Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC GIÁO DỤC KĨ NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 6 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

------------

PHẠM THỊ HỒNG NHUNG

SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC GIÁO DỤC
KĨ NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

------------

PHẠM THỊ HỒNG NHUNG

SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC GIÁO DỤC
KĨ NĂNG TỰ BẢO VỆ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
Chuyên ngành: Giáo dục học (Giáo dục mầm non)
Mã số: 60.14.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lã Thị Bắc Lý


HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Lã Thị Bắc Lý, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô khoa Giáo dục mầm non, trường
Đại học sư phạm Hà Nội đã giảng dạy, tạo mọi điều kiện cho em học tập,
nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu trường mầm non
Hoa Sen, trường mầm non Bích Đào (Ninh Bình); trường mầm non
KinderWorld, trường mầm non Hoa Hồng, trường mầm non Wakodo Việt
Nhật, trường mầm non Tuổi Thơ (Hà Nội) và các giáo viên đã cộng tác, giúp
đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, động viên giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, tháng 8 năm 2014
Tác giả

Phạm Thị Hồng Nhung


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
GDKNTBV
GV
MN
TN
ĐC
MG


LQVH
TPVH

Giáo dục kĩ năng tự bảo vệ
Giáo viên
Mầm non
Thực nghiệm
Đối chứng
Mẫu giáo
Hoạt động
Làm quen văn học
Tác phẩm văn học


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Trẻ mầm non là thế hệ tương lai của đất nước. Việc chăm sóc và
giáo dục nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ là nhiệm vụ hàng đầu
của trường mầm non. Ở lứa tuổi này, do chưa hoàn thiện về thể chất, trí tuệ
cũng như tình cảm xã hội, vì thế trẻ dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động từ môi
trường xung quanh theo hai chiều hướng: tiêu cực và tích cực. Xã hội hiện đại
luôn thay đổi với tốc độ chóng mặt cùng biết bao cám dỗ, việc giáo dục cho
trẻ những kỹ năng ứng phó trước mọi tình huống, biết quản lý cảm xúc, học
cách giao tiếp, ứng xử với những người xung quanh, giải quyết mâu thuẫn
giữa các mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh là
yêu cầu luôn đặt ra cho các nhà giáo dục, nhất là giáo dục mầm non.

1.2 Văn học là phương tiện vạn năng giúp trẻ trải nghiệm những kinh
nghiệm sống và cách ứng xử trong cuộc sống. Thông qua văn học, trẻ hiểu
được nền tảng giá trị sống, biết sử dụng nguồn tri thức hợp lý, trẻ biết tôn
trọng bản thân và người khác, biết hợp tác và duy trì tình đoàn kết trong các
mối quan hệ, thích ứng trước những đổi thay và tình huống nguy hiểm thường
trực trong cuộc sống, mang lại lợi ích cho bản thân và xã hội. Bản thân mỗi
đứa trẻ chưa được trực tiếp trải nghiệm tất cả những tình huống xảy ra trong
cuộc sống hằng ngày nhưng nhờ có văn học với chức năng phản ánh chân
thực mọi khía cạnh của cuộc sống, trẻ được trang bị những tri thức để tự tin
bước vào đời. Trẻ vận dụng những điều được học một cách linh hoạt và đúng
đắn khi gặp phải các tình huống trong cuộc sống.
1.3 Hiện nay ở các trường mầm non, việc đưa tác phẩm văn học vào
giáo dục cho trẻ các kĩ năng nói chung và kĩ năng tự bảo vệ nói riêng chưa
phong phú. Việc giáo dục kĩ năng cho trẻ còn bó hẹp trong phạm vi trường
lớp, trong hoạt động chủ đạo nên mục đích giáo dục và nội dung giáo dục kĩ
1


năng tự bảo vệ cho trẻ chưa mang tính chuyên biệt. Đối với trẻ 5 – 6 tuổi, nhu
cầu tìm hiểu về môi trường xã hội vô cùng mạnh mẽ, trẻ thích được thể hiện
mình trong các mối quan hệ với những người xung quanh và tính tự lập thể
hiện ở trẻ giai đoạn này rất rõ nét. Việc trang bị cho trẻ vốn kĩ năng tự bảo vệ
trước các mối quan hệ xã hội để trẻ phát triển an toàn, lành mạnh là yêu cầu
đặt ra đối với nhà trường mầm non. Các hoạt động giáo dục tích hợp hằng
ngày ở trường mầm non diễn ra luôn đem lại trải nghiệm bổ ích cho trẻ. Tâm
lí chung của trẻ mầm non rất thích tiếp xúc với thơ văn, chúng tìm đến thơ
văn với một niềm say mê, háo hức lạ thường. Vì vậy, việc sử dụng tác phẩm
văn học để tạo một môi trường giáo dục phong phú sẽ góp phần làm đẹp tâm
hồn cho trẻ và qua đó giúp trẻ mở rộng vốn kinh nghiệm sống, phát triển nhân
cách một cách toàn diện.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn : “Sử dụng tác phẩm
văn học giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” làm đề tài để
nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về GD KNTBV
2.1.1. Trên thế giới
Sigmund Freud là người đầu tiên đề cập tới giáo dục kĩ năng tự bảo vệ
(GDKNTBV) nhưng ông chưa phân loại và nghiên cứu một cách có hệ thống
về vấn đề này.
Anna Freud – con gái của Sigmund Freud đã tiếp tục nghiên cứu và mở
rộng vấn đề GD KNTBV trong tác phẩm rất nổi tiếng của mình: “ Ego and
mechanisms of defense” được xuất bản năm 1936. Theo Anna Freud, con người
có những cơ chế tự bảo vệ và cần tác động để tích cực hóa các cơ chế sau:
- Sự đè nén (dồn nén): là gạt bỏ, đẩy ra ngoài vòng ý thức những cảm
nghĩ hình tượng nếu gợi lên thì khó chấp nhận, không thể chịu được. Nội
2


dung những ý nghĩa hình tượng ấy thường gắn với tình dục hoặc hung tính,
không được dư luận xã hội tán thưởng. Theo tác giả Jo.Godefroid, dồn nén là
nén vào vô thức sự ham muốn hoặc tình huống xung đột – một sự quên chủ
động vẫn duy trì toàn bộ thế năng động lực xung năng bị dồn nến và hình
thành kĩ năng tự bảo vệ.
- Sự phóng chiếu: “Phóng chiếu là phóng lên, gán cho người khác
những tình cảm mà siêu tổng mình không chấp nhận” hoặc “phóng lên, gán
cho người khác những cảm xúc, ham muốn mà không thể chấp nhận của
chính bản thân”. Phóng chiếu là một cơ chế tự bảo vệ nhằm giữ thăng bằng
cho bản thân. Chúng ta gán cho người khác những ý nghĩ, lỗi lầm của mình,
đổ lỗi cho người khác khi chúng ta phạm lỗi, trách người khác về những xu
hướng của chúng ta. Phóng chiếu giúp cho chúng ta tránh được sự lo hãi gây

ra do sự thừa nhận những ham muốn không thể nói ra của bản thân.
- Sự né tránh: thể hiện là chúng ta không chối bỏ thực tế nhưng chúng
ta né tránh sự thật, tưởng tượng sáng tạo và huyễn hoặc về chúng, điều này
vượt quá giới hạn sẽ trở thành sự trốn thoát thực tế.
- Sự đền bù (bù trừ): “là một quá trình tâm lý thúc đẩy một số người
muốn khắc phục những yếu kém về thân thể hoặc tâm trí của mình” hoặc dễ
hiểu hơn là “khi cảm thấy yếu kém ở một vấn đề hoặc lĩnh vực nào đó, ta sẽ
vượt lên ở một cái khác để bù trừ” nhằm tự bảo vệ bản thân.
- Sự viện lý: là sự viện lý lẽ không đúng sự thật nhưng có vẻ logic,
được xã hội chấp nhận để giải thích, thanh minh cho hành động hay cảm xúc
không hay của mình. - Sự di chuyển: là chuyển cảm xúc, phản ứng từ đối
tượng này sang đối tượng khác nhằm thay thế mục đích ban đầu không thực
hiện được bằng một mục đích có thể đạt được.
- Sự thoái bộ (thoái lùi): được hiểu là khi được đặt trong một tình huống
hẫng hụt, cá nhân bất kể độ tuổi nào đều rơi vào phản ứng như trẻ con hoặc một
3


cách rõ ràng hơn là sự né tránh căng thẳng tức giận bằng những biểu hiện của trẻ
thơ như nhõng nhẽo, mút tay, giậm chân, la hét, mách người lớn…
- Đồng nhất hoá: là cơ chế qua đó ta chấp nhận cách thức ứng xử của
một người mà chúng ta ngưỡng mộ như một hình mẫu. Cơ chế này giúp
chúng ta được người khác chấp nhận khi vào nhóm.
- Sự thăng hoa: là quá trình mà những xung lực bản năng không được
thoả mãn trực tiếp đem đầu tư vào những hoạt động được xã hội đề cao như
nghệ thuật, khoa học, sự nghiệp xã hội, tôn giáo, là một dạng chuyển di mang
đến sự thoả mãn thực sự. Đó là sự chấp nhận những ứng xử hướng tới một
mục đích cao cả thay cho một mục đích ban đầu không đạt được. Từ đó cá
nhân đã lựa chọn một nghề nghiệp mà mình cảm thấy thoải mái, đạt được
nhiều thành tựu, được xã hội công nhận, công việc này như mọt thứ thay thế

thoả mãn những xung năng bị phong toả ở thời thơ ấu.
- Sự huyễn tưởng: Huyễn tưởng theo nghĩa thông thường là những hình
ảnh, biểu tượng do trí tưởng tượng tạo ra lúc thức hay ngủ. Huyễn tưởng dành
cho những câu chuyện vô thức đặc biệt của thời tấm bé, chủ thể trên cách
vượt qua áp lực của thực tế, tạo ra những câu chuyện “hoang đường”, người
khác không biết đến nhưng trong quá trình phân tích tâm lý có thể suy ra. Đây
là một cơ chế tự bảo vệ trong quá trình hình thành bản ngã, một cách thoả
hiệp giữa bản ngã và các xung lực bản năng và thực tế. Huyễn tưởng là một
sự chạy trốn thực tế quá khó khăn cần vượt qua trong thế giới hiện thực.
- Sự hợp lý hoá: Là tìm cách lý giải biện minh một hành vi vô lý vô
nghĩa, gán cho những động cơ nguyên nhân có vẻ hợp lý và tìm cho một lý do
xác đáng để biện minh cho việc không thể tiến hành một ứng xử hoặc để giải
thích việc chấp nhận một ứng xử mà không thể chấp nhận được. Đây là một
cơ chế nhằm che đậy những cảm xúc vô thức, chủ thể không thể không chấp
nhận được, nay lý giải như thế nào đã có thể được hiểu, và được chấp nhận,
4


giúp đưa ra lý do bề ngoài có vẻ hợp lý để che dấu lý do, động cơ bên trong
nhằm tự bảo vệ bản thân.
- Sự phủ định (cự tuyệt): là gạt bỏ một ý nghĩa, một biểu tượng và nếu
nó xuất hiện thì xem như không phải do bản thân nghĩ đến; là sự thể hiện
ngược lại bằng vô thức, từ chối thừa nhận sự tồn tại các sự kiện bằng cách
ứng xử của mình.
- Sự hình thành phản ứng: là một cơ chế tự bảo vệ ngược lại ý muốn bị
dồn nén, chủ thể có ý muốn một đàng nhưng thể hiện ra ngoài ngược lại.
Tác phẩm của Anna Freud đã trình bày rõ ràng các định nghĩa về các cơ chế
tự vệ bởi và những cơ chế tự vệ này không chỉ hữu ích trong phương pháp
tiếp cận thân chủ theo trường phái phân tâm học mà còn rất hữu ích trong
công tác tham vấn nói chung. Nhà tham vấn phải hiểu biết rõ và kỹ càng về

các cơ chế này một mặt để phá vỡ cơ chế tự vệ tiêu cực, mặt khác để cho bản
thân đối phương không phòng vệ với thân chủ, từ đó mới tạo được mối quan
hệ thấu cảm với, tiền đề cho quá trình tham vấn hiệu quả diễn ra.
Freud cho rằng dù kĩ năng tự bảo vệ diễn ra trong hành vi bình thường của
con người thì chúng cũng ngăn trở khả năng của con người ứng phó với việc
giải quyết các vấn đề vô thức.
Đến thập niên 80 của thế kỉ XX, vấn đề GD KNTBV cho con người là
một phạm trù thuộc nội dung giáo dục kĩ năng sống (GDKNS) được nhiều
nhà khoa học thế giới quan tâm. Từ năm 1979, các nhà khoa học hành vi
Gilbert, Botvin đã thành lập nên một chương trình GD KNTBV cho giới trẻ
từ 17 đến 19 tuổi. Chương trình đào tạo này nhằm giúp xây dựng ở người học
có khả năng từ chối những lời mời, rủ rê sử dụng chất gây nghiện bằng cách
nâng cao sự tự khẳng định bản thân. Thực ra việc học tập và thực hành các kĩ
năng ấy chỉ là một trong những khía cạnh của chương trình, nhưng có thể coi
như một bước đầu để chương trình GDKNTBV được triển khai rộng rãi trong
5


thời gian kế tiếp. Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỉ XX, một chuỗi các
nghiên cứu lượng giá đã được thực hiện để xem xét, kiểm tra hiệu quả của các
cách tiếp cận phòng ngừa lạm dụng dựa trên mô hình kĩ năng tự bảo vệ.
Tiến sĩ – bác sĩ thần kinh Charles Brenner đã làm rõ và phổ biến một số
lí thuyết về GD KNTBV của nhà phân tâm học Freud. Ông nhấn mạnh rằng
hầu hết mọi thứ đều có thể là 1 sự tự vệ. La hét với ai đó có thể là 1 phòng vệ.
Chơi golf có thể là 1 tự vệ. Tiết kiệm tiền cũng vậy. Hoặc ít nhất thì tất cả
những hoạt động đó có thể bao gồm những kĩ năng tự vệ. Bất kể đó là hoạt
động thể chất hay tinh thần, nếu nó ngăn không cho bạn trải nghiệm về cảm
xúc khó chịu, thì nó là tự vệ.
Sang đến những năm 90 của thế kỉ XX, việc GD KNTBV đã được các
tổ chức quốc tế như Tổ chức văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp

quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên
hiệp quốc (UNICEF) quan tâm chú ý. Trước tiên là một số chương trình của
UNICEF: chương trình “Giáo dục những giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản
trong đó có kĩ năng tự bảo vệ cần giáo dục cho thế hệ trẻ. Đây sẽ là cơ sở cho
việc giáo dục kĩ năng tự bảo vệ ở lứa tuổi mầm non, đưa lĩnh vực này thành
một môn khoa học về giáo dục trẻ trước tuổi đi học.
2.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề GD KNTBV được các nhà nghiên cứu giáo dục
quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu GD KNTBV dưới các góc độ
khác nhau: Triết học, Văn học, Sinh học, Tâm lí học, Giáo dục học…
Trong chương trình của UNICEF năm 1996 “Giáo dục kĩ năng tự bảo
vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài
nhà trường” đã tập trung nhằm vào những chủ đề giáo dục sức khỏe của thanh
thiếu niên do các chuyên gia Úc tập huấn, lực lượng tham dự tập huấn chỉ có
ngành giáo dục và Hội chữ thập đỏ Việt Nam.
6


Đến giai đoạn hai với chương trình “Giáo dục sống khỏe mạnh và kĩ
năng sống” thì nội dung GD KNTBV được phát triển một cách sâu sắc hơn,
cơ bản đối với từng nhóm dối tượng được vận dụng đa dạng hơn. Đó là GD
những KN cần cho việc bảo vệ sức khỏe, phòng tránh các tệ nạn xã hội dành
cho nhóm đối tượng có nguy cơ cao để đương đầu với những thách thức của
xã hội, vận dụng để giải quyết các vấn đề xã hội khác nhau trong tình huống
khác nhau của từng loại đối tượng. Ngoài hai lực lượng trong giai đoạn một,
còn có sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội khác như : Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Tháng 9 năm 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng UNICEF
xây dựng và thực nghiệm chương trình giáo dục mang tên: “Giáo dục
KNTBV cho học sinh THCS”.

Năm 2003, Hội thảo “Chất lượng giáo dục và kĩ năng sống” do UNESCO
tài trợ được tổ chức nhằm làm sáng tỏ hơn vấn đề GD KNTBV ở Việt Nam.
Theo quan điểm của UNESCO, GD KNTBV là năng lực cá nhân học hỏi để
thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Vấn đề
GD KNTBV của tổ chức này dựa trên bốn trụ cột của giáo dục là: Học để biết,
học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định mình.
Như đã thấy, có rất nhiều công trình nghiên cứu về GD KNTBV trên
thế giới và trong khu vực, theo xu hướng mới trong khoa học giáo dục hiện
nay, việc GD KNTBV cho trẻ cũng chính nhằm giúp trẻ có được sự phát triển
nhân cách toàn diện đáp ứng tốt những yêu cầu của con người trong xã hội
mới với nhiều cơ hội và thách thức.
2.2 Những nghiên cứu về việc sử dụng TPVH GD KNTBV
2.2.1. Trên thế giới
Trên thế giới có rất nhiều công trình của các nhà khoa học thuộc các
lĩnh vực khác nhau nghiên cứu về việc sử dụng TPVH giáo dục nhân cách con
người, trong đó một số quan điểm có đề cập tới vấn đề sử dụng TPVH GD
KNTBV.
7


Nhà nghiên cứu Giooc-giơ Đuy-a-men khi nghiên cứu ảnh hưởng của văn
học tới việc giáo dục KNTBV con người đã khẳng định: “Văn học thực sự
không để mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ ta nhận thức, lí
giải cuộc sống. Với mỗi tình huống cuộc sống được phản ánh trọn vẹn trong tác
phẩm, phải đọc và có kĩ năng bảo vệ mình trước bức tranh muôn màu vạn trạng
đó”. (trang3, tác phẩm “Văn chương hiện thực”)
Nhà giáo dục người Ý- Maria Montessori đã đưa ra quan điểm giáo dục
nhấn mạnh đến ba mặt của quá trình phát triển:
- Phát triển trí tuệ, nhận thức, thẩm mĩ.
- Giao tiếp xã hội.

- Phát triển kĩ năng tự bảo vệ bản thân trong sinh hoạt hằng ngày.
Đối với ảnh hưởng của giáo dục tới quá trình phát triển của trẻ, bà nhấn
mạnh: “Sử dụng tác phẩm văn học với ngôn ngữ nghệ thuật đem đến cho trẻ
bài học giáo dục các kĩ năng một cách nhẹ nhàng nhất”.
2.2.2. Ở Việt Nam
Tác giả Trần Quang Hải trong bài báo: “Kho tàng văn học dân giannét đẹp tâm hồn và giáo dục cho người Việt” (trang 4) viết: “ Từ ngàn xưa,
cha ông ta đã quan tâm đến việc dùng văn chương để mang lại bài học giáo
dục sâu sắc về cuộc sống cho con cháu”…. “Từ câu nói, làn điệu là những
đòi hỏi bức thiết trong xã hội, đúc kết những kinh nghiệm sống nhằm giáo
dục kĩ năng bảo vệ mình. Qua thời gian, những câu nói hay, những làn điệu
mượt mà được nhân dân sưu tập và gìn giữ trong kho tàng văn học”.
PGS- TS Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn
học phát biểu: “Văn học là câu nói triết lí, bao hàm một nội dung giáo dục
nào đó. Qua thời gian, nó không nhạt phai như lời nói suông mà được lưu giữ
thành vần điệu, mọi người có thể thêm vào hoặc bớt đi để ứng với hoàn cảnh

8


cụ thể, mang lại bài học giáo dục thấm thía.”(trích “Đàm đạo giá trị văn
học” báo Văn nghệ)
Như vậy, trên thế giới cũng như trong nước đã có khá nhiều các tổ
chức, các nhà tâm lí, giáo dục học quan tâm nghiên cứu về vấn đề GD
KNTBV. Kết quả của những công trình nghiên cứu này có ý nghĩa lí luận và
thực tiễn to lớn, có tác dụng định hướng trong việc lựa chọn nội dung, biện
pháp, hình thức GD KNTBV cho trẻ. Về vấn đề sử dụng TPVH GD KNTBV
chỉ mới được đề cập mà chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu. Đối
tượng nghiên cứu của đề tài “Sử dụng TPVH GD KNTBV cho trẻ MG 5-6
tuổi” cũng chưa có. Trong khi đó, trẻ 5-6 tuổi là giai đoạn tiền Tiểu học,
chuẩn bị có những bước ngoặt thay đổi về môi trường sống cùng các mối

quan hệ xã hội. Trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ, có nhiều con đường
khác nhau để giáo viên GD KNTBV cho trẻ, việc giáo viên mầm non sử dụng
TPVH chính là giúp trẻ học nhanh nhất qua thực hành trải nghiệm.
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên là những gợi ý để chúng tôi
nghiên cứu đề tài: “Sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ năng tự bảo vệ
cho trẻ 5-6 tuổi”.
3. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ năng
tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu : Quá trình giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ
5-6 tuổi ở trường mầm non.
4.2 Đối tượng nghiên cứu : Các biện pháp sử dụng tác phẩm văn học
giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi.
5. Giả thuyết khoa học:
Nếu lựa chọn được các tác phẩm văn học phù hợp và có các biện pháp
sử dụng thích hợp trong các hoạt động giáo dục ở trường MN thì sẽ phát huy
được hiệu quả của văn học trong việc GD KNTBV cho trẻ MG 5-6 tuổi.
9


6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng tác phẩm văn học giáo
dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ 5 - 6 tuổi.
6.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ năng
tự bảo vệ cho trẻ 5 - 6 tuổi.
6.3. Xây dựng một số biện pháp sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ
năng tự bảo vệ cho trẻ 5 – 6 tuổi.
6.4 Tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng các biện pháp đề xuất.
7. Phạm vi nghiên cứu

7.1. Nghiên cứu các tác phẩm thơ, truyện có nội dung giáo dục kĩ năng
tự bảo vệ cho trẻ 5 – 6 tuổi.
7.2. Nghiên cứu thực trạng việc sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ
năng tự bảo vệ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động Làm quen với tác phẩm
văn học và hoạt động khác ở một số trường mầm non trên địa bàn Hà Nội và
tỉnh Ninh Bình.
8. Phương pháp nghiên cứu:
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu như : Phương pháp phân tích,
khái quát hóa, tổng hợp các công trình nghiên cứu, các tài liệu lí luận có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
8.2.1. Phương pháp điều tra:
Sử dụng phương pháp điều tra (Anket) đối với 40 giáo viên mầm non,
kết hợp trao đổi với giáo viên về nội dung, hình thức, biện pháp và cách thức
tổ chức quá trình giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ 5 - 6 tuổi tại một số
trường mầm non ở Hà Nội và tỉnh Ninh Bình. Đồng thời tìm hiểu những hạn
chế trong quá trình giáo dục này.
10


8.2.2. Phương pháp quan sát:
Dự giờ, quan sát và ghi chép việc sử dụng tác phẩm văn học để đánh
giá kĩ năng tự bảo vệ của trẻ 5 - 6 tuổi tại một số trường mầm non ở Hà Nội
và tỉnh Ninh Bình.
8.2.3. Phương pháp đàm thoại:
Đàm thoại với giáo viên để điều tra những khó khăn, hạn chế mà giáo
viên gặp phải khi sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho
trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
8.2.4. Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến.

Sử dụng phiếu điều tra trên 60 giáo viên tại các trường mầm non ở Hà
Nội và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
8.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Thực nghiệm một số biện pháp sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ
năng tự bảo vệ cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non nhằm kiểm nghiệm tính
đúng đắn của giả thuyết khoa học đã nêu ra.
8.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê
Xử lí các số liệu thu nhập được trong quá trình thực nghiệm bằng toán
thống kê để có kết quả chính xác.
9. Đóng góp mới của đề tài
- Xây dựng cơ sở lí luận việc sử dụng TPVH giáo dục KNTBV cho trẻ
MG 5-6 tuổi.
- Xây dựng và hệ thống hóa một số biện pháp sử dụng TPVH giáo dục
KNTBV cho trẻ MG 5-6 tuổi.
10. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được chia làm ba chương:

11


Chương 1: Cơ sở lý luận của việc sử dụng tác phẩm văn học giáo dục
kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
Chương 2: Thực trạng sử dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ năng tự
bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
Chương 3: Đề xuất và thực nghiệm sư phạm một số biện pháp sử
dụng tác phẩm văn học giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở
trường mầm non.

12



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TPVH GD KNTBV
CHO TRẺ MG 5-6 TUỔI
1.1. Cơ sở tâm, sinh lí và giáo dục học
1.1.1.Cơ sở sinh lí học:
Thứ nhất, các chức năng sinh lí trẻ chưa hoàn thiện, dễ bị tổn thương
gây ra sự mất cân bằng tạm thời giữa các chức năng sinh lí. Ba thành phần
chính của não bộ người bao gồm: đại não, tiểu não và thân não, chúng đảm
nhận các chức năng khác nhau. Trong đó, đại não là phần lớn nhất và phát
triển cao cấp nhất của bộ não con người, có vai trò quan trọng nhất trong hệ
thần kinh: chức năng trí tuệ cao cấp, ngôn ngữ, cảm xúc, khả năng hòa nhập
tất cả các loại kích thích cảm giác, khởi đầu của đường vận động. Nhờ có hoạt
động của đại não mà đặc biệt là vùng vỏ tạo nên sự thống nhất mọi hoạt động
khác nhau trên cơ thể.
Những thành quả đạt được trên lĩnh vực giải phẫu sinh lí người đã cho
chúng ta thấy được sự ảnh hưởng quan trọng trên các vùng não bộ tới trạng
thái cơ thể. Do quá trình hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt so với quá trình ức
chế, đồng thời sự hạ thấp khả năng ức chế của não đối với vùng dưới vỏ não
càng gây ra những hiện tượng mất cân đối, khó thở, đau ở vùng ngực, tim đập
mạnh, dễ hồi hộp, dễ xúc động, thậm chí dễ bị kích động nhưng lại khó kiềm
chế. Trẻ rất dễ thay đổi tâm trạng, tình cảm, nhanh chóng chuyển từ trạng thái
buồn bã sang trạng thái vui vẻ và ngược lại : rất dễ tỏ ra thân mật với mọi
người nhưng cũng có thể ngay lập tức chuyển sang thái độ giận dỗi, nổi
khùng, cáu kỉnh, mất bình tĩnh. Đôi khi, trẻ còn vi phạm kỉ luật mà thực chất
13



không hoàn toàn do nguyên nhân đạo đức. Vì vậy, cần quan tâm hình thành
cho trẻ kĩ năng kiềm chế cảm xúc.
Thứ hai, quá trình hưng phấn phát triển mạnh, tạo nên một sự mât cân
bằng tạm thời so với sự phát triển của quá trình ức chế, có sự mất cân đối giữa
phần dưới vỏ não (có xu hướng phát triển nhanh và mãnh liệt hơn) so với hoạt
động của vỏ não. Từ đó dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời giữa hai hệ
thống tín hiệu và hậu quả của nó. Trẻ làm một việc không phải hiểu bản chất
trong đó mà vì một động cơ đơn giản như bắt chước để được chú ý, khen ngợi.
Ngoài ra, ở lứa tuổi này hoạt động ngôn ngữ phát triển mạnh phản ánh
những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của trẻ bằng công cụ giao tiếp. Ngoài
sự xuất hiện các phản xạ không điều kiện mang tính di truyền, những phản xạ
có điều kiện dần hình thành ở trẻ trong quá trình sống và trải nghiệm, chúng
có xu hướng ngày càng hoàn thiện và biến đổi. Phản xạ có điều kiện là hoạt
động tín hiệu có được do hai loại kích thích: kích thích trực tiếp ( ánh sáng,
màu sắc, âm thanh, hình ảnh, sự chuyển động…) và kích thích ngôn ngữ
( xuất hiện muộn hơn), trẻ thường xuyên giao tiếp với mọi người xung quanh,
thường xuyên trải nghiệm thì ngôn ngữ sẽ phát triển, nhờ đó mà tư duy trẻ
phát triển tốt hơn. Điều này khẳng định vai trò quan trọng của việc giáo dục
cho trẻ những kĩ năng sống thông qua văn học là phương tiện truyền đạt hữu
hiệu nhất. Khi trẻ chưa có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người lạ, đa số thời
gian này trẻ được bao bọc trong mái ấm gia đình và bạn bè, cô giáo. Việc sử
dụng tác phẩm văn học đưa đến trẻ thế giới quan muôn màu, sinh động, thỏa
mãn nhu cầu tìm hiểu thế giới của trẻ, hình thành phản xạ tự nhiên với ngôn
ngữ, phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử tích cực, đem lại hiệu quả giáo dục.
1.1.2. Cơ sở tâm lí học:
Thứ nhất,cảm giác và tri giác
Con người nói chung và trẻ em nói riêng nhận thức toàn bộ thế giới
khách quan bao giờ cũng đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lí tính, điều
14



này cũng có nghĩa mọi sự nhận thức đều bắt đầu từ cảm giác và tri giác. Trẻ
nhận thức thế giới hiện thực đang diến ra xung quanh chủ yếu bằng con
đường cảm tính. Điều này sẽ rất nguy hiểm khi trẻ dùng cảm tính để ứng xử
trước mọi tình huống xảy ra hằng ngày trong cuộc sống. Trẻ chỉ có thể nhận
thức những gì trong thế giới khi chúng trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, nếm, sờ,
mó… Kinh nghiệm sống của trẻ dần hình thành bắt nguồn từ bước đầu đó, chỉ
thông qua trải nghiệm, trẻ mới phát triển. Ban đầu, chúng chưa phân định rõ
sự khác biệt, đúng-sai trong các sự vật hiện tượng xung quanh, dần dần trẻ bắt
chước người lớn và thông qua trải nghiệm mới hình thành hiểu biết.
Trẻ 5-6 tuổi, như cầu giao tiếp ngày càng mở rộng, hoạt động với đồ
vật chuyển sang hoạt động vui chơi, tương tác xã hội với bạn bè và những
người xung quanh trẻ. Nhờ quá trình sống và giao tiếp với mọi người ( bố mẹ,
cô giáo, bạn bè, người thân…), các thao tác, các kĩ năng của trẻ được hình
thành một cách tự nhiên.
Trẻ mầm non tư duy theo lối trực quan hình ảnh, từ tên gọi, đặc điểm,
hoạt động, tính chất của các sự vật hiện tượng trẻ đều nhận thức qua những
hình ảnh trực quan, tiếp nhận trực tiếp qua các giác quan. Người thân xung
quanh trẻ, đặc biệt là cha mẹ có những ảnh hưởng đầu tiên tới việc hình thành
nhân cách trẻ. Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến sự phát triển tâm lí của trẻ, đặc biệt là về mặt xúc cảm. Đây là thời kỳ
tâm lý trẻ có những biến động nhanh mạnh, đột ngột với những đảo lộn cơ
bản, tâm hồn trẻ nhạy cảm và dễ bị xao động. Từ đây dễ có tình trạng mất cân
đối, không bền vững của các hiện tượng tâm lí.
Thứ hai, ý thức bản ngã của trẻ phát triển mạnh mẽ
Trẻ cho rằng mình là người lớn và muốn mọi người xung quanh nhìn
nhận, đối xử với mình như người lớn. Trong giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp

15



nhận được những sắc thái xúc cảm khác nhau của người lớn, rồi dần dần trẻ
cũng thể hiện được những xúc cảm khác nhau của mình.
Nhờ hoạt động phối hợp với người lớn, ở trẻ nảy sinh khả năng bắt
chước hành động của người lớn. Khả năng này là điều kiện quan trọng để tiếp
thu những điều dạy dỗ của người lớn, mở rộng vốn kinh nghiệm của trẻ. Như
vậy, hành động của người lớn xung quanh đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình
thành và phát triển những phẩm chất tâm lí của trẻ. Trong quá trình giao tiếp,
người lớn luôn hướng dẫn, uốn nắn hành vi của trẻ, bằng con đường đó, đứa
trẻ dần dần hình thành được những thói quen tốt và học cách ứng xử khôn
khéo, đúng đắn. Vậy, giao tiếp với người lớn được coi là điều kiện tiên quyết
để trẻ lớn khôn.
Thứ ba, sự chú ý và ghi nhớ có chủ định ở trẻ 5 – 6 tuổi.
Theo kết quả của một số nhà nghiên cứu thì trẻ ở độ tuổi này xúc cảm
phát triển rất mạnh. Ở giai đoạn này, trẻ đã phát triển tất cả các sắc thái xúc
cảm, trẻ phản ứng với những người xung quanh, các sự kiện vui, buồn, hờn,
giận, yêu, ghét… Đặc biệt trẻ phản ứng xúc cảm qua lời nói, sự vận động và
điệu bộ, hành vi của trẻ, trẻ vô cùng thích thú khi tiếp xúc với những bài thơ,
câu chuyện và đóng vai các nhân vật trong tác phẩm văn học. Chính dựa vào
những đặc điểm này mà khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, giáo viên
cần nắm vững và sử dụng linh hoạt các thủ thuật để lôi cuốn, dẫn dắt nhằm
tạo ra sự phát triển chú ý có chủ định của trẻ. Bên cạnh đó, giáo viên cần đảm
bảo tính hệ thống, liên tục và phối kết hợp nhiều phương pháp, biện pháp
nhằm thu hút chú ý của trẻ.
Thứ tư, xúc cảm, tình cảm
Trẻ mẫu giáo giàu xúc cảm, tình cảm. Ở lứa tuổi này, trẻ luôn mong muốn
được mọi người xung quanh thể hiện tình cảm tốt đẹp với mình, trong quá trình
giao tiếp với trẻ, người lớn là nhân tố đầu tiên hình thành nhân cách trẻ.
16



Cũng do đặc điểm giàu xúc cảm, tình cảm, mọi suy nghĩ hành động và
cả tư duy của trẻ đều bị tình cảm chi phối, có nhà tâm lí đã nói rằng : Trẻ lứa
tuổi mầm non thích đối tượng, con người nào thì làm theo đối tượng, con
người đó, không phải vì trẻ hiểu về đối tượng, con người đó mà do tình cảm
yêu ghét, thích hay không thích chi phối. Không chỉ vậy, trẻ cũng mong muốn
được thể hiện tình cảm của mình với mọi người xung quanh, trẻ thích sử dụng
ngữ điệu êm ái, nét mặt vui tươi để thể hiện tình cảm yêu thương, quan tâm
của mình tới mọi người. Tuy nhiên khi không thích hoặc ghét ai đó, trẻ trở
nên giận dữ, cau có nét mặt, có khi sử dụng ngữ điệu thô và mạnh để trả lời.
Thứ năm, xuất hiện tiền đề của sự hình thành nhân cách
Trẻ 5-6 tuổi biểu hiện hành vi dưới ảnh hưởng của những ấn tượng trực
tiếp bên ngoài và của những mô hình được giữ lại trong trí nhớ làm cho thế giới
nội tâm được hình thành, hành vi của trẻ được cải tiến. Trí nhớ lúc này giúp trẻ
tìm thấy vị trí của mình với những người xung quanh, trẻ bắt đầu nhận ra mối
quan hệ giữa quá khứ - hiện tại – tương lai. Trẻ bắt đầu hình thành cấu tạo tâm lí
bên trong và cấu trúc này có tác dụng chi phối hành vi của nó tức là xuất hiện
động cơ, tuy nhiên trẻ hành động chưa có động cơ rõ ràng.
Một đặc điểm nổi bật trong hành vi của trẻ là hành động bột phát do
ảnh hưởng của tình cảm và ý muốn nảy sinh từ hoàn cảnh trực tiếp, vì thế
hành vi của trẻ phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. Người lớn cần dỗ trẻ bằng
cách đưa cho trẻ đồ chơi kích thích sự chú ý của trẻ.
Trẻ đã thực hiện những hành động hướng tới những mục đích được chỉ
ra bằng lời nói nhưng trẻ thường không làm được theo ý ban đầu, thế giới nội
tâm của trẻ tuy đã hình thành nhưng chưa ổn định.
Tình cảm ở trẻ 5-6 tuổi có thêm hình thái mới, trẻ mong được khen
ngợi và sợ khi người lớn tỏ ra không bằng lòng. Lời khen của người lớn giúp
hình thành sự tự tin của trẻ, nhờ đó trẻ luôn cố gắng làm việc tốt. Ở trẻ còn
17



xuất hiện sự xấu hổ, cần giáo dục để tình cảm của trẻ phát triển mạnh và thúc
đẩy trẻ thực hiện hành động tốt, hành vi tốt.
Trẻ biết tự nhận xét mình dựa theo lời của người lớn và sau đó tự liên
hệ mình với các nhân vật trong truyện, thơ mà trẻ được nghe đọc, kể. Người
lớn cần khuyến khích trẻ làm theo yêu cầu của người lớn. Mong muốn được
khen trở thành nhu cầu và việc trẻ cố gắng để có được lời khen có thể giúp trẻ
bỏ được tính xấu, học được tính tốt. Tuy nhiên, khả năng này ở trẻ còn hạn
chế, người lớn cần kiên trì, nhắc nhở nhiều lần để trẻ làm xong phần việc
được giao và để có lời khen ngợi. Trẻ được giáo dục tốt luôn muốn trở thành
bé ngoan dẫn đến sự phát triển lòng tự trọng làm cho hành vi của trẻ trở nên
tốt đẹp. Trẻ còn muốn hiểu về bản thân trong quá khứ và mong muốn về mình
tỏng tương lai, vì vậy cần dạy trẻ biết liên hệ hành vi đã có, hiện có và sẽ có,
đây là phương hướng quan trọng giúp trẻ phát triển về mặt xã hội.
Thứ sáu, sự xuất hiện động cơ hành vi
Trong suốt thời kì mẫu giáo, ở trẻ diễn ra những biến đổi căn bản trong
hành vi, chuyển từ hành vi bột phát sang hành vi mang tính xã hội. Đó cũng
chính là quá trình hình thành động cơ của hành vi. Bước chuyển này khởi đầu
ở tuổi mẫu giáo bé và dần hoàn thiện theo thời gian.
Phần nhiều hành động của trẻ 5-6 tuổi mang tính cảm tính. Trẻ hành
động thường do những nguyên nhân trực tiếp, theo ý muốn chủ quan của
mình hoặc do tình huống ở thời điểm đó thúc giục mà không ý thức được
nguyên cớ nào khiến mình hành động như vậy.
Dần dần trong hành vi của trẻ có một sự biến đổi quan trọng, đó là sự
nảy sinh động cơ. Lúc đầu, động cơ còn đơn giản và mờ nhạt. Khi hành động,
trẻ bị kích thích bởi những động cơ sau đây:

18



- Những động cơ gắn liền với ý thích muốn được như người lớn.
Nguyện vọng này biến thành động cơ, dẫn trẻ tới việc sắm vai trong những trò
chơi đóng vai theo chủ đề.
- Những động cơ gắn liền với quá trình chơi có tác động thúc đẩy hành
vi của trẻ khá mạnh mẽ. Trẻ ham chơi không phải do kết quả của trò chơi
mang lại, mà chính quá trình chơi làm cho trẻ thích thú. Có thể nói rằng hành
động của trẻ được thúc đẩy bởi động cơ vui chơi. Động cơ này làm toàn bộ
hành vi của đứa trẻ mang một sắc thái riêng biệt và đó cũng là nét độc đáo của
tuổi mẫu giáo.
- Những động cơ làm cho người lớn vui lòng và yêu mến cũng bắt đầu
xuất hiện và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy trẻ thực hiện những
hành động tích cực.
Ở trẻ 5-6 tuổi, một loạt động cơ của hành vi mang tính đạo đức xã hội
được hình thành, thể hiện ở sự quan tâm của trẻ đối với những người xung
quanh. Trong điều kiện có sự giáo dục đúng đắn thì loại động cơ này sẽ được
phát triển mạnh ở các giai đoạn sau. Đó là cốt lõi trong nền tảng đạo đức của
nhân cách con người trong tương lai.
Thứ bảy, sự hình thành ý thức về bản thân
Ý thức bản thân ở trẻ 5-6 tuổi được thể hiện rõ nét, khi trẻ biết tách
mình ra khỏi mọi người xung quanh để nhận ra chính mình, biết mình có một
sức mạnh và một thẩm quyền nào đó trong cuộc sống.
Năm tháng qua đi, việc tiếp xúc của trẻ với thế giới bên ngoài dần được
mở rộng. Trẻ biết được nhiều điều lí thú trong tự nhiên, trẻ bắt đầu tìm hiểu
thế giới của chính con người và dần dần khám phá ra được rằng xung quanh
có rất nhiều mối quan hệ chằng chịt giữa người và người. Trẻ rất muốn phát
hiện ra những mối quan hệ ấy, nhập vào đó để học làm người lớn. Trong hoạt

19



động Làm quen với tác phẩm văn học, trò chơi đóng kịch là một dạng hoạt
động đặc biệt giúp trẻ một cách có hiệu quả nhất thực hiện được điều đó.
Khi nhập vào những mối quan hệ trong trò chơi, điều quan trọng là trẻ
phát hiện ra mình trong nhóm bạn bè cùng chơi, có dịp đối chiếu, so sánh
những bạn cùng chơi với mình. Trẻ thấy được vị trí của mình trong nhóm
chơi, khả năng của mình so với bạn ra sao, cần phải điều chỉnh hành vi như
thế nào để phục vụ mục đích chơi chung. Tất cả những điều đó dần dần sẽ
giúp trẻ nhận ra được mình.
Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên, đưa trẻ phải học
cách đánh giá người khác và nghe những người xung quanh đánh giá mình
như thế nào. Thoạt đầu, sự đánh giá của trẻ về người khác còn phụ thuộc
nhiều vào thái độ của trẻ đối với người này. Chẳng hạn, mọi đứa trẻ đánh giá
mẹ mình bao giờ cũng tốt. Vào cuối tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được kĩ năng
so sánh mình với người khác, điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng
đắn hơn và cơ sở để noi gương những người tốt, việc tốt.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức còn biểu hiện rõ trong sự phát triển
giới tính của trẻ. Trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái mà còn biết
nếu mình là trai hay gái thì hành vi này phải thể hiện như thế nào cho phù hợp
với giới tính của mình.
Ý thức bản ngã được xá định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh
hành vi của mình dần dần phù hợp với những chuẩn mực, những qui tắc xã
hội, từ đó hành vi của trẻ mang tính xã hội. Ý thức bản ngã được xác định rõ
ràng còn cho phép trẻ thực hiện các hành động có chủ tâm hơn. Nhờ đó, các
quá trình tâm lí mang tính chủ định rõ rệt.
1.1.3. Cơ sở giáo dục học
1.1.3.1. Tư tưởng, quan điểm giáo dục mầm non hiện đại
Hiện nay, trên thế giới đã xuất hiện nhiều tư tưởng, quan điểm và
những lí thuyết khác nhau nhằm phát triển giáo dục mầm non nói chung và

20



×