu chủ đầu tư thay đổi kế hoạch kinh doanh, bao gồm các nội dung như diện
tích sàn, ngày làm việc, giờ đóng cửa và số ngày nghỉ. Ngoài ra, chính quyền địa phương
cũng được phép đưa ra những quy định bổ sung đối với việc lập cửa hàng lớn, về diện tích
cửa hàng và giờ hoạt động.
Các thủ tục xem xét phê duyệt hồ sơ đề nghị lập cơ sở bán lẻ kéo dài trong khoảng 1 năm.
Mặc dù MITI có quyền ra quyết định phê duyệt hay không, luật pháp yêu cầu MITI phải xem
xét ý kiến của một ban gồm đại diện người tiêu dùng, thương nhân và giới học thuật của địa
phương dự kiến đặt cơ sở bán lẻ không chỉ về việc phê duyệt hồ sơ nói chung mà về tất cả các
nội dung diện tích sàn, giờ và ngày hoạt động, vị trí của cơ sở dự kiến.
Theo luật, chủ các cửa hàng nhỏ được quyền vận động hành lang đối với cơ quan chính phủ
trong việc phê duyệt hồ sơ lập cơ sở bán lẻ quy mô lớn. Đây là lý do giải thích số lượng lớn
các cửa hàng bán lẻ quy mô nhỏ ở Nhật Bản, trong khi sự phát triển của các cửa hàng lớn bị
hạn chế.
Hậu quả của sự hạn chế này là các cửa hàng Nhật Bản có không gian kinh doanh nhỏ hơn so
với các nước ở châu Âu hay Bắc Mỹ. Điều này gây khó khăn cho các cửa hàng trong việc đạt
được tính kinh tế theo quy mô và hạn chế số lượng mặt hàng cung cấp.
Hơn thế, nhiều người cho rằng Luật Cơ sở bán lẻ quy mô lớn có thể coi là rào cản phi thuế
quan, cản trở hàng hóa nước ngoài thâm nhập thị trường Nhật Bản.

Những năm 90 xuất hiện xu hướng từ bảo hộ sang giảm thiểu quy định. Đây là kết quả của
“Sáng kiến về các rào cản cơ cấu của Nhật Bản – Hoa Kỳ” nhằm xây dựng thị trường cởi mở
và thúc đẩy cạnh tranh ở Nhật Bản. Năm 1994, Luật Cơ sở bán lẻ quy mô lớn đã được nới
lỏng nhằm tạo điều kiện cho các nhà bán lẻ gia nhập thị trường, thành lập các cửa hàng có
diện tích sàn dưới 1000m2. Cuối cùng, luật này đã bị bãi bỏ hoàn toàn vào năm 1998.
Luật về Vị trí bán lẻ quy mô lớn hiện hành (“Luật về các biện pháp bảo tồn không gian sống
của các cơ sở bán lẻ quy mô lớn”) nhằm điều tiết việc gia nhập thị trường áp dụng đối với tất
cả mọi cửa hàng có diện tích bán lẻ lớn hơn 1.000m2. Đây là một ngưỡng thấp nếu so sánh
24


với các nước khác trên thế giới, kể cả so với siêu thị loại nhỏ và cửa hàng chiết khấu. Giống
như đạo luật trước đây, luật này cũng cho phép các cơ sở bán lẻ đang hoạt động ở địa phương
có thể hạn chế sự gia nhập thị trường bằng cách đưa ra các ý kiến về môi trường (tắc nghẽn
giao thông, thu gom rác thải, v.v…).12
Kết quả của quá trình giảm thiểu quy định là sự gia tăng về tỷ lệ gia nhập cũng như thoái lui
khỏi ngành vào cuối thập niên 90. Tuy nhiên, thị phần của các cơ sở nhỏ lẻ suy giảm thì thị
phần của các nhà bán lẻ phi truyền thống mới thành lập gia tăng. Cụ thể là thị phần của các
cửa hàng truyền thống co cụm từ từ 70% xuống còn 58%, trong khi các siêu thị hàng chuyên
dụng và cửa hàng tiện lợi gia tăng đáng kể thị phần. Từ quan điểm quốc tế, các cơ sở nhỏ lẻ
cũng như các cửa hàng tiện lợi và cửa hàng truyền thống vẫn nắm giữ một thị phần lớn cho dù
phải chịu áp lực cạnh tranh gia tăng. So với Hoa Kỳ, Anh và Pháp, thị phần của các cửa hàng
truyền thống ở Nhật kinh doanh bán lẻ thực phẩm có mức cao nhất. Tuy nhiên, năng suất lao
động trong ngành bán lẻ của Nhật vẫn không thay đổi trong suốt thập niên 90 bất kể tính năng
động tương đối của ngành này.13
3.2.4

Một số nước thành viên ASEAN

Các nhà hoạch định chính sách ở một số thị trường mới nổi trong khu vực Đông Nam Á đã

vận dụng nhiều phương thức quản lý khác nhau để đối phó với sự phát triển nhanh chóng của
các chuỗi bán lẻ xuyên quốc gia. Thực tế cho thấy không có một cách tiếp cận nào được coi là
tốt nhất để quản lý các nhà bán lẻ xuyên quốc gia. Malaysia có những quy định nghiêm ngặt
nhất đối với các TNC, trong khi Indonesia quy định lỏng lẻo nhất. Mặc dù ở cùng trình độ
phát triển kinh tế, cả 3 nước có điểm chung là thiếu vắng một cơ quan quản lý đầu mối (onestop regulatory agency). Thay vào đó, các cơ quan khác nhau được giao trách nhiệm về các
quy định khác nhau, đôi khi dẫn đến các chính sách mâu thuẫn.
Tại Malaysia, việc giám sát ngành bán buôn và bán lẻ thuộc chức năng của hai ủy ban trực
thuộc Bộ Nội thương và Các vấn đề người tiêu dùng (MDTCA). Ủy ban Bán buôn và Bán lẻ
được thành lập vào năm 1995 có chức năng điều tiết và giám sát chuyên ngành, kể cả sự tham
gia của nước ngoài. Các doanh nghiệp nước ngoài muốn lập cơ sở bán buôn hoặc bán lẻ, lập
hay di chuyển các chi nhánh của mình phải được sự phê duyệt của Ủy ban này. Ngoài ra, các
nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào thị trường động sản Malaysia (hầu hết các TNC bán
lẻ quy mô lớn đều muốn đầu tư vào thị trường bất động sản) phải nộp hồ sơ đề nghị cho Ủy
ban Đầu tư Nước ngoài (FIC). FIC được thành lập từ năm 1974 có chức năng giám sát mọi
vấn đề về đầu tư ở Malaysia, bao gồm cả việc xây dựng các hướng dẫn và quy định đối với
các nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia kinh doanh bằng cách mua lại, sáp nhập hay tiếp
quản cơ sở trong nước.
Ở Thái Lan, Vụ Thương mại trong nước (DIT) thuộc Bộ Thương mại có trách nhiệm giám sát
12
13

Høj và Wise (2004)
Toshiyuki và Mitsuru, 2009

25


×