Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

VẤN ĐỀ NỢ XẤU Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.61 KB, 18 trang )

VẤN ĐỀ NỢ XẤU Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ
TS. Trịnh Quang Anh
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế
Tập đoàn Đầu tư phát triển Việt Nam

Dẫn nhập
Không còn phải bàn cãi, nợ xấu ngân hàng đang ở mức độ nghiêm
trọng, gây đình trệ tín dụng và làm rủi ro hệ thống tăng cao. Dù vấn đề
thanh khoản hệ thống đã tạm ổn trở lại, nhưng nguy cơ đổ vỡ hệ thống
vẫn luôn rình rập. Rất nhiều giải pháp linh hoạt, mạnh mẽ và quyết liệt
được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và một số bộ ngành
liên quan đưa ra triển khai, tuy nhiên, do thường mang tính tình thế, thụ
động và ngắn hạn, kết quả đạt được chắc chắn cũng nhất thời, chưa thể
giải quyết được tận gốc vấn đề.
Rõ ràng, với một chủ đề tưởng chừng rất cũ này, vẫn cần thiết có
đánh giá lại cho đúng hơn thực trạng nợ xấu ngân hàng, vạch ra căn
nguyên của vấn đề, trên cơ sở đó khuyến nghị một số giải pháp mang tính
căn cơ hơn, đặt trong bối cảnh thực tiễn nền kinh tế và ngành ngân hàng,
với kỳ vọng góp phần giải quyết triệt để vấn nạn nợ xấu, tạo tiền đề cho
sự phát triển lành mạnh và bền vững của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Bài viết, trong khuôn khổ cho phép, cố gắng lần lượt giải quyết
những vấn đề trên. Những phân tích, nhận định được rút ra từ các phần
Thực trạng và Nguyên nhân, sẽ là căn cứ để đề xuất các Giải pháp cho
phần tiếp theo. Một số hàm ý và thông điệp của tác giả sẽ được đưa ra
thay cho Lời kết của bài viết.
I. Nợ xấu “xấu” đến mức nào?
Cần thiết phải nói ngay, tất cả những con số đang sẵn có về nợ xấu
ngân hàng, ở những chừng mực nhất định, chỉ phản ánh những khía cạnh
589



nhất định của vấn đề. Một bức tranh toàn diện về thực trạng nợ xấu ngân
hàng chưa bao giờ được đưa ra. Một lý do dễ hiểu là ngay chính Cơ quan
quản lý cũng không thể chắc chắn rằng nợ xấu chính xác hiện bao nhiêu.
Thực tế, nợ xấu ngân hàng là một biến số nhạy cảm, gắn chặt với tình
hình kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh và diễn biến của thị trường.
Nó thay đổi hàng giờ và phụ thuộc đáng kể vào góc nhìn của người báo
cáo hay đánh giá, loại ra yếu tố chủ quan tiêu cực. Chấp nhận thực tế
này, tác giả tiến hành chẩn đoán và đưa ra phác đồ điều trị cho căn bệnh
“nợ xấu ngân hàng” dựa trên số liệu tương đối nhưng hợp lý và đáng tin
cậy, kết hợp với những kết quả định tính được cho là phản ánh đúng bản
chất vấn đề.
Hình 1. Tỷ lệ nợ xấu hệ thống ngân hàng

Nguồn: NHNN, Báo cáo từ các TCTD, Tác giả tổng hợp.

Theo số liệu đến 31/12/2012 từ các tổ chức tín dụng (TCTD), nợ
xấu toàn hệ thống ở tầm 120 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,1% so tổng dư nợ
tín dụng.178 Số liệu này hiển nhiên thấp xa, bằng khoảng nửa so với con
số NHNN nắm được qua hệ thống thanh tra giám sát của mình. Nếu
cộng cả những khoản nợ xấu tiềm tàng, gồm nợ khoanh, nợ được cơ
cấu lại theo Quyết định 780/QĐ-NHNN179 và nợ được cơ cấu lại của
178Nợ

xấu cho vay nền kinh tế, hạch toán nội bảng, chưa bao gồm nợ xấu đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác cấp tín dụng và mua trái phiếu doanh nghiệp. Các khoản nợ xấu lũy kế đến
31/12/2012 được các TCTD xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro đang theo dõi ngoài bảng cân
đối kế toán cũng không được tính vào.
179Xem />
590



Vinashin, Vinalines, tổng nợ xấu ngân hàng được ước tính sẽ vọt tới tầm
nửa triệu tỷ đồng, tương đương 18% tổng dư nợ tín dụng, gần 10% tổng
tài sản toàn hệ thống hay khoảng 17% GDP danh nghĩa 2012. Đây rõ
ràng là một con số đáng sợ, một minh chứng mạnh mẽ để giải thích tại
sao tín dụng cho nền kinh tế rơi vào đình trệ, thanh khoản hệ thống ngân
hàng bất ổn và nền kinh tế chìm sâu hơn trong suy thoái. Chưa hết, con
số này có thể sẽ không dừng lại ở đó. Nó có thể ngày càng trở nên trầm
trọng hơn bởi: (i) triển vọng kinh tế tiếp tục xấu đi làm các khoản nợ
hiện đang được coi là đủ tiêu chuẩn hay chưa xấu nhanh chóng chuyển
thành xấu; (ii) NHNN xiết chặt hơn các chuẩn mực về phân loại nợ và
trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN, theo đó
nợ xấu được đánh giá lại sẽ tăng lên; (iii) các khoản nợ xấu được các
TCTD che giấu trước đây, sẽ “bục” dần theo thời gian và sự tiến triển
của chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng; và quan trọng hơn cả
(iv) niềm tin của thị trường bị đổ vỡ, không thể dễ dàng được khôi phục
bằng các gói giải pháp kích thích, hỗ trợ, tháo gỡ, giải cứu nhỏ lẻ, kém
hiệu lực, kém hiệu quả và kém căn cơ của Chính phủ.
Quay trở lại con số nợ xấu đến 31/12/2012 từ báo cáo của các
TCTD, bức tranh sơ bộ về nợ xấu ngân hàng cụ thể như sau:
(i)Xét theo từng khối ngân hàng, nợ xấu tập trung chủ yếu ở khối
ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 40%, và khối ngân hàng
thương mại cổ phần (NHTMCP), 41%180. Khối ngoại181 khả dĩ hơn cả
với thị phần nợ xấu chỉ chiếm hơn 4% tổng nợ xấu toàn hệ thống. Con
số này ở khối các TCTD còn lại (chủ yếu là các công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính) là 15%. Xét tỉ lệ nợ xấu so dư nợ cấp tín dụng
của từng khối, số liệu cho bốn khối này lần lượt là: 3,3%, 4,7%, 2,5%
và 8,8%.
Như vậy, nhìn con số tương đối, tình trạng nợ xấu ở khối các TCTD
khác là tệ nhất. Thực chất, nhiều công ty tài chính, công ty cho thuê tài

180Thị phần tín dụng của Khối NHTMNN và khối NHTMCP đến 31/12/2012 lần lượt là 49%
và 36%.
181Gồm các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam.

591


chính đang trong tình trạng tài chính nghiêm trọng với tỉ lệ an toàn vốn
CAR ở mức âm sâu, đe dọa an toàn hoạt động của nhiều TCTD khác.182
Xét con số tuyệt đối, nợ xấu nằm chủ yếu ở nhóm NHTMNN, trước
hết là Agribank rồi đến BIDV - chiếm tới gần 1/3 tổng nợ xấu toàn hệ
thống183. So năng lực tài chính, mức độ nợ xấu ở nhiều NHTMCP cũng
rất đáng lo ngại, trước hết là nhóm NH yếu kém nằm trong diện phải tái
cơ cấu năm 2012 - chiếm tới gần 1/5 tổng nợ xấu toàn hệ thống (chưa
tính Habubank do đã được sáp nhập vào SHB).
Hiển nhiên, con số nợ xấu thực ở khối NHTMNN sẽ còn lớn hơn
nhiều khi khối này cho vay hầu hết khu vực kinh tế nhà nước, đồng thời
có động cơ và có điều kiện để che giấu nợ xấu mạnh mẽ nhất.184 Tiếp đến
chắc chắn là nhóm các NHTMCP bị “lớn ép” trong hơn nửa thập kỷ qua.
(ii) Phân nợ xấu theo mức độ “xấu” - tức nhóm nợ,185 nợ dưới
chuẩn (nhóm 3) chiếm 22%, nợ nghi ngờ (nhóm 4) 29%, còn lại là nợ
có nguy cơ mất vốn (nhóm 5) chiếm 49% tổng nợ xấu.186 Chi tiết hơn,
nợ nhóm 5 tập trung chủ yếu vào khối NHTMNN, với 42%, và khối
NHTMCP, 32%. Ngoài ra, nợ cần chú ý (nhóm 2), tuy chưa tính vào nợ
xấu, nhưng bản chất đã là nợ có vấn đề, cũng chiếm tới 6,8% tổng dư
nợ cho vay hay gấp 1,6 lần tổng nợ xấu.
(iii) Quan sát kết quả phân loại tín dụng theo đối tượng khách
hàng, nợ xấu của nhóm doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bao gồm
các tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) và tổng công ty nhà nước

(TCTNN), chiếm tỉ lệ khoảng 18% tổng nợ xấu toàn hệ thống. Phần lớn
182Tuy thuộc loại TCTD phi ngân hàng, trên thực tế, hoạt động của nhiều công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính đã vượt qua ranh giới luật định, hoàn toàn có thể đe dọa sự ổn định của hệ
thống như các NHTM. Tình trạng nợ xấu liên ngân hàng đẩy thị trường tiền tệ rơi vào trầm lắng,
đóng băng như vừa qua, có sự đóng góp quan trọng của các TCTD này, là một minh chứng.
183Hệ thống TCTD nói đến trong bài viết không bao gồm Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
184Đây là một trong những lý do thuyết phục để cần phải xem xét lại quan điểm “Nâng cao vai
trò, vị trí chi phối của các NHTMNN; bảo đảm các NHTMNN thật sự là lực lượng chủ lực, chủ
đạo của hệ thống các TCTD, có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có năng lực quản
trị tiên tiến, khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế” (BI1 Đề án 254).
185Nợ cấp tín dụng hiện được phân thành năm nhóm: (i) nợ đủ chuẩn; (ii) nợ cần chú ý; (iii)
nợ dưới chuẩn; (iv) nợ nghi ngờ; và (v) nợ có nguy cơ mất vốn. Nợ xấu bao gồm nợ thuộc các
nhóm 3, 4 và 5.
186Nếu so tổng dư nợ cho vay, nợ nhóm 3, 4 và 5 lần lượt chiếm 0,9%, 1,2% và 2%.

592


số nợ xấu theo sổ sách còn lại thuộc về nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ,
cá nhân và hộ gia đình.
Con số khiêm tốn 18% vừa đề cập, tất nhiên chưa bao gồm nợ
khoanh, nợ được cơ cấu lại của Vinashin, Vinalines187 và của các DNNN
còn lại. Con số nợ xấu thực của nhóm khách hàng DNNN tiếp tục được
nhân lên nếu ta bóc tách phần nợ thực chất đã “chết” đang còn “ẩn nấp”
trong nhóm “nợ cần chú ý” để hạch toán sang đúng nhóm nợ. Thực
trạng nợ xấu của khu vực tổ chức kinh tế này giải thích tại sao một trong
ba nội dung trọng tâm của chương trình tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế
chính là cơ cấu lại DNNN, chủ yếu là các TĐKT và TCTNN.
(iv) Phân tín dụng theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế, nợ xấu tập
trung chủ yếu ở ngành dịch vụ (66%) và ngành công nghiệp xây dựng

(30%), cụ thể hơn là ở 7/21 ngành kinh tế cấp 2 sau đây (lần lượt tính
theo tỉ lệ so tổng nợ xấu - tổng cộng 91%/100%, và so tổng dư nợ - tổng
3,25%/4,1%):
• Công nghiệp chế biến, chế tạo: 19% và 1%;
• Xây dựng: 10% và 0,5%;
• Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động
cơ khác: 18% và 0,6%;
• Vận tải kho bãi: 14% và 0,5%;
• Hoạt động kinh doanh bất động sản: 7% và 0,3%;
• Hoạt động dịch vụ khác: 15% và 0,5%;
• Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất
sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình: 8% và 0,3%.
Nợ xấu cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản (BĐS) và chứng
khoán (trước đây được tính vào lĩnh vực phi sản xuất, bị hạn chế tăng
trưởng tín dụng) chỉ chiếm 8% tổng nợ xấu. Đây rõ ràng là một con số rất
kém tin cậy. Sự thực, rất nhiều khoản cấp tín dụng dưới các danh nghĩa
khác nhau, được “luồn” vào lĩnh vực BĐS và chứng khoán hay “có liên
187Ước

tính đến cuối 2012, con số nợ xấu thực của riêng hai Tập đoàn kinh tế nhà nước này đã
lớn gấp rưỡi con số báo cáo 18% của cả khu vực DNNN.

593


quan” đến lĩnh vực phi sản xuất này.188 Nợ xấu từ số dư nợ cho vay trên,
hiển nhiên sẽ được “che giấu” kỹ nhất. Đây là hệ lụy tất yếu của thị
trường BĐS và thị trường chứng khoán bong bóng quá mức một thời.
(v) Xét với toàn hệ thống đến 31/12/2012, nợ xấu sổ sách của các
khoản cấp tín dụng được bảo đảm bằng BĐS và BĐS hình thành trong

tương lai ước tính chiếm 64% tổng nợ xấu. Như vậy, về danh nghĩa, tới
2/3 các khoản nợ xấu ngân hàng là có BĐS và BĐS hình thành trong
tương lai bảo đảm, chưa tính đến các loại tài sản bảo đảm khác. Tỉ lệ
tổng giá trị tài sản bảo đảm ghi trên sổ sách so với số nợ xấu sổ sách có
tài sản bảo đảm, đạt mức khá cao, tới 1,8 lần. Tuy nhiên vấn đề ở chỗ,
giá trị tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu cần được định giá lại theo
thị trường. Trong bối cảnh thị trường BĐS tiếp tục đóng băng, sụt giá
và chưa có dấu hiệu hồi phục ít nhất tới 2015, công việc định giá lại và
phát mại tài sản thế chấp trở nên quá khó khăn, chưa tính đến yếu tố thủ
tục, quy trình pháp lý. Điều này có nghĩa, ngay cả với những khoản nợ
xấu có BĐS và BĐS hình thành trong tương lai bảo đảm, tỉ lệ thu hồi
vốn trong ngắn hạn sẽ vẫn ở mức rất thấp.
(vi) Đánh giá khả năng chống đỡ nợ xấu bằng “vốn đệm” của hệ
thống ngân hàng, tổng nợ xấu chiếm 20% tổng vốn chủ sở hữu cộng quỹ
dự phòng rủi ro tín dụng (DPRRTD) toàn hệ thống, tính đến 31/12/2012.
Tỉ lệ này ở các khối NHTMNN, NHTMCP, nước ngoài và các TCTD
khác lần lượt là 25%, 19%, 6% và 21%. Chi tiết hơn, vốn chủ sở hữu
của toàn hệ thống đến cuối năm 2012 là 550 nghìn tỷ đồng, giảm gần
2 nghìn tỉ so cuối tháng 11/2012 và tăng 65 nghìn tỉ so cuối năm 2011.
Chi phí trích lập DPRRTD 12 tháng năm 2012 của toàn hệ thống là 56
nghìn tỷ đồng, riêng tháng 12 là 12 nghìn tỉ, chiếm hơn 1/5 tổng chi
phí DPRRTD cả năm 2012. Quỹ DPRRTD sau khi đã xử lý tích cực nợ
xấu trong tháng 12/2012, sụt xuống còn 67 nghìn tỷ đồng từ số dư 81
nghìn tỉ tính đến cuối tháng 11/2012. Lượng nợ xấu ước tính được xử lý
bằng quỹ DPRRTD riêng trong tháng 12 là 26 nghìn tỷ đồng. Lợi nhuận
188Ước

tính đến cuối 2012, trên ½ tổng dư nợ cấp tín dụng cho nền kinh tế là có liên quan đến
lĩnh vực BĐS.


594


trước thuế năm 2012 toàn hệ thống, sau khi trích lập DPRRTD tháng
12 sụt xuống còn 33 nghìn tỷ đồng từ mức 39 nghìn tỉ lũy kế 11 tháng
đầu năm và chỉ còn bằng 1/2 mức lợi nhuận trước thuế của năm 2011.
Sự sụt giảm lợi nhuận của hệ thống ngân hàng năm 2012 chủ yếu do bị
sụt giảm thu nhập lãi từ hoạt động tín dụng, trong khi chi phí DPRRTD
tăng mạnh. Lợi nhuận trước thuế của tất cả các khối đều giảm so với
năm 2011, trong đó khối NHTMCP có mức giảm mạnh nhất, -79%,
khối NHTMNN chỉ giảm -4%, còn khối nước ngoài giảm -27%.
Như vậy, dù đã nghiêm túc hơn trong việc trích lập DPRRTD và
tích cực hơn trong việc dùng quỹ này để xử lý nợ xấu theo tinh thần
chỉ đạo của NHNN, lượng vốn đệm của hệ thống vẫn còn khá mỏng và
lượng nợ xấu theo sổ sách vẫn đe dọa “xuyên thủng lớp đệm vốn”, cho
dù hệ số an toàn vốn CAR toàn hệ thống theo báo cáo vẫn vượt mức
tối thiểu theo quy định. Thực ra, với số liệu ước tính đến cuối 2012 của
toàn hệ thống như đã đề cập ở đầu phần 1, lượng nợ xấu thực có thể sắp
“nuốt” trọn toàn bộ vốn của hệ thống ngân hàng189. Tức về lý thuyết, các
ngân hàng đang tiến tới ranh giới mất khả năng thanh toán, nếu tỉ lệ thu
hồi nợ xấu đạt mức quá thấp.
II. Căn nguyên của tình trạng nợ xấu?
Rất nhiều nguyên nhân của tình trạng nợ xấu NH được các chuyên
gia kinh tế hay các cơ quan quản lý nhà nước chỉ ra, như: (1) môi trường
kinh tế quốc tế lẫn trong nước bất lợi; (2) sự yếu kém về năng lực quản
trị điều hành lẫn chuyên môn và sự xuống cấp về đạo đức nghề nghiệp
của đội ngũ cán bộ ngân hàng; (3) tương tự như (2) nhưng đối với phía
khách hàng vay vốn; (4) Lỗ hổng trong cơ chế, chính sách, quy định
hiện hành và tính hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra giám sát;
… Bài viết thay vì đi tiếp vào các nguyên nhân đã được bàn thảo nhiều

và rất khó phủ nhận này, sẽ cố gắng gạn lọc, vạch ra một nguyên nhân
được cho là cốt lõi, gốc rễ của vấn đề.
Không thể chối bỏ một sự thật là suốt gần thập kỷ qua, kinh tế vĩ
mô Việt Nam luôn trong tình trạng bất ổn. Sự mất cân đối nghiêm trọng
189Hệ

số đòn bẩy tài chính bình quân của hệ thống ngân hàng là 9,6 lần.

595


giữa tiết kiệm và đầu tư lâu nay đã đẩy nền kinh tế luôn phải đối mặt với
tình trạng thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt ngân sách nhà nước
và nợ công tăng mạnh (xem “Thống đốc NHNN: Có cơ sở để đưa ra 3
gói bơm tiền”, tháng 2/2013). Hệ lụy tất yếu là lạm phát dâng cao, theo
đó là sự bất ổn của tỉ giá, lãi suất, rối loạn hoạt động ngân hàng và đình
trệ kinh tế, tiếp theo là sự đổ vỡ lòng tin. Những thành quả kinh tế hình
thức hoặc nhất thời trong những năm gần đây, nhanh chóng bị xóa nhòa
bởi sự bất ổn vĩ mô dai dẳng. Nói cách khác, chính những nỗ lực “bóp
lại cho tròn” những khuyết tật của nền kinh tế thời gian qua nhưng thiếu
“thế, lực và tầm”, càng đẩy nền kinh tế chìm sâu hơn trong khó khăn, bế
tắc (xem Góc nhìn Alan Phan và Vũ Quang Việt 2013). Trước bối cảnh
này, các nhà hoạch định chính sách và các nhà chính trị đã chỉ ra được
sự bất cập, lạc hậu của cấu trúc nền kinh tế và mô hình tăng trưởng hiện
tại của Việt Nam. Kết luận của Hội nghị Trung ương 3, Khoá XI họp
từ ngày 6-10/10/2011 tại Hà Nội và Nghị quyết số 11/2011/QH13 của
Quốc hội về Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2012, đã ra đời kịp thời,
tiếc là công tác triển khai vẫn hầu như “giậm chân tại chỗ”.
Những yếu kém, bất cân đối nội tại của nền kinh tế trong nước do
năng lực bất cập trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ những năm

qua, chính là căn nguyên của thực trạng nợ xấu ngân hàng ngày nay.
Bảng 1. Tốc độ tăng cung tiền, tín dụng và lạm phát giai đoạn 2006-2011
Năm

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Tốc độ tăng tín dụng

25%

49%

23%

38%

31%


14%

8.91%

Tín dụng/GDP danh nghĩa

63%

90%

86%

105%

115%

103%

97%

Tốc độ tăng M2

32%

41%

20%

28%


30%

12%

22.4%

M2/GDP danh nghĩa

97%

116%

108%

123%

134%

115%

131%

Lạm phát

6,6%

12,6%

19,9%


6,5%

11,8%

18,1%

6,81%

Nguồn: GSO, NHNN, Tác giả tổng hợp.

596


Hình 2. Tăng trưởng tín dụng và lạm phát

Nguồn: GSO, NHNN, Tác giả tổng hợp.

Đi sâu thêm, Bảng Tốc độ tăng cung tiền, tín dụng và lạm phát giai
đoạn 2006-2012 và Hình Tăng trưởng tín dụng và lạm phát của Việt
Nam giai đoạn từ đầu năm 2008 tới nay cùng chỉ ra, khi tín dụng tăng
trưởng “nóng” vượt xa khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, lạm phát
tất yếu sẽ bùng phát sau một “độ trễ” nhất định. Ngược lại, khi tín dụng
suy giảm, nếu trầm trọng và kéo dài, sẽ dẫn tới nguy cơ giảm phát và
đình trệ kinh tế, đi kèm là tình trạng nợ xấu nổi lên.
Thực tế những năm trước đây, khi chính sách tiền tệ (CSTT) khá
lỏng lẻo, tín dụng tăng trưởng với tốc độ bình quân gần 30%/năm trong
suốt thập kỷ 2000-2010, thậm chí đạt tới mức trên 50% trong năm 2007
và nửa đầu năm 2008, thành tích “tăng trưởng kinh tế thần kỳ” chủ yếu
nhờ đó có được, đã phải trả giá bằng mức lạm phát cao và kinh tế vĩ mô
bất ổn kéo dài sau đó. Nguồn vốn tín dụng dồi dào, dễ dãi, trong bối

cảnh khả năng hấp thụ của nền kinh tế có hạn, tất yếu đã giúp thổi phồng
“bong bóng” BĐS và chứng khoán. Một khi tốc độ tăng trưởng tín dụng
tiếp tục cao từ năm này qua năm khác, nợ vay được “luân chuyển” và
dòng tiền ra vào ngân hàng vẫn “bình thường” nên căn bệnh thanh khoản,
đằng sau là nợ xấu, chưa bị bùng phát. Nó chỉ tạo nên những “cơn sốt”
nhất thời trên thị trường tiền tệ và sớm thuyên giảm khi NHNN cho uống
thuốc “hạ sốt” bằng cách tăng mạnh cung tiền qua các kênh như nghiệp
vụ thị trường mở, tái cấp vốn, cho vay qua đêm, cung ra VND để mua
vào ngoại tệ v.v... hoặc khi có dòng tiền quay lại hệ thống NH.
597


Năm 2011, CSTT chặt chẽ để kiềm chế lạm phát của NHNN (theo
Nghị quyết 11/2011/NQ-CP) đã khiến cho vấn đề thanh khoản của các
NH “nóng” hầu hết năm và trở nên “sốt cao” từ khi có sự kiện NHNN
tái áp đặt trần lãi suất (Chỉ thị 02/CT-NHNN, tiếp theo là Thông tư
30/2011/TT-NHNN). Sau hơn 5 tháng thanh khoản hệ thống trao đảo,
từ khoảng tháng 3/2012 tới nay, một tình trạng đối nghịch với “sốt cao”
là “cảm lạnh” bất ngờ diễn ra. Thay vì phải cho uống thuốc “hạ sốt”,
NHNN đã buộc phải cấp tập dùng thuốc “tăng huyết áp” nhằm ổn định
lại “thể trạng” hệ thống.
Đằng sau hiện tượng “thanh khoản” trồi sụt vừa qua thực chất là
vấn đề chất lượng tài sản ngân hàng - nợ xấu. Rõ ràng, “khối u” hay
“cục máu đông” này đã làm ngẽn “mạch” tín dụng cho nền kinh tế.
Ngược lại, khi thanh khoản của nền kinh tế bị ách tắc (thể hiện ở chỉ
số hàng tồn kho tăng cao, tình trạng nợ nần, chiếm dụng vốn lẫn nhau
gia tăng v.v...) lại làm cho các dòng tiền ra vào hệ thống NH trở nên bất
bình thường.
Dấu hiệu rõ nét của sự “bất bình thường” ở trên là, tín dụng tăng
trưởng âm suốt nửa đầu năm 2012 và vẫn trong tình trạng đình trệ tới nay,

trong khi nhiều ngân hàng bị ứ thừa vốn khả dụng và chỉ tiêu tăng trưởng
tín dụng năm được NHNN giao cho gần như không được sử dụng190.
Những ngân hàng bị bế tắc “đầu ra” trên thị trường tín dụng và cả trên thị
trường liên gân hàng này, buộc phải tìm đến kênh đầu tư trái phiếu chính
phủ (TPCP) và các loại giấy tờ có giá (GTCG) ít rủi ro khác.
Đáng lưu ý là hệ thống ngân hàng hiện đang nắm giữ ước tính tới
trên 80% tổng lượng TPCP đang lưu hành. Điều này có 3 hàm ý: (1)
Chính phủ đã động viên một nguồn tài lực lớn ngay từ hệ thống NHTM,
thay vì từ các định chế tài chính khác, các tổ chức kinh tế và dân cư, để
đầu tư cho khu vực công, làm nguồn vốn tín dụng dành cho khu vực tư
bị thu hẹp;191 (2) NHNN, ở mức độ nhất định và giác độ nhất định, thực
chất đã phải tài trợ gián tiếp cho thâm hụt ngân sách nhà nước (thông
190Kết quả tăng trưởng tín dụng năm 2012 đạt được 8,91% chủ yếu nhờ nhóm “tứ đại” bốn
NHTMNN với sự hậu thuẫn của NHNN.
191Cái gọi là “hiệu ứng chèn lấn - crowding out effect”.

598


qua việc cho vay cầm cố, chiết khấu TPCP v.v... cho các NHTM), góp
phần gây lạm phát cao thời gian qua; và (3) hệ thống NHTM đang đánh
mất vai trò trung gian tài chính vốn có của mình - tập trung nguồn vốn
tạm thời nhàn dỗi và dẫn vốn đó đến các dự án sản xuất kinh doanh hiệu
quả. Đây chính là nguy cơ tiềm ẩn, tiếp tục đẩy nền kinh tế chìm sâu
hơn trong vòng xoáy bất ổn.
III. Giải quyết nợ xấu ra sao?
Trước tiên cần thiết phải khẳng định lại, nợ xấu ngân hàng không
còn là câu chuyện của từng ngân hàng riêng lẻ; nó đã trở thành vấn đề
của Hệ thống, vấn đề của Quốc gia, vì vậy nhất thiết phải được nhìn
nhận, xử lý ở “tầm quốc gia” và cần xử lý một cách kiên quyết, dứt điểm

để giảm thiểu phí tổn cho nền kinh tế.
Như đã trình bày ở các phần trước, “khối u” nợ xấu ngân hàng
chính là căn nguyên của thực trạng hệ thống ngân hàng và thị trường
tiền tệ hiện nay. Cơ chế dẫn tới sự hình thành khối u này suy cùng nằm
chính ở những khiếm khuyết trong hoạch định và điều hành kinh tế vĩ
mô nhiều năm qua. Đây là hệ lụy tất yếu của những sự yếu kém, sơ hở,
lơ là hay buông lỏng quản lý, giám sát của bộ máy nhà nước trong một
thời gian dài, bên cạnh nguyên nhân khách quan đến từ môi trường
quốc tế bất lợi. Và như vậy, hiển nhiên Chính phủ (đằng sau trước hết là
NHNN) chứ không phải ai khác, vì sự an nguy của hệ thống các TCTD,
vì sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, phải đứng ra chịu trách
nhiệm “cắt bỏ khối u ác cũng như ngăn chặn nguy cơ hình thành trở lại
khối u mới”. Nguồn tài lực để xử lý nợ xấu trước hết phải là công quỹ
quốc gia, trước khi tính đến chuyện quy kết, trừng phạt những tổ chức,
cá nhân cụ thể nào đó đã làm bậy, gây ra hậu quả tệ hại như đã đề cập.
Bằng chứng thực nghiệm quốc tế cũng như những tiền lệ đã có ở Việt
Nam, chứng minh rất rõ điều này.
Công luận đã từng có rất nhiều ý kiến, quan điểm mang tính đa chiều
xoay quanh việc xử lý nợ xấu ngân hàng, tập trung vào các khía cạnh như:
chi phí thực hết bao nhiêu? lấy từ đâu? cơ chế và phương thức xử lý nợ?
kỹ thuật định giá khoản nợ? tổ chức và hoạt động của đơn vị trực tiếp xử
599


lý nợ xấu ngân hàng? v.v... Tác giả cho rằng: không có phương án nào là
hoàn hảo, chỉ có giải pháp “tốt thứ nhì”; nền kinh tế phải chấp nhận trả
giá cho những sai lầm, yếu kém, buông lỏng của các cơ quan quản lý hữu
trách; càng chần chừ, do dự, né tránh bao nhiêu, cái giá phải trả sẽ lớn bấy
nhiêu.192 Chúng ta buộc phải đối diện với vấn đề gai góc này mà không
có sự lựa chọn nào khác, cho dù thấy trước nguy cơ vỡ lở nhiều chuyện

“khuất tất” đang còn ẩn giấu, khi tiến hành “phẫu thuật cắt bỏ khối u”.
Cũng đã có rất nhiều giải pháp năng nổ, linh hoạt để xử lý tình
trạng nợ xấu ngân hàng được các chuyên gia kinh tế hay các hoạch định
chính sách đưa ra thời gian qua, như: (i) buộc chính các NHTM phải
chịu trách nhiệm và tích cực, chủ động xử lý nợ xấu của mình đi đôi với
các biện pháp cần thiết để hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai; (ii)
Chính phủ hoặc NHNN phối hợp với các bộ ngành liên quan, ban hành
các cơ chế chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho cả phía ngân hàng lẫn
khách hàng của NH và thị trường193, cũng như có các quy định chặt chẽ
hơn nhằm ngăn chặn nguy cơ nợ xấu tái gia tăng; (iii) thành lập Công ty
quản lý tài sản Quốc gia (VAMC) để xử lý nợ xấu; v.v... Tương tự như
với phần vạch ra căn nguyên sâu sa của thực trạng nợ xấu, Bài viết thay
vì tiếp tục đề cập đến các giải pháp xử lý cụ thể và trực diện đang được
bàn thảo nhiều, sẽ tập trung vào 5 giải pháp có vẻ hơi “xa đề” nhưng
được cho là có tính căn cơ, dài hạn194: (1) thiết lập hạ tầng tài chính
vững chắc; (2) xiết chặt lại các quy chế điều tiết; (3) vận hành tối đa
thể chế thị trường; (4) tăng cường pháp chế; và (5) giải pháp sau cùng
- “giải pháp của các giải pháp”, đề cập đến một khía cạnh sâu xa nhưng
hết sức nhạy cảm, thường bị giới tham mưu, tư vấn và hoạch định, thực
thi chính sách né tránh, đó chính là vấn đề “con người”.
192Giá phải trả ở đây không chỉ là số tiền tuyệt đối phải bỏ ra, mà còn là chi phí cơ hội của số
tiền đó và của toàn nền kinh tế. Bên cạnh là sự mất mát có thể có về cán bộ và đặc biệt là sự
khủng hoảng lòng tin của thị trường.
193Xử lý nợ xấu gắn liền với giải phóng hàng tồn kho và quan trọng nhất là cho thị trường BĐS.
Như vậy, để khơi thông dòng tiền đồng thời với dòng luân chuyển hàng hóa trong nền kinh tế,
các giải pháp “kích mồi có kiểm soát” được cho là hữu hiệu nhất.
194Thực ra, theo logic của vấn đề, các giải pháp đề xuất cần tập trung xử lý căn nguyên gây ra
nợ xấu như đã chỉ ra trong Phần II. Tuy nhiên, nếu làm vậy, đó phải là những chương trình, dự
án cải tổ tầm quốc gia. Thay vì làm thế, bài viết lựa chọn năm khía cạnh liên quan, được cho là
mang tính nền tảng, căn cơ, dài hạn để đề xuất thành các giải pháp của bài.


600


Do khuôn khổ bài viết có hạn, nhóm giải pháp được đề cập mới
dừng lại ở mức lựa chọn cách tiếp cận đúng, chỉ ra các “huyệt đạo” và
nêu quan điểm xử lý vấn đề. Để các giải pháp như vậy được bàn thảo
một cách thấu đáo, đòi hỏi có thêm các nghiên cứu chuyên sâu hơn cho
từng vấn đề riêng lẻ, nằm ngoài phạm vi Bài viết này.
(1) Thiết lập hạ tầng tài chính vững chắc
Hạ tầng tài chính bao hàm: các chuẩn mực, quy tắc, quy định về
kế toán, kiểm toán, về quản trị doanh nghiệp; các hệ thống thanh toán;
khuôn khổ pháp lý điều tiết và giám sát hoạt động của thị trường tài
chính nói chung, thị trường tiền tệ nói riêng v.v... nhằm tới mục tiêu hỗ
trợ cho hệ thống tài chính hoàn thành tốt vai trò trung gian tài chính của
mình, bảo đảm về tốc độ và chi phí chu chuyển vốn, về khả năng truyền
tải và phân tán rủi ro tài chính.
Một hạ tầng tài chính vững mạnh rõ ràng là điều kiện tiền đề
quan trọng bảo đảm cho các định chế tài chính (quan trọng nhất là các
NHTM) hoạt động tốt và các thị trường tài chính (bao gồm thị trường
tiền tệ) vận hành trôi chảy. Cũng như thế, các cơ quan điều tiết và giám
sát tài chính-ngân hàng mới có môi trường hoạt động cần thiết để phát
huy đầy đủ vai trò của mình. Ngược lại, như thành ngữ “dao sắc không
bằng chắc kê”, thiếu một hạ tầng tài chính vững chắc, các cơ quan điều
tiết và giám sát tài chính-ngân hàng dù cố gắng nhưng có thể vẫn thất
bại khi thực thi sứ mệnh của mình. Không ai khác, chính Chính phủ và
các cơ quan giúp việc liên quan như NHNN, Bộ Tài chính v.v... phải
đảm đương vai trò thiết lập hạ tầng tài chính vững mạnh cho hệ thống
TCTD có thể hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả.
(2) Xiết chặt các quy chế điều tiết

Vấn đề xiết chặt các quy chế điều tiết để bảo đảm “an toàn hệ
thống” sẽ luôn được đặt lên trước hết bất kể khi nào hệ thống ngân hàng
phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao, bao gồm cả các mối đe dọa như
“hoảng loạn”, “đổ vỡ”, “khủng hoảng”.195
195Chu

kỳ có tính quy luật “Regulation - Deregulation - Reregulation”.

601


Nhằm ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ hệ thống xuất hiện tầm cuối năm
2011, Chính phủ đã nhanh chóng đưa ra tuyên bố “bảo vệ 100% các
khoản tiền gửi của công chúng”. Đây là một phản ứng đúng, kịp thời và
tối cần thiết. Tuy nhiên, động thái chính sách “bảo đảm không để bất kỳ
một TCTD nào bị đổ vỡ” thì đã đến lúc cần phải được điều chỉnh lại.
Có thể “tiền thuế của dân” cuối cùng phải đổ ra để trang trải mọi khoản
tiền gửi của công chúng muốn được rút, nhằm tránh không để xảy ra
một cuộc hoảng loạn ngân hàng - “hiệu ứng đô-mi-nô”. Nhưng khi thực
trạng từng TCTD đã bị phơi bày, những định chế nào đã rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán (insolvent) mà không có khả năng hồi
phục (trừ trường hợp “quá lớn không cho vỡ - too big to fail”), cần thiết
phải bị “đóng cửa” (những “thây ma - zombie” phải được “chôn” để
tránh làm hoại tử các phần còn lành mạnh khác của cơ thể)196.
Tiếp theo, mọi quy chế điều tiết quan trọng khác, như các quy định
về tỉ lệ an toàn hoạt động NH (đặc biệt là hệ số an toàn vốn tối thiểu
- CAR), về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, về cho phép lưu
hành một sản phẩm, công cụ tài chính mới hay chấp thuận cho mở rộng
quy mô, phạm vi, lĩnh vực hoạt động mà mức độ rủi ro của chúng chưa
được lượng định đầy đủ và bảo đảm đủ năng lực kiểm soát (tình trạng

“quá lớn để quản lý - too big to manage”)197 v.v... đều cần được xem
xét, đánh giá lại một cách nghiêm khắc và phải được xiết chặt hơn mức
“bình thường”198.
(3) Vận hành tối đa thể chế thị trường
“Thế kiềng 3 chân” - quản trị doanh nghiệp tốt; cơ chế kỷ luật
thị trường phát huy tác dụng đầy đủ; các cơ quan quản lý, giám sát thị
trường tài chính - ngân hàng hoạt động hiệu quả, cần được phát triển
một cách cân bằng. Việc quá dựa dẫm vào “tuyến phòng thủ số 1” - Hệ
196Về mặt học thuật, NHTW chỉ tới cứu trợ các ngân hàng mất thanh khoản (illiquid) nhưng
phải còn khả năng thanh toán (solvent). Tuy nhiên, trên thực tế, trong tình thế nguy nan và chưa
thể phân biệt rành mạch được hai trạng thái này, đặc biệt ở những quốc gia mà sự phối hợp giữa
các cơ quan hữu trách trong mạng lưới an toàn tài chính (safety net) là yếu kém, lỏng lẻo, các
NHTW thường buộc phải ra tay bơm thanh khoản cứu trợ trước - “phương sách cho vay cứu
cánh cuối cùng - Lender of last resort”.
197Một lĩnh vực nhạy cảm đang được bàn luận nhiều là hoạt động đầu tư (investment banking).
198Các bằng chứng thực nghiệm về xử lý khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu 2008 cũng
như giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu hiện nay, chứng minh rất rõ điều này.

602


thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ/hệ thống quản lý rủi ro
của từng TCTD (theo nguyên tắc quản trị doanh nghiệp tốt) trong khi
năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan điều tiết và giám
sát hữu trách còn yếu kém và thường “đi rất sau” thị trường, lại đặt
trong bối cảnh “kỷ luật thị trường” chưa phát huy tác dụng thực sự, là
một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện trạng yếu kém của hệ thống
TCTD nói chung, nợ xấu nói riêng. Như đã trình bày, sự phát triển quá
“nóng” trong một thời gian dài của hệ thống TCTD đối lập với năng
lực quản trị điều hành nội bộ các TCTD và đặc biệt là tình trạng quản

lý, thanh tra, giám sát yếu kém hoặc chủ quan, sơ hở, thiếu minh bạch,
cùng với một thể chế thị trường “nửa vời”, đã dẫn tới sự tích tụ rủi ro
hệ thống đủ lớn, tạo nguy cơ đổ vỡ dây chuyền mà chi phí cứu chữa nó
sẽ vô cùng lớn.
Rõ ràng, trong khi năng lực quản trị điều hành nội bộ các TCTD
lẫn năng lực điều tiết và giám sát ngân hàng của các cơ quan hữu trách
chưa thể được cải thiện một sớm một chiều và đòi hỏi cần có nguồn tài
lực lớn để đầu tư, cần thiết để cho cơ chế thị trường được vận hành một
cách thực sự hơn, đầy đủ hơn. Đây là cách thực tế nhất, nhanh mang lại
hiệu quả với chi phí thấp nhất.
(4) Tăng cường pháp chế
Pháp chế, như đã được biết, là một chế độ và trật tự pháp luật trong
đó tất cả các chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý đều phải tôn trọng
và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng là
việc các cơ quan nhà nước liên quan, bao gồm NHNN và các đối tượng
bị quản lý là các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức có
hoạt động ngân hàng, mọi tổ chức kinh tế và công dân, đều phải tuân
thủ nghiêm các quy định pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Ghi nhận một thực tế là chúng ta đã buông lỏng pháp chế một thời
gian dài. Chưa bao giờ hoạt động tiền tệ - ngân hàng lại hỗn loạn, vô tổ
chức như những năm vừa qua. Tình trạng “lách luật”, thao túng, lũng
đoạn thị trường, hiện tượng gian dối số liệu sổ sách và báo cáo v.v...
diễn ra phổ biến. Và cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng nhiều lúc đã
603


tỏ ra “bất lực”, “buông xuôi” hay bị “vô hiệu hóa” 199. Hệ quả là lòng
tin của thị trường bị đổ vỡ, đe dọa khủng hoảng ngân hàng200. Thực ra,
những yếu kém của hệ thống ngân hàng đã tồn tích một thời gian dài

trước đây và tất yếu sẽ “bục” ra khi bối cảnh kinh tế vĩ mô xấu đi, bong
bóng tài sản xì vỡ.
(5) Giải quyết vấn đề “con người”
Mọi yếu kém, mọi nguyên nhân suy cùng là ở vấn đề “con người”.
Trong khi chúng ta chưa thể “thay được máu” hoặc thiết lập lại cơ chế
“lọc máu” hữu hiệu, thì việc “làm loãng máu” hay “cô lập phần máu độc”,
cần thiết phải làm ngay. Công khai minh bạch, tăng cường trách nhiệm
giải trình, áp dụng tối đa công nghệ thông tin hiện đại trong mọi quy trình
tác nghiệp, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro đạo đức có thể phát
sinh, có thể được coi là “giải pháp của mọi giải pháp”. Các chủ trương,
chính sách, giải pháp dù hay bao nhiêu vẫn có thể bị phi hiệu lực, phi hiệu
quả, thậm chí phản tác dụng do lỗi của người thực thi - trình độ, năng lực
hạn chế, thái độ hành xử không đúng, đạo đức nghề nghiệp thoái hóa.
IV. Thay cho lời kết
Chính phủ đang trong tình thế lưỡng nan để giải quyết các khó
khăn ngày càng chồng chất của nền kinh tế, trong đó có vấn đề nợ xấu.
Các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô chủ yếu là chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa đều đã được vận hành hết công suất, đang hoặc sắp
cạn kiệt dư địa hoặc trở nên kém hiệu lực, hiệu quả. Các giải pháp về
phía cung cũng đã được hoạch định và bước đầu thực thi nhưng kết quả
dự kiến mang lại chắc chắn còn là câu chuyện trong dài hạn.
199Thống đốc NHNN đã phải thừa nhận như vậy tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII. Việc ra
tay tái áp đặt trần lãi suất huy động vốn hồi đầu tháng 9/2011 là bước đi đầu tiên của NHNN
nhằm khôi phục lại pháp chế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
200Cung cách điều hành của NHNN gần đây đã có sự thay đổi cơ bản: “nói” đi đôi với “làm”;
dứt khoát và quyết liệt; chủ động, bài bản và có lộ trình tương đối rõ ràng; có “dự lệnh” trước
khi ra “động lệnh” nhằm hạn chế gây “sốc” cho thị trường; tính công khai, minh bạch được cải
thiện đáng kể v.v... Những điều này cùng với thành tích giữ được tỉ giá bình ổn suốt từ cuối năm
2011 đến nay, đã giúp củng cố đáng kể lòng tin của công chúng. Đây là tư duy và chủ trương
rất đúng, rất đáng trân trọng, cần được kiên định thực hiện, nếu nhà điều hành coi trọng lòng tin

thị trường và thực sự muốn khôi phục nó, duy trì nó.

604


NHNN cũng trong tình cảnh tương tự - phải theo đuổi những mục
tiêu xung đột với nhau hay phải thực thi một số nhiệm vụ bất khả thi.
Nói một cách ví von cho tình thế này: “Con người ta không thể chạy
nhanh bằng một chân”. Vì vậy, thông điệp “Giải quyết những khó khăn
của nền kinh tế Việt Nam nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng không chỉ
là trách nhiệm của ngành ngân hàng mà là của toàn bộ hệ thống chính
trị” mà NHNN mới phát đi đầu năm nay, cần được thấu hiểu và chia
sẻ rộng rãi, làm điều kiện tiền đề để NHNN nói riêng, toàn ngành ngân
hàng nói chung, có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Quốc hội
và Chính phủ giao.
Cuối cùng, vẫn cần thiết phải khẳng định lại rằng: Trong bối cảnh
thể chế kinh tế-chính trị của Việt Nam rất chậm thay đổi, nói đúng hơn
là chưa thể thay đổi trong ngắn hạn, ngay cả dù cấu trúc nền kinh tế và
mô hình tăng trưởng kinh tế đang tỏ ra lỗi thời; với hiện trạng nền kinh
tế thực yếu kém, năng lực điều hành kinh tế vĩ mô bất cập, đang ngày
càng bộc lộ nhiều khuyết tật từ khi Việt Nam mở cửa và hội nhập sâu
hơn vào nền kinh tế thế giới, chúng ta cần dũng cảm chấp nhận sự tồn
tại của một hệ thống ngân hàng “lành mạnh, hoạt động an toàn, hiệu
quả” (với mức nợ xấu trong ngưỡng kiểm soát) theo nghĩa tương đối,
phù hợp với thời kỳ quá độ chuyển đổi kinh tế của chúng ta. Mọi mục
tiêu đặt ra cao hơn mức này đều mang tính huyễn hoặc, khẩu hiệu, sẽ
làm phi khả thi hệ thống chính sách và giải pháp thực hiện.
Diễn đạt bằng cách khác, với việc lựa chọn cách tiếp cận “từ từ”, sẽ
né tránh được sự đổ vỡ, tuy nhiên chi phí cũng như thời gian cần thiết
cho sự phục hồi hẳn cũng sẽ rất “dài dài”.


605


Tài liệu tham khảo
1. Maritime Bank - các Báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam định
kỳ.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Báo cáo thường niên các năm
từ 2004-2010.
3. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia - Kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2006-2011 và triển vọng 2012-2015.
4. Ủy ban Kinh tế Quốc hội và UNDP tại Việt nam, tháng 5/2012
- Báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2012: “Từ bất ổn vĩ mô đến cơ
hội tái cơ cấu nền kinh tế”.
5. Thống đốc NHNN: Có cơ sở để đưa ra 3 gói bơm tiền, 22/2/2013
6. Vũ Quang Việt, 23/1/2013, Khủng hoảng và hệ thống tài chính
tín dụng - Phân tích ứng dụng với kinh tế Mỹ và Việt Nam.

606



×