1
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
ĐÀN GHI TA CỦA LORCA (TIẾT 1)
Thanh Thảo xuất hiện trên bầu trời thi ca Việt Nam vào những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Những trang thơ của a viết từ chiến trường miền Nam khói lửa, ác liệt, nóng
bỏng, dữ dội, trần trụi đã tạo được nét riêng: “Cả thế hệ xoay trần đánh giặc/ Mặc quần đùi khiêng
pháo lội qua sông”. Bằng tất cả tâm huyết của mình, Thanh Thảo đã từng viết: “Hạnh phúc nào cho
tôi /Hạnh phúc nào cho anh /Hạnh phúc nào cho chúng ta /Hạnh phúc nào cho đất nước...Những
câu hỏi chưa thể nào nguôi được. Thanh Thảo đã viết những vần thơ về chiến tranh đầy suy tư về số
phận của nhân dân, Tổ quốc. Đọc bài thơ còn rất “trẻ”, ta thấy Thanh Thảo không bồng bột, nông nổi
mà ý thức rõ cái tôi cá thể, ý thức rất rõ về giá trị cuộc sống và sinh mệnh của bản thân nhưng vẫn
sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng:chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/(nhưng tuổi hai mươi làm sao
không tiếc)/nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc (Những người đi tới biển)
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Tên khai sinh: Hồ Thành Công, sinh năm 1946 tại Quảng Ngãi.
- Tốt nghiệp khoa văn ĐH Tổng hợp HN.
- Trực tiếp tham gia chiến đấu ở miền Nam.
- Từ sau 1975 hoạt động văn nghệ và báo chí.
- Từng giữ chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thơ, Hội đồng văn VN, Chủ tịch Hội văn học Quảng Ngãi
- Có các sáng tác hay và độc đáo về chiến tranh và thời hậu chiến.
Các tác phẩm: Những người đi tới biển (1977), Khối vuông Ru-bích (1985), Những ngọn
sóng mặt trời (1994- Trường ca), Cỏ vẫn mọc (2002-Trường ca)…Những năm gần đây: viết báo,
tiểu luận phê bình. Đóng góp quan trọng nhất vẫn là thơ ca.
+ Đặc điểm thơ
- Là tiếng nói của người tri thức nhiều suy tư trăn trở về cuộc sống.
- Luôn tìm tòi, khám phá, sáng tạo cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ
cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ.
- Viết về đề tài nào cũng đậm chất triết lí. Hướng tới những vẻ đẹp của nhân cách: nhân ái, bao
dung, can đảm, trung thực và yêu tự do. Thơ ông dành mối quan tâm đặc biệt cho những con người
sống có nghĩa khí như: Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xênhin, Lor-ca...
2. Tác phẩm: “ Đàn ghi ta của Lor-ca”.
2.1. Xuất xứ
+ Trích trong tập “Khối vuông Ru- bích” (1985)
+ Tiêu biểu cho tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt và phóng túng, ít nhiều nhuốm màu
sắc tượng trưng và siêu thực.
2.2. Bố cục: Ba phần
+ Phần 1 (Sáu dòng đầu ): người nghệ sĩ tự do, cô đơn Lorca .
+ Phần 2 (Tiếp đó đến “Không ai chôn cất tiếng đàn”): Lorca trong nỗi đau bi tráng
+ Phần 3 (Còn lại): Niềm xót thương Lor-ca, những suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor-ca.
2.3. Chủ đề
Bài thơ miêu tả Lor-ca, một nghệ sĩ tự do có lí tưởng mới về nghệ thuật, sống cô đơn trong khung
cảnh chính trị Tây Ban nha. Đồng thời thể hiện niềm xót thương của tác giả và những suy tư về cuộc
giải thoát, giã từ của Lor- ca.
II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN:
1/ Hình tượng tiếng đàn
MOON.V N
1.1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Thanh Thảo là một trí thức giàu suy tư, trăn trở với các vấn đề xã hội và thời đại, cũng
là một nhà thơ có những khám phá, sáng tạo riêng trong nghệ thuật thơ ca để đem đến cho thơ
một mĩ cảm thật hiện đại.
- Lorca là nhà thơ Tây Ban Nha có khát vọng tự do và khát khao sáng tạo. Ông đã tự
nguyện làm người du ca, mang theo cây đàn ghi ta cất lên những bài ca tranh đấu với chính
quyền độc tài chuyên chế, giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương tha thiết của nhân
dân. Chế độ phản động cực quyền thân phát xít đã giết Lorca song không giết nổi tiếng nói
nghệ thuật của người nghệ sĩ ấy.
- Bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” là tiếng nói tri âm, là khúc tưởng niệm của một người
nghệ sĩ với một người nghệ sĩ. Xây dựng hình tượng tiếng đàn, Thanh Thảo muốn khẳng định
sự bất tử của tiếng nói nghệ thuật mà Lorca đã sáng tạo và dâng hiến cho đời.
1.2. Vị trí của hình tượng
- "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn", lời đề từ đã bộc lộ ý tưởng sáng tác: cây đàn Ghita và
Lorca là hai hình tượng thơ xuyên thấm. Sự tồn tại của Lorca là sự tồn tại của tiếng ghita và ngược
lại. Trong đó tiếng đàn như một sinh thể sống song trùng với nhịp đập trái tim Lorca. Đàn ghi ta, và
những cung bậc mà nó rung ngân là tâm hồn Lorca, là một phần của con người, là sự sống của Lorca.
Tiếng đàn ghita là hình tượng trung tâm, xuyên suốt bài thơ và trở thành hình tượng nghệ thuật đầy
ám ảnh.
1.3. Nhận xét chung
- Trong văn chương, hình tượng tiếng đàn từng được gợi ra như thế nào?
Gợi ra qua cách so sánh với những âm thanh khác (tiếng hạc bay, tiếng suối, tiếng gió
thoảng, tiếng mưa…), được thể hiện với các yếu tố của âm nhạc (cao độ, trường độ , cường độ,
âm sắc…), được liên tưởng với các hiện tượng thiên nhiên (ánh sáng, nước mắt…)
- Trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca”, Thanh Thảo miêu tả tiếng đàn như thế nào?
MOON.V N
+ Không dùng những từ trực tiếp miêu tả âm thanh mà dùng màu sắc (nâu, xanh, màu
máu) và hình ảnh thoạt nhìn không có mối liên hệ gì rõ rệt (bọt nước, bầu trời, lá xanh, máu,
cỏ). Đó là màu của sự sống và cái chết, của khát vọng và sự vùi dập, lí tưởng đẹp đẽ và sự bạo
tàn. Như vậy, Thanh Thảo không trực tiếp miêu tả âm thanh tiếng đàn mà tập trung miêu tả một
thế giới của tưởng tượng và cảm xúc do tiếng đàn ấy gợi lên. Tiếng đàn là âm thanh tiếng lòng
của Lorca, phản chiếu cuộc sống và tâm hồn Lorca qua sự cảm nhận của nhà thơ Việt. Về
hình thức, tạo nên sự giao thoa lạ lùng giữa âm thanh và hình ảnh. Về nội dung, thể hiện sự tri
âm và đồng cảm của Thanh Thảo với Lorca.
+ Miêu tả lúc nào? Ngập tràn trong thi phẩm là tiếng đàn ghi ta, mở đầu là chuỗi âm li-la li-la li-la,
giống như người nghệ sỹ vuốt những sợi tơ đàn chuẩn bị cho khúc nhạc cất lên. Và kết thúc lại là
chuỗi âm thanh day dứt li-la li-la li-la, chạy trong không gian của những dấu chấm lửng biểu diễn
khoảng lặng, về cực vô cùng.
+ Ý nghĩa: Theo đó, tiếng đàn trở thành sự sống muôn màu, được miêu tả phong phú, đa dạng bằng
nhiều thủ pháp nghệ thuật (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, nhân hóa, trùng điệp) tạo thành hình tượng
nghệ thuật mang đậm tính tượng trưng, siêu thực, làm nên bầu khí quyển gắn với cuộc đời, sự nghiệp
Lorca. Tiếng đàn là biểu hiện tâm hồn nghệ sĩ của Lorca, là tình yêu cuộc sống và khí phách kiên
cường của người chiến sĩ yêu tự do, hoà nhập trái tim mình với con người và cuộc sống.
1.3. Tiếng đàn là biểu tượng của sự sống: Biểu tượng của vẻ đẹp và nỗi đau, khát vọng cao cả và
số phận bi kịch.
- Nghệ thuật siêu thực đã biến hóa hình tượng tiếng đàn ghi-ta trở thành những hình ảnh khác nhau,
hữu hình hóa âm thanh tiếng đàn thành “những tiếng đàn bọt nước”, so sánh với bọt nước cho thấy
hình ảnh tiếng đàn mang một vẻ đẹp vừa tròn trịa, trong trẻo vừa mong manh, dễ vỡ. Nó gợi nhắc
đến cuộc đời cao đẹp mà ngắn ngủi của Lor-ca. Cuộc đời ngắn ngủi đó đã kết thúc đầy oan khuất và
tức tưởi ở tuổi 38 – lúc mà con người đầy những khát vọng tuổi trẻ, thanh xuân. Tuy nhiên, dù ngắn
ngủi về mặt thời gian nhưng cuộc đời Lor-ca lại trở thành vĩnh viễn trong tâm tưởng con người. Nó
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
được gợi nhắc qua hình tượng bọt nước, mong manh, ngắn ngủi nhưng lại vĩnh cửu, trường tồn, dù
tan vỡ nhưng lại tiếp tục được hình thành từ lòng sâu đáy nước.
Ở đây, nhà thơ đã dùng vốn thi liệu được tái tạo từ di sản thơ của chính Lorca. Trong bài thơ
Khúc dạo của Lor ca, ta từng nghe những tiếng đàn bập bềnh: Còn để trên sông/ Bập bềnh tiếng
vọng; Trong Sóng về đâu, ta lại thấy tiếng đàn như nhập cùng dòng nước và con sóng : Sóng ơi sóng
về đâu/ Tôi cười và trôi đi/ đến tận bờ biển cả/ Biển ơi biển về đâu/ Ngược dòng nước tôi tìm/ Về
suối nguồn an nghỉ; Trong Ghi nhớ, ta lại gặp tiếng đàn Như dòng nước sâu thổn thức/ như tiếng gió
thở dài/ trên đỉnh núi lạnh băng...Bằng cách đó, tác giả như”Vừa nhập cấu trúc ca khúc vào lòng bài
thơ, vừa khảm thêm tiếng nhạc vào lời thơ...bắc một nhịp cầu tương giao để hồn kẻ hậu sinh nói lời
đồng điệu với bậc tiền nhân xứ sở Tây ban cầm” (Chu Sơn).
hình ảnh bọt nước, sóng nước gợi cảm giác nhỏ bé trước đại dương mênh mông, gợi hình ảnh cái tôi
chơi vơi bất định như muốn tan vào cái mênh mông của đại dương, cái khát khao của người nghệ sĩ
lorca như muốn tan hòa vào cuộc đời vào những gì tự do, phóng khoáng. Hình ảnh bọt nước gợi liên
tưởng về sự mỏng manh trôi nổi. Hình thành từ trong nước, nổi trôi trên mặt nước mong manh như
không thể gì hơn, rồi tan vỡ. Nó như một sự thật cuộc sống phù du hữu hạn có sinh có diệt của đời
người. Những bọt nước tồn tại đấy ngắn ngủi, gợi cho ta một liên tưởng thật xót xa về cuộc đời của
Lorca và số phận của cái đẹp, hình ảnh so sánh độc đáo này và giúp họ tìm thấy trong chiếc bọt
nước, hình ảnh một Lorca ngã xuống khi đang còn rất trẻ, khi lý tưởng của ông đang theo đuổi còn
rất dở dang trong một cái chết bi thương. Và đồng thời cũng thấy được một Lorca dẫu chỉ như một
chiếc bọt nước nhỏ bé nhưng đã vượt lên đồng loại ở chỗ dám nổi lên sống động, khi mà tất cả
im lặng trật tự nơi cái mặt phẳng mặt nước im lìm trong cố hữu, cũ kỹ, già nua.
- Ẩn dụ: Tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn => Mỗi so sánh này cũng làm nổi
bật tình yêu, cái đẹp, cái chết, nỗi đau trong tư tưởng, khát vọng tình cảm của Lor- ca.
- Đang trong một không gian “Đơn độc”; “Kinh hoàng”, giữa sắc màu ghê rợn “Áo choàng bê bết
đỏ”, giữa giây phút cái chết cận kề, đột ngột liên tưởng bay vút lên hòa nhập vào không gian khác:
tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
Trong ngôn ngữ hội họa, màu nâu là biểu tượng của sự hồn nhiên trung thực, màu của đất.
Cái hồn nhiên trung thực ấm nồng ấy giữa giây phút ranh giới của sự sống và cái chết bỗng bừng
thức dậy cùng với bầu trời và cô gái. Đó là không gian hồi ức mà tiếng đàn mang lại, một không gian
xanh sắc của sự sống của tình yêu lứa đôi. Trước cái chết người ta kinh hoàng và mưu cầu sự sống và
thường liên tưởng suy nghĩ về những gì đen tối, ở đây bầu trời tâm hồn người nghệ sỹ vẫn đắm đuối
với bầu trời ngọt ngào thấm đãm hương tình. Tiếng Ghi ta xanh trở thành biểu tượng của tâm hồn
lãng mạn Lorca, một thứ lãng mạn như đôi cánh bay qua cõi chết.
- Ở giai điệu tiếp theo, tiếng ghita rung lên thổn thức:
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy
Nhưng nó đau hơn ở chỗ những cái mới, cái đẹp trước sức mạnh bạo tàn của cái cũ, cái xấu, cái ác
vốn tồn tại như một hệ thống ác quỷ thật khó lòng tồn tại. Nó sẽ bị tiêu diệt khi mà chưa đi hết cuộc
đời mà quy luật dành cho nó. Thanh Thảo đã hướng người đọc vào hình ảnh so sánh độc đáo này và
giúp họ tìm thấy trong chiếc bọt nước, hình ảnh một Lorca ngã xuống khi đang còn rất trẻ, khi lý
tưởng của ông đang theo đuổi còn rất dở dang trong một cái chết bi thương. Và đồng thời cũng thấy
được một Lorca dẫu chỉ như một chiếc bọt nước nhỏ bé nhưng đã vượt lên đồng loại ở chỗ dám
nổi lên sống động, khi mà tất cả im lặng trật tự nơi cái mặt phẳng mặt nước im lìm trong cố
hữu, cũ kỹ, già nua. Nhưng sự thật, tiếng đàn vẫn “Ròng ròng máu chảy”. Cách liên tưởng độc đáo
này làm cho tiếng đàn trở thành một sinh thể sống, và nó đang đổ máu cho tự do cho cuộc sống, nó
đang bị tiêu diệt một cách phi lý nhất. Thi sĩ đã xây dựng được bức tranh đậm chất bi tráng về Lorca
- bị hành hình dã man và xác bị ném xuống giếng. Từ bức tranh này, dường như Thanh Thảo muốn
nêu lên một quan điểm nghệ thuật: Nghệ thuật thuộc về cuộc sống, của cuộc sống nên nghệ thuật
chính là cuộc sống nó có số phận như một con người vậy. Nếu kết nối câu thơ những tiếng đàn bọt
MOON.V N
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
nước ở đầu bài với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng –
máu chảy, sẽ thấy những ý nghĩa ẩn tàng dư ba đằng sau lớp ý nghĩa diễn tả âm thanh tuôn trào,
sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp vang lên
trong thế giới bạo tàn. Nhân hóa: Tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy => Tạo sức ám ảnh mãnh liệt đối
với độc giả.
1.4. Tiếng đàn khẳng định sự bất tử của Lorca
- “không ai chôn cất tiếng đàn”- Câu thơ gợi nhiều ý nghĩa cần suy ngẫm. Tiếng đàn không thể
“chôn cất” được bởi nó là môt giá trị tinh thần, sự tồn tại của nó vượt ra ngoài mọi giới hạn vật chất.
Dập vùi về tinh thần với hy vọng khuất phục vốn là một điều khó, xác định sự tồn tại của nó trong tư
duy, trong trái tim con người lại khó hơn, và giết chết nó vốn là điều không thể nằm ngoài tầm tay và
ý chí chủ quan của thế giới loài người. Phải chăng, đây chính là một một ẩn dụ về thế giới bạo tàn
Tây Ban Nha, không nhận biết được những giá trị của Lorca và từ Lorca, đã vùi dập ông. Cái chết về
thể xác chúng có thể thực hiện, nhưng tinh thần và ý chí của ông chúng không bao giờ tiêu diệt được.
Đây là một logic dẫn đến so sánh đầy ấn tượng “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Hình ảnh cỏ mọc
hoang gợi sức sống mãnh liệt, không gì ngăn cản được. Nó là một hiện thực của tự nhiên, chưa bao
giờ và ở đâu trên trái đất cỏ có thể lụi tàn tuyệt diệt, ngược lại sự hồi sinh và sức sống của nó mãnh
liệt vô biên. So sánh này làm bật lên sức sống của tiếng đàn Lorca như một tất yếu bất diệt. Và đó
chính là triết lí nghệ thuật của Thanh Thảo đem đến cho người đọc: nghệ thuật nằm ngoài mọi quy
luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.“li - la li - la li - la” …
Chuỗi âm thanh này xuất hiện cuối thi phẩm như một điểm nhấn làm nổi bật hình tượng tiếng đàn.
Hòa nhập với chuỗi âm thanh đầu bài thơ làm cho hình tượng tiếng đàn trở nên hoàn thiện. Đồng
thời mở ra những liên tưởng về hình tượng mới, hình tượng Lorca với sức sống và khát vọng tự do
mãnh liệt, trên nền nhạc bảng lảng, chập chờn những yêu thương và những khốc liệt bạo tàn.
1.5. Khái quát: Hệ thống hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để gợi ra tiếng đàn ghi ta của Lorca là những
hình ảnh có khả năng gợi mở một bức tranh cuộc sống muôn màu vẻ mà cũng có một sức ám ảnh lạ
lùng (làm rõ ý nghĩa các hình ảnh bọt nước, bầu trời cô gái ấy,lá xanh biết mấy, bọt nước vỡ tan,
ròng ròng máu chảy, cỏ mọc hoang). Thông qua hệ thống hình ảnh ấy, Thanh Thảo vừa gợi ra một
bức tranh cuộc sống muôn màu vẻ của người nghệ sĩ, vừa gợi được sự vận động của hình tượng tiếng
đàn trong cuộc sống từ một thực thể tồn tại ngắn ngủi, mong manh đến một thực thể hội tụ trong nó
muôn sắc màu của sự sống và cuối cùng trở thành một sinh thể, một sự sống có sức sống bất diệt
MOON.V N
- Đàn ghi ta của Lorca- tiếng nói nghệ thuật của riêng Lorca- không thuần túy chỉ là âm thanh,
giai điệu mà còn là toàn bộ con người Lorca với khát vọng đấu tranh và đổi mới nghệ thuật, nó
biểu hiện tâm hồn nghệ sĩ của Lorca, một tâm hồn mang tình yêu tự do và khát vọng hòa nhập
trái tim mình với cuộc sống của nhân dân.
- Cùng với việc nhắc lại một câu thơ Lorca trong lời đề từ (Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây
đàn), hình tượng tiếng đàn trong bài thơ có ý nghĩa khẳng định sự sống, niềm tin, hi vọng,
khẳng định sức mạnh đấu tranh với kẻ thù và sức sống vượt lên cái chết của người tạo ra nó.
Nói cách khác,Thanh Thảo muốn khẳng định rằng Lorca sẽ bất tử cùng với tiếng đàn, cây đàn
sẽ kéo dài sự sống, nối dài khát vọng của Lorca.
- Tóm lại: Tiếng đàn là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Thanh Thảo, thông qua hình tượng, tác
giả đã tái hiện chân dung, số phận của Lorca, thể hiện niềm tiếc thương trân trọng của mình với nhà
thơ Tây Ban Nha...Chuỗi âm thanh “Li-la-li-la-li-la” luyến láy sau hai câu đầu như khúc dạo đầu và
dùng để kết thúc bài thơ như nốt nhạc cuối của bản nhạc mang ý nghĩa của sự tri âm và kính trọng
đối với người nhạc sĩ, nhà thơ Lor-ca
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
ĐÀN GHI TA CỦA LORCA (TIẾT 2)
2/ Hình ảnh Lor-ca, con người tự do, cô đơn
2.1. Lor- ca được miêu tả trên cái nền rộng lớn của văn hóa Tây Ban Nha:
+ Áo choàng đỏ gắt: gợi nhớ tới môn đấu bò tót, nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc của Tây Ban Nha
+ Vầng trăng+Yên ngựa.+ Cô gái Di- gan. + Mô phỏng nốt nhạc ghi ta “li-la-li-la-li-la” Tất cả
làm nổi bật không gian văn hóa TBN.
- Tấm áo choàng đỏ gắt giúp ta liên tưởng đến khung cảnh của một đấu trường.Đây không phải
trận đấu giữa bò tót và võ sĩ mà là đấu trường quyết liệt giữa công dân Lor-ca cùng khát vọng
dân chủ với nền chính trị độc tài, nền nghệ thuật già nua TBN với NT cách tân của Lor-ca.
=> Hình tượng Lor- ca nổi bật trên nền văn hóa TBN, đó là con người tự do, là ca sĩ dân gian, cô
độc, lang thang hát nghêu ngao cùng tiếng đàn bọt nước cùng với Vầng trăng chếnh choáng,
Trên yên ngựa mỏi mòn. Anh dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn, khát vọng yêu
thương của nhân dân TBN.
2.2. Cái chết của Lor- ca: Lor-ca bị bọn phát xít Prăng-cô giết và ném xác xuống giếng để phi
tang. Để miêu tả sự việc bi phẫn này, Thanh Thảo sử dụng nhiều hình ảnh thực kết hợp với các
biện pháp nghệ thuật. Đối lập:+ Tự do của người nghệ sĩ >< Thế lực tàn bạo của phát xít.
+ Tiếng hát yêu đời, vô tư >< Hiện thực phũ phàng đến kinh hoàng (áo choàng bê bết máu).
+ Tình yêu, cái đẹp >< Hành động tàn ác, dã man.
Nhân cách hóa: Tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy => Tạo sức ám ảnh mãnh liệt đối với độc giả.
Hoán dụ:+ Tiếng hát: chỉ Lor- ca. + Tấm áo choàng bê bết đỏ :chỉ cái chết.
- Tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn => Mỗi so sánh này cũng làm nổi bật
tình yêu, cái đẹp, cái chết, nỗi đau trong tư tưởng, khát vọng tình cảm của Lor- ca.
Cái chết oan khuất của Lor- ca gây cho độc giả sự phẫn nộ và sự thương cảm sâu sắc đối với
người nghệ sĩ dân gian.
2.3 Nỗi xót thương và suy tư về cuộc giã từ của Lor- ca:
+ Niềm xót thương Lor- ca chuyển hóa thành niềm tin về sự bất tử của tiếng đàn Lor- ca:
+ Tiếng đàn tượng trưng cho NT của Lor-ca.Đó là cái đẹp mà sự tàn ác không thể hủy diệt nổi.
Nó sẽ sống, lưu truyền mãi như thứ cỏ dại mọc hoang.
+ Tiếng đàn còn là nỗi xót thương của mọi người trước cái chết của một thiên tài.
Thanh Thảo đã thật sự cảm thông đến tận cùng với Lor- ca. Lor- ca ra đi bất ngờ
khiến hành trình cách tân nghệ thuật của ông bị dang dở và con đường ông đã đi qua
không ai thực sự hiểu. Lor- ca đã dặn “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi
ta”,
Lời dặn đó thể hiện nhân cách nghệ sĩ ,tình yêu say đắm với nghệ thuật và tình yêu tha thiết với
đất nước TBN của Lor- ca.Ông cho rằng cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để thi ca đó không
trở thành vật cản trở sự sáng tạo NT giúp NT đi tới, vươn cao hơn.
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật
+ Thể thơ tự do, không dấu câu, không dấu hiệu mở đầu, kết thúc.
+ Sử dụng hình ảnh, biểu tượng- siêu thực có sức chứa lớn về nội dung.
+Tạo màu sắc Tây Ban Nha rất đậm nét trong bài thơ.
+Kết hợp hai yếu tố thơ và nhạc.
2. Nội dung
Qua bài thơ, tác giả thể hiện nỗi đau và sự xúc động sâu sắc trước cái chết bi thảm của Lor-ca ,
người nghệ sĩ khao khát tự do, dân chủ , luôn mong muốn sự cách tân NT và NT phải luôn phát triển
không ngừng. Tình yêu con người, nghệ thuật và khát vọng tự do mà Lor- ca hằng ôm ấp là cái đẹp
mà sự tàn ác không thể nào hủy diệt được.
MOON.V N
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
ĐÀN GHI TA CỦA LORCA (TIẾT 3)
LUYỆN TẬP
Dạng đề thứ nhất: phân tích trich đoạn (các em xem tư liệu tham khảo)
Dạng đề thứ hai: phân tích hình tượng (các em xem tư liệu tham khảo)
Dạng đề thứ ba: vấn đề tổng hợp.
Ví dụ:
“Nguồn mạch mới” mà nhà thơ Thanh Thảo đã “khơi” qua bài thơ: “Đàn ghi ta...”.
Tham khảo một số yêu cầu và gợi ý làm bài:
1 . “Nguồn mạch mới” mà Thanh Thảo đã “khơi” đó chính là nói về sự sáng tạo nghệ thuật của
Thanh Thảo- một nhà thơ ham tìm tòi, cách tân. Viết về đề tài người nghệ sĩ (đề tài quen thuộc),
Thanh Thảo đã có cách xử lý nghệ thuật rất riêng, rất độc đáo tạo nên một thi phẩm có “sự phát minh
về hình thức, khám phá về nội dung” (Lời Lêonit Lêonop)
2. Những sáng tạo của Thanh Thảo trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”
2.1. Sử dụng thi liệu
- Thanh Thảo đã nhập cảm vào thế giới nghệ thuật của Lor-ca rồi lựa chọn những thi liệu đầy ám
ảnh, gợi cảm từ thế giới nghệ thuật ấy đưa vào bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của mình. Đó là
những thi liệu: đàn ghi ta, yên ngựa, vầng trăng, chàng kỵ sĩ, bước chân lang thang, áo choàng đỏ, cô
gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương…
- Thanh Thảo đã xử lý những thi liệu lựa chọn một cách sáng tạo: Những thi liệu này được lấy từ
nhiều văn bản khác nhau của thơ Lor-ca, chúng vốn rời rạc nhưng khi đi vào bài thơ của Thanh Thảo
chúng được “làm mới” đã trở nên hòa hợp, ăn ý. Tất cả cộng hưởng ngữ nghĩa với nhau, cùng nhau
làm sống dậy thế giới nghệ thuật đặc sắc của Lorca, tái hiện số phận bi thảm của Lor-ca, ngợi ca vẻ
đẹp của người nghệ sĩ vĩ đại sống trong một thời đại biến động và sức sống mạnh mẽ, bất diệt của
nghệ thuật, của thơ ca. (Thanh Thảo đã tái tạo và tái sinh thi liệu được sử dụng từ thế giới nghệ thuật
của Lor-ca bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm, ngưỡng mộ Lor-ca)
- Văn hóa Tây Ban Nha được nhân loại biết đến với những phạm vi ngỡ như có phần tương phản
nhau. Đó là đàn ghi ta, điệu nhảy Flamenco và đấu bò. Những biểu tượng này vừa sôi động, hào
hùng vừa đắm đuối mê say mang trong nó cả cuộc sống cuồng nhiệt lẫn bóng dáng tử thần đã
hình thành nên một phong cách Tây Ban Nha đặc thù. Khi sáng tạo thiên tình ca Siêu thực, Thanh
Thảo đã nắm chắc những nét văn hóa đã trở thành biểu tượng không thể tách rời trong đời sống Tây
Ban Nha đó. Để trên cái nền rộng, nhà thơ dựng xây vũ điệu bi hùng của cái chết, sự sống và
đương nhiên là cả sự bất tử của một con người, một dân tộc, một cộng đồng những ai yêu cái
đẹp, yêu cuộc sống hòa bình và cả sự bất tử cho con người, nghệ thuật mà nhân loại dày công vun
đắp. Viết về sự sống và cái chết trong khoảnh khắc thì không có biểu tượng nào hơn chuyện tấm áo
choàng của đấu sĩ đấu bò. Từ một hành động được xem là biểu tượng của lòng dũng cảm, lòng can
đảm, hành động đấu bò được nâng đến mức nghệ thuật, trở thành “đạo” của người Tây Ban Nha. Ở
đó, mỗi cú lượn vòng của chú bò kiêu hùng, một cú khẽ lắc người của đấu sĩ để tránh cú húc chí
mạng từ những con bò đang say máu giết chóc… đều được người xem chiêm ngưỡng như những vũ
điệu nghệ thuật phi phàm, vũ điệu của thần chết, vũ điệu dường như chỉ được gặp trong những giấc
mơ. Hình ảnh đấu sĩ trở thành biểu tượng của niềm kiêu hãnh Tây Ban Nha. Nhưng không chỉ có thế,
bài thơ bắt đầu bằng ngay chính ba biểu tượng văn hóa then chốt nhất của xứ sở của các đấu sĩ: tiếng
đàn, áo choàng, âm thanh vũ điệu Flamenco. Âm thanh đi ngay sau tiếng đàn. Có nghĩa đàn ghi ta
đang chơi điệu Flamenco. Đây là điệu nhạc phóng túng, kết hợp cả tư thế nhảy, tiếng vỗ, tiếng
búng ngón tay lẫn tiếng chân gõ nhịp trên sàn gỗ. Điệu Flamenco vừa là một thể nhạc vừa là một
điệu nhảy xuất phát từ vùng Andalusia của Tây Ban Nha. Nơi ấy cũng chính là quê hương của Lorca,
nhà thơ được mệnh danh là “Con họa mi xứ Andalusia”, là “nghệ sĩ hát rong của miền đất tự do
MOON.V N
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Andalusia”. Không lâu sau, Flamenco lan rộng khắp đất nước Tây Ban Nha và trở thành biểu tượng
văn hóa của đất nước. Nhạc Flamenco có đặc điểm là tiết tấu nhanh nhưng các tiết điệu phải tròn
đều. Nhạc công ghi ta khi chơi điệu flamenco thì phải giữ nhịp nhanh và rõ. Điệu nhảy Flamenco là
sự kết hợp thoải mái, đầy sáng tạo của những tư thế riêng biệt. Nghệ sĩ tự do thể hiện mình trên sàn
nhảy. Điệu nhảy này là sản phẩm kết hợp vũ điệu của các tộc người Gypsy, Byzantine, Sephardic và
Moor, những nhóm người thiểu số lang thang không chỉ ở Tây Ban Nha mà gần như còn khắp châu
Âu. Lorca có lần ám chỉ ông là hậu duệ của những người này. Xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng thế
kỉ thứ 15, đến nay, chưa ai giải thích được nguồn gốc của cái tên flamenco.
Trong khi đàn ghi ta gần như phổ biến trên toàn thế giới, thì môn đấu bò vĩnh viễn không rời khỏi
biên giới Tây Ban Nha. Cả ba biểu hiện văn hóa Tây Ban Nha này ít nhiều đều gắn với nhịp điệu, tiết
tấu phóng khoáng, lãng tử của xứ sở Tây Ban Nha. Lorca mang tiếng đàn theo mình đồng nghĩa với
việc mang cả nền văn hóa dân tộc đi theo. Thanh Thảo không chỉ am hiểu văn hóa Tây Ban Nha mà
còn gắn kết nền văn hóa phương Tây xa xôi đó với văn hóa phương Đông. Nếu bài thơ là lời ai điếu
nghẹn ngào trước cái chết bi thương của Lorca thì thông qua điệu lòng ấy chúng ta sẽ bắt gặp được
những tiếng nói quen thuộc, đầy sẻ chia trước sự ra đi đó. Tứ thơ dịch chuyển từ “áo choàng bê bết
đỏ” (văn hóa Tây Ban Nha) đến “đường chỉ tay đã đứt” (cả phương Đông lẫn phương Tây đều tin
vào dấu hiệu thần bí này) và sau cùng là “dòng sông rộng”, “sang ngang” (gợi triết lí nhà Phật: sang
sông là giải thoát khỏi bến mê, là sự siêu thoát vĩnh hằng)…Viết về một nhân sĩ bên trời Tây, Thanh
Thảo một mặt vẫn giữ được nét văn hóa đặc thù của xứ sở sinh ra người anh hùng, mặt khác ông đã
kéo nền văn hóa đó lại gần với truyền thống văn hóa Việt Nam. Nói đúng hơn là đã đặt liền kề những
giá trị văn hóa để cốt sao cái sự xa lạ kia không còn lạ lẫm, mà trở thành một phần nữa trong tâm
thức người đọc Việt. Vậy nên mới có chuyện “vầng trăng”, “đáy giếng”, mới có chuyện Lorca sang
sông gợi liên tưởng đến cách đức Bồ Đề Đạt Ma sang sông với một chiếc giày…Bút pháp liền kề của
thơ Siêu thực đã phát huy rất mạnh vai trò của sự kết nối các trường văn hóa với nhau. Nhà thơ khi
sáng tạo đã giải phóng tối đa năng lực văn hóa của ngôn từ. Vậy nên, dẫu nói ít và dẫu không sử
dụng phong phú giai điệu, tiết tấu, người đọc vẫn cảm nhận được vẻ đẹp Tây Ban Nha trong tâm hồn
thi sĩ Lorca và cả vẻ đẹp Việt Nam trong sự đồng cảm sẻ chia của Thanh Thảo. Văn hóa TBN và văn
hóa Việt: Trời mưa bong bóng phập phồng...Áo choàng đỏ gắt (Áo chàng đỏ tựa ráng pha); đi đâu
lang thang...Vầng trăng in bóng ca dao- vầng trăng khóc- Mỗi giọt đàn rơi như lệ ngân...Anh còn có
mỗi cây đàn, anh mang bán hết anh theo cô nàng...Bị điệu về bãi bắn...cái khảng khái nghĩa khí của
anh Nguyễn Văn Trỗi khi ra pháp trường. Tiếng ghi ta nâu...Khúc nhạc thơm, khúc nhạc hồng...ròng
ròng máu chảy: Một cung gió thảm mưa sầu...Tiếng đàn như cỏ...Sóng cỏ xanh tươi gợn tới
trời...Trăng soi đáy nước Koabata, ca dao Việt...Đường chỉ tay, dòng sông, cây đàn đã hóa, bơi sang
ngang trên dòng sông định mệnh, vượt biển- Khảm hải. Ném lá bùa, cái dữ dội, quyết liệt của Mị và
A Phủ...
MOON.V N
2.2. Sử dụng thể thơ tự do với lối diễn đạt câu thơ không viết hoa đầu dòng, nhịp điệu phóng
khoáng, liên tưởng bất ngờ, ngôn từ mới mẻ
cảm xúc thơ liền mạch, nối kết được các biểu tượng, hình ảnh thơ trong một chỉnh thể nghệ thuật hài
hòa, gợi mở. Màu sắc và âm thanh là hai đối tượng vốn được chủ nghĩa lãng mạn ưa chuộng. Cách
sáng tạo của các nhà lãng mạn làm là thay đổi giác quan trong tiếp nhận hiện thực. Thông thường
âm thanh được nghe bằng tai, màu sắc được nhìn bằng mắt, nóng lạnh được cảm nhận bằng xúc
giác,… Để làm nên sự độc đáo trong diễn ngôn thơ, Xuân Diệu đã viết nhiều câu thơ bất hủ kiểu
như Đã nghe rét mướt luồn trong gió hay Trần Đăng Khoa Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất
mỏng như là rơi nghiêng,… sự cảm nhận ở đây đã lên đến mức tột đỉnh của sự tinh tế. Thơ Siêu thực
không chỉ hoán đổi các chủ thể tiếp nhận theo cách của các nhà lãng mạn mà còn lược bỏ rất nhiều
chủ thể để khiến bất kì sự tưởng tượng nào cũng có thể chấp nhận được, miễn là chủ thể tiếp nhận đó
có thể rung động trước hình tượng. Ngay từ câu thơ mở đầu tác giả đã “tương” một cú phí lí “tiếng
đàn bọt nước”. Đương nhiên sẽ chẳng có chút logic nào trong trật tự “tiếng đàn” và “bọt nước” kia.
Thế nhưng, nếu chịu động não một chút người đọc sẽ có thể đưa ra nhiều liên tưởng thú vị. Tiếng
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
đàn mong manh như bọt nước. Tiếng đàn hình bọt nước, số phận nghệ sĩ mong manh như bọt
nước,… các mệnh đề không cùng loại được đặt đồng hàng đã tạo nên sự độc đáo cho hình tượng thơ.
Cái biểu đạt ở đây không trực tiếp hướng đến cái được biểu đạt như trong lí thuyết của Ferdinand de
Saussure, mà chỉ hướng đến một cái biểu đạt khác mà thôi. Tiếp đó, cũng vẫn là cách nói đầy chủ
quan: Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt. “Gắt” ở đây diễn tả sắc đỏ. Chữ này thì chẳng có gì lạ, nhưng
sao lại “Tây Ban Nha/ áo choàng”. Nếu không hiểu văn hóa Tây Ban Nha, người đọc sẽ khó có thể
cắt nghĩa được câu thơ này. Hoàn toàn không phải Tây Ban Nha có màu đỏ của tấm áo choàng đó mà
Tây Ban Nha đích thực là xứ sở của đấu bò, xứ sở của những tấm áo choàng đỏ gắt. “Liền kề” giữa
một bên là đất nước và một bên là biểu tượng văn hóa càng giúp cho biểu tượng đó thêm ngời chói.
Khổ thơ đầu diễn tả đất nước và con người thi nhân. Đất nước với chiều sâu văn hóa, thi nhân đi trên
miền văn hóa đó, bình yên, hạnh phúc: li-la li-la li-la. Âm thanh li-la gợi lên tên loài hoa tử đinh
hương (lilac), một loài hoa màu hồng đỏ đằm thắm mà nhiều người dân Tây Ban Nha ưa chuộng.
Trong sắc đỏ của màu hoa và của tấm áo choàng, hành trình của thi nhân vừa ngút ngàn sắc thắm văn
hóa vừa là hành trình đơn độc. Hành trình đó tương ứng với hành trình sáng tạo. Giá trị mà bất kì
một tác phẩm nghệ thuật chân chính nào mang lại cho nhân loại cũng đều được hoài thai trong nỗi cô
đơn và cũng hướng về nỗi cô đơn, có khi là cô đơn miên viễn: miền đơn độc/ với vầng trăng chếnh
choáng/ trên yên ngựa mỏi mòn. Sự cô đơn đó gắn kết với cả giá trị văn hóa. Nhưng mục đích của
nhà thơ không hướng đến đó mà chỉ đưa ra những tín hiệu gợi dẫn người đọc đến những mất mát vô
bờ. Hình ảnh Lorca hiện lên như dáng dấp chàng Kinh Kha đơn độc với vầng trăng với yên ngựa heo
hút dặm trường. Ngay cả cái cách Lorca sang sông cũng gợi hình ảnh Kinh Kha bên Dịch Thủy hàn.
Thì ra, cuộc tiễn đưa nào cũng đều gắn với một dòng sông và tráng sĩ ra đi đều Nhất khứ bất phục
phản. Gợi nhớ Kinh Kha là gợi nhớ đến nét kiêu hùng, gợi nhớ đến cái chết đơn độc giữa xứ sở bạo
tàn. Thơ Siêu thực vừa thiên về trí tuệ vừa đả phá trí tuệ. Đúng hơn là đã phá những trí tuệ đã được
phong kín trong tập quán. Bằng chứng là ngôn ngữ điểm tựa ngàn đời của trí tuệ đã bị các nhà Siêu
thực vần vò cho tơi tả, nhưng Siêu thực vẫn cứ phải diễn đạt hình tượng của mình bằng ngôn ngữ.
Mặt khác, Siêu thực cũng đồng nghĩa với đề cao lí trí. Không có lí trí không thể hiểu thơ Siêu thực.
Thơ vốn là loại hình của cảm xúc, của sự tiên tri, linh cảm. Hình ảnh con người đơn độc đi chếnh
choáng, trên con ngựa mỏi mòn thì chẳng thể nào là dấu hiệu của bình yên, hạnh phúc. Tính dự báo
được đặt ra ở đây. Tiếp theo, hành trình của Lorca sẽ minh chứng điều đó. Có sự tương phản: “Tâyban-nha/ hát nghêu ngao” đối lập với “bỗng kinh hoàng/ áo choàng bê bết đỏ”. Sắc đỏ của áo choàng
được điệp lại nhưng đây là cái chết. Màu sắc của cái chết. Hình khối tan tành và màu sắc đã tan chảy:
Lorca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du. “Hát” và “chết” thì chẳng có mối liên hệ liên
tưởng nào ở đây cả. Thế nhưng sự thực là vậy, sự liền kề diễn tả nỗi mất mát đột ngột. Một con
người đang tràn đầy sức sống bỗng chốc có thể lăn ra chết là điều dễ gặp trong xã hội công nghiệp
hậu hiệu đại nhiều bất trắc hiện nay. Hơn nữa, điều này còn xuất phát từ chính chủ trương sáng tạo
nghệ thuật của các nhà Siêu thực. Theo đó, tất cả những gì nhà Siêu thực làm là để tạo nên “một hiệu
ứng nghịch dị và sửng sốt” mà mục đích là để khắc họa được những hình ảnh xác thực và mạnh mẽ
hơn. “Sự sửng sốt” trước hết chưa tác động ngay đến người đọc mà tác động đến chính nhân vật
trong thơ. Bước đi “mộng du” của Lorca mãi sau đó mới tạo được hiệu ứng nơi độc giả. Đấy là bước
đi của người như đi trong mơ. Bước đi của ảo giác, của vô định. Và đương nhiên, tâm trí của Lorca
cũng rơi vào vô định. Bước đi đó đâu có bận tâm đến chuyện chết chóc kia. “Lợi dụng” ngay chính
sự “vô định” đó của Lorca, nhà thơ xâm nhập vào tâm hồn chàng để diễn tả tiếng đàn. Cách diễn tả
này rất độc đáo vì nó đã “chập” hai cái nhìn của Thanh Thảo và Lorca vào nhau để từ đó tạo nên một
dàn hiệu ứng siêu thực đặc thù: tiếng ghi ta nâu...máu chảy. Tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta xanh, tiếng
ghi ta bọt nước, tiếng ghi ta máu chảy. Âm thanh được hiện hình thành màu sắc, hàng loạt màu được
trưng dụng. Những sắc màu ấy vừa mang tâm trạng của người đứng trước cái chết vừa mang tâm
trạng của người hoài niệm, tiếc thương. Từ màu sắc (nâu, xanh), tiếng ghi ta chuyển sang hình
khối (bọt nước), rồi vận động (máu chảy), sự chảy tan của máu gợi màu đỏ. Chỉ cấu trúc siêu
thực mới có thể thực hiện được điều này.
MOON.V N
Vậy nên, đến với thơ Siêu thực lần đầu, không ai không khỏi ngỡ ngàng. Cảm hứng sáng tác đã có sự
xô lệch so với các lối viết không phải là Siêu thực. Nghệ sĩ (không phải một mà là hai hay nhiều hơn
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
nếu tính cả người thưởng thức) với bầu trời tự do và “cô gái”, món này thì chẳng thể nào thiếu đối
với một thi nhân lãng mạn hàng đầu như Lorca, sự liệt kê hồn nhiên những phẩm chất quen thuộc
của nghệ sĩ. Sự liệt kê này vừa nêu một bản chất tự nhiên của nghệ sĩ với cái đẹp, đồng thời ngợi ca
hạnh phúc tự do của con người. Lại vẫn bút pháp “liền kề gây sốc”. Khung cảnh đẹp như mộng trên
phút chốc đã vỡ tan, đã thành chết chóc “ròng ròng máu chảy”. Sự tương phản giữa màu đỏ của máu
(gợi nhớ lại màu đỏ của tấm áo choàng) và màu xanh của tiếng ghi ta đã khiến cái chết thêm phần
thảng thốt, để tâm trạng người đọc rơi vào tiếc nuối khôn nguôi. Bên cạnh chủ trương đặt liền kề các
sự vật hiện tượng một cách bất ngờ, gây ngạc nhiên, chủ nghĩa Siêu thực còn phủ nhận tính mạch lạc
và nhân quả trong tái hiện hiện thực. Họ cho rằng những mạch lạc nhân quả hiện thời của diễn ngôn
trần thuật đã được hình thành từ lâu trong lịch sử và đã không phù hợp với thị hiếu mới của công
chúng hậu hiện đại. Nó đã trở thành một tập quán xấu và bất di dịch trong hằng bao thế kỉ. Nghệ sĩ
cần phá bỏ những tập quán phi lí. Dựa trên những cách tân đó, các nhà Siêu thực cho rằng tác phẩm
của họ diễn đạt một kiểu triết học số một, triết học nguyên thủy, rằng sáng tác của họ là những “vật
tạo tác” (artifact) như những mẫu vật mà người nguyên thủy đầu tiên trên thế giới làm ra. Trong cơn
phấn khích, chủ soái của phong trào Siêu thực Breton tuyên bố tác phẩm của chủ nghĩa siêu thực
mang tính cách mạng nhất trong mọi khả năng cách mạng từ trước đến nay. Tính cách mạng đó được
bộc lộ trước hết qua khả năng du nhập cái tôi người đọc lên văn bản. Đây chính là hiệu quả số một
mà các nhà Siêu thực chủ trương trong tác phẩm của mình. Người đọc đến với bài thơ như thể đứng
trước một bức tranh mà bố cục tranh đã bị đảo lộn nghiêm trọng. Toàn bộ bức tranh đó chỉ có giá trị
gợi tưởng tượng, ý tưởng chứ không thể nào gợi được nội dung hay cảm xúc cụ thể như các loại
tranh trước đó. Trở lại với bài thơ của Thanh Thảo, mạch cảm xúc thơ được triển khai theo trục sự
kiện: Lorca nghệ sĩ tự do, bị bắt giết và cái chết sau đó. Cảm xúc này rất cổ điển, bởi nói cái chết thì
gợi nhắc sự sống và sự sống sau khi chết là những phạm vi thuộc trường liên tưởng thông thường.
Thế nhưng bằng việc sử dụng hình ảnh, giai điệu,… khác lạ, Thanh Thảo vẫn tạo nên được dư ba của
dòng Siêu thực. Cuộc đời Lorca gắn với tiếng đàn. Ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí
nghệ thuật tinh khiết. Mẹ ông là một nghệ sĩ piano, bản thân ông chơi đàn rất giỏi. Tiếng đàn, đấy
chính là hồn cốt của nghệ sĩ Lorca. Gắn với tiếng đàn, đồng nghĩa gắn với nghệ thuật. Lorca chết
tiếng đàn chết, nghệ thuật chân chính cũng không còn. Điều này thật dễ suy đoán. Thế nhưng, đặt
câu thơ theo lối thuận – nghịch kiểu như không ai chôn cất tiếng đàn thì quả thật là một sáng tạo lớn.
Tác giả biến điều bình thường thành khác lạ. Sự lạ hóa ngôn từ của Siêu thực quả rất kì diệu. Đương
nhiên chẳng ai có thể chôn cất tiếng đàn, bởi có chôn cũng chẳng thể, hiểu theo cả nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng. Tần Thủy Hoàng xưa chôn bao nhiêu sách, bao nhiêu nhà Nho. Hitler cũng đốt sách của
bao nhà văn tiến bộ (Kafka, Hemingway, Bretch,..) nhưng kết quả nào như các nhà độc tài đó mong
muốn. Với tiếng đàn Lorca cũng vậy, nếu có ai cố công đi chôn cất tiếng đàn thì kẻ đó đích thực là
thằng điên. Vậy mà trong diễn ngôn thơ Lorca, hành động thuận – nghịch đó nghe thật nên thơ:
không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang. Đơn giản vì tiếng đàn như cỏ mọc hoang
nên tiếng đàn không thể chết. Chỉ cần đưa thêm một vế so sánh, nhà thơ đã khiến trường liên tưởng
thông thường của người đọc đổi hướng. “Đổi hướng” đã trở thành mệnh lệnh tối thượng của Siêu
thực. Đổi hướng đồng nghĩa với việc biến cái bình thường thành khác thường. Biến quen thành lạ và
ngược lại. Đọc tác phẩm Siêu thực chúng ta sẽ luôn vấp phải những cú đổi hướng bất thình lình như
thế. Đang nói chuyện tiếng đàn, nhà thơ lại chuyển sang chuyện nước mắt và sau đó là chuyện đường
sinh mệnh trên bàn tay đã đứt: giọt nước mắt vầng trăng. Không thể cho rằng tính mạch lạc trong
văn bản đã bị phá bỏ. Bất kì một sáng tạo văn chương nào cũng đều dựa trên một nguyên tắc mạch
lạc nào đó. Không có yếu tố mạch lạc sẽ không còn tác phẩm. Với những chặng cách tân văn
chương, nghệ sĩ chỉ thay đổi thói quen mạch lạc này bằng một mạch lạc khác mà thôi. Những tập
quán mạch lạc này vì thế sẽ thay đổi qua thời gian khi xuất hiện một sự già cỗi, một cuộc cách mạng
văn chương. Đoạn đầu bài thơ, Thanh Thảo bố trí câu thơ theo lối tồn tại độc lập: “tiếng ghi ta lá
xanh biết mấy/ tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” nhưng sang đoạn thơ sau, các câu thơ đã được dựng
theo cặp đôi:Lorca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc. Tính chất cặp đôi không phải kiểu các
câu đối nhau trong thơ Đường mà là cặp đôi vắt dòng. Lối thơ thường được các nhà lãng mạn sử
dụng. Cách đặt câu thơ này khiến các dòng thơ ngân nga tiếng nhạc, gợi nên sự sóng đôi, nhưng
không để diễn tả sự trọn vẹn mà diễn tả sự mất mát. Lại một cách lạ hóa nữa của bút pháp Siêu thực.
MOON.V N
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Những tiếng thơ tiếng nhạc tròn đầy chuyển tải trường liên tưởng đến mất mát, hư vô. Dẫu thế thì
hình ảnh “sang sông” (trong bài Thanh Thảo dùng “sang ngang”) như đã nói, lại gợi hình dáng Kinh
Kha, một anh hùng khí phách, nhưng không đi bằng thuyền mà bằng “ghi ta màu bạc”, một khát
vọng hòa bình đau đáu, hoàn toàn khác với Kinh Kha trong sứ mệnh hành thích, một hình ảnh đẹp
trong siêu thực ngỡ ngàng.
2.3. Xây dựng cấu trúc bài thơ đầy ngẫu hứng: thơ- ca khúc ( thi phẩm- nhạc phẩm)
- Nhập cấu trúc ca khúc vào bài thơ: mạch kể chuyện (cốt tự sự) hiện ra qua cấu trúc của một ca
khúc. Thanh Thảo đã vận dụng phương thức của nhạc để làm thơ rất thành công. - Mô phỏng lối tiết
tấu của nhạc (mô phỏng chuỗi âm thanh: li-la li-la li- la). Thanh Thảo đã “khảm” tiếng nhạc vào
ngôn từ, hình ảnh thơ để âm nhạc đến cùng với thi ảnh, với ngôn từ và tạo nên sức gợi vô cùng
lớn.Trong thơ Thanh Thảo, ta thấy, các hình ảnh “vầng trăng”, “đáy giếng” gợi khung cảnh thanh
bình của làng quê Việt trong ca dao. Cách so sánh giọt nước mắt như vầng trăng gợi hình ảnh đẹp.
Hình ảnh này ngợi ca cái chết cho tự do của Lorca, đồng thời cũng gợi trong người đọc sự siêu thoát.
Cái chết của Lorca như một tiền định. Dấu hiệu “đường chỉ tay đã đứt” là định mệnh. Tuy nhiên nếu
chỉ dựa vào tính “thiên định” này để lí giải cho cái chết của Lorca thì chưa thật hiểu hết dụng ý của
tác giả. Một mặt, Thanh Thảo dùng chi tiết “đường chỉ tay đã đứt” để làm giảm nhẹ nỗi đau mất mát
trước cái chết của Lorca, nhưng mặt khác người đọc vẫn có thể liên tưởng đến cái chết “nhân định”
khi bè lũ phát xít độc ác bóp nghẹt tư tưởng tự do của những con người tiến bộ. Đường chỉ tay đó đứt
là do kẻ xấu làm đứt. Hiểu như thế mới thấy được sức tố cáo tội ác của văn bản. Tuy nhiên ước vọng
cuối cùng của con người nhân văn là ước nguyện siêu thoát. Đáng nói là sự siêu thoát đó đến từ
chính Lorca, người chủ động trên hành trình giải thoát của mình: chàng ném lá bùa cô gái digan...Có sự “tương đồng siêu thực” giữa “xoáy nước” (động) và “lặng yên” (tĩnh). “Ném lá bùa”,
“ném trái tim”, vào xoáy nước, vào lặng yên những hành động dứt khoát không hề bi lụy, một sự rũ
bỏ mọi vướng mắc bụi trần đến tuyệt đối. Hình tượng thơ cuộn sóng lên lần cuối rồi lặng im trong
dáng vẻ vĩnh hằng, trong hư vô ngập tràn. Lorca đã đi đến tận cùng của giải thoát. Bốn dòng thơ thực
chất chỉ hai câu thơ mà lại được điệp rất nhiều từ ngữ. Ngoài động tác “ném” hai câu thơ còn có mối
liên kết rất siêu thực “lá bùa cô gái” và “trái tim”. Ở đây như có mối liên hệ giữa lá bùa cô gái và trái
tim, ta ngỡ như đấy là chuyện tình yêu. Hình ảnh cô gái đầu bài thơ (bầu trời và cô gái ấy) đến đây
hiện rõ hình hài hơn (cô gái di-gan). Cô gái và trái tim, đích thị là chuyện tình cảm nam nữ rồi. Thế
nhưng dường như còn có cách cắt nghĩa khác. Giữa cô gái di-gan và trái tim đó là hai khách thể độc
lập, chẳng liên quan gì nhau. Chàng ném lá bùa (có lẽ là bùa yêu hay bùa hộ mạng) tương tự như
cách ném trái tim. Trái tim đồng nghĩa với tình yêu thương, nhưng tình yêu thương lại luôn gây
nhiều phiền toái. Khi mặt đất cằn khô tình người vì các thế lực xấu xa hoành hành thì trái tim kia thà
“quẳng đi” còn hơn phải chịu quằn quại dưới ách bạo tàn. Mặt khác trái tim còn đồng nghĩa với năng
lực sáng tạo. Trái tim bị ném đi khi thế gian đầy ắp độc tài không còn thơ cho những con người chân
chính. Nhưng trái tim đó vẫn đợi tái sinh. Đến đây liên văn bản lại phát huy sức mạnh, qua tiếng
ngân của điệu nhạc trái tim: li-la li-la li-la... Sự tái sinh không chỉ hiện hình qua hình ảnh sang sông
đầy triết lí nhà Phật mà còn đến từ chi tiết “tiếng đàn như cỏ mọc hoang” gợi sự sống bất diệt
trong Lá cỏ của Walt Whitman, thi hào nổi tiếng của Hoa Kỳ. Whitman từng ngợi ca ngọn cỏ vì sự
sống khiêm nhường mà bất tử. Nơi nào có sự sống, nơi đó có cỏ. Nơi không còn loài cây nào có thể
tồn tại, thì cỏ vẫn có thể mọc xanh tươi. Vậy nên, khi chết nhà thơ mong muốn được tái sinh làm
ngọn cỏ. Tứ thơ “tiếng đàn ngọn cỏ” mở ra trường liên tưởng mênh mông về thời gian (Whitman
sống vào thế kỉ 19) về không gian (Tây Ban Nha – Hoa Kỳ – Việt Nam), về sự sống và sự bất tử, về
cái nhất thời và lẽ vĩnh hằng. Cái xấu, cái ác trong nhưng hoàn cảnh nào đó có thể chiến thắng nhưng
thường xuyên chúng phải khuất phục trước những chân lí tiến bộ của loài người. Giai điệu tiếng nhạc
ngựa, tiếng đàn, tiếng vũ điệu flamenco li-la li-la li-la từ đầu bài thơ được dùng để kết bài đã tạo nên
một vòng tròn. Cái vòng tròn chuyển tải nhiều tầng liên tưởng. Một cái vòng tròn biểu thị “không”
trong triết lí của Phật giáo. Một vòng tròn biểu thị sự cáo chung của kiếp đời. Một vòng trong biểu
thị sự luân hồi, tái sinh. Một vòng tròn biểu thị sự quẩn quanh của số kiếp… Có bao nhiêu tâm trạng,
MOON.V N
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
bao nhiêu sự hiểu biết của người đọc thì sẽ có bấy nhiêu tầng nghĩa được tái sinh trong văn bản. Liên
văn bản của Siêu thực đã đạt đến cảnh giới phi phàm của thi ca.
2.4. Sự sáng tạo ấy là kết quả của mối đồng cảm sâu sắc của Thanh Thảo với Lor-ca. Đây phải
chăng là sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo nghệ thuật. Thanh Thảo đã bắc nhịp cầu tri
âm đến Lor-ca và khẳng định được ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương. Và nhờ
Thanh Thảo mà người đọc chúng ta hiểu hơn về Lor-ca.
MOON.V N
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM (tiết 1)
I- Tìm hiểu chung
1. Tác giả: sinh năm 1943- Quê: Thừa Thiên - Huế- Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ
thơ trẻ những năm chống Mĩ cứu nước. - Phong cách nghệ thuật: giàu chất suy tư, chính luận, xúc
cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân
dân.- TP chính: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974)
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời
- Sáng tác 1971, tại chiến khu Trị - Thiên (những năm cuối của cuộc k/c chống Mĩ cứu nước)
- In lần đầu năm 1974
2.2. Kết cấu, bố cục: gồm 9 chương
2.3. Thể loại : trường ca: Là thể loại tác phẩm có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố tự sự và trữ tình.
2.4. Đoạn trích
- Xuất xứ: phần đầu chương V của trường ca.
- Chương V có vị trí đặc biệt, hội tụ chủ đề tư tưởng tác phẩm: sự thức tỉnh của thế hệ trẻ các thành
thị miền Nam, (rộng hơn: sự tự nhận thức của tuổi trẻ VN) về sứ mệnh và trách nhiệm với dân tộc.
2.5. Bố cục
- Phần 1 : Cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân
- Phần 2 : Tư tưởng “Đất nước của nhân dân”: Nhân dân làm nên Đất nước
II- Đọc hiểu văn bản
1- Phần 1: Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân (Bốn mươi hai dòng thơ đầu)
1.1. Chín dòng thơ đầu: lí giải cội nguồn của đất nước (Đất nước có từ bao giờ?)
- Không bắt đầu từ một cách trang trọng (mà lại hết sức bình dị, gần gũi).
"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có từ trong cái ngày xửa ngày mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc "
Đất nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người.
“Đất nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa...” -> Đất nước có từ rất lâu, rất xa trong lịch
sử.
+ Khởi đầu: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” -> nhận thức: khởi thủy Đất nước là
văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt (Từ truyện cổ tích đến ca dao, tục ngữ, “miếng trầu” đã là một
hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm
hồn dân tộc)
+ Sự trưởng thành: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” -> nhận thức về tính
cách anh hùng- từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tựơng cho
sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tựợng cho những phẩm chất tốt
đẹp của con người Việt Nam. Đất nước có trong truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chỉ
lớn lên, trưởng thành trong chiến đấu. -> Cảm nhận, lí giải cội nguồn đất nước bằng những hình ảnh
bình dị, đời thường, khẳng định: đất nước không xa xôi, trừu tượng mà gần gũi, thân quen ngay
trong cuộc sống của mỗi con người
MO O N.VN
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Giọng thơ: thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy tư về cội nguồn đất nước giàu chất triết luận mà
vẫn thiết tha, trữ tình. Từ câu chuyện cổ tích của mẹ kể, miếng trầu của bà, hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta
ở, tất cả đều là hiện thân, là khởi nguồn của đất nước.
- Để nói về lịch sử trường tồn của đất nước, nhà thơ đã không bắt đầu bằng việc đưa ra các sử liệu
mà những gì rất gần gũi, quen thuộc trong đời sống của nhân dân ta, được gợi ra từ những chất liệu
của văn hoá dân gian, ca dao, tục ngữ.
+ Những câu thơ mở đầu gợi nhớ đến những truyền thuyết và cổ tích, vào loại xa xưa nhất của dân
tộc (truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng) nền văn minh lúa nước đã hình thành từ thời Âu
Lạc xa xưa và những tập quán phong tục lâu đời (tóc mẹ thì bới sau đầu). Đó chính là sự cảm nhận
về chiều sâu lịch sử của đất nước.
+ Ở đây có những phát hiện rất bất ngờ. Nó cũng là bình diện về bề dày văn hoá. Một đất nước mà
chỉ dừng lại ở lãnh thổ, lịch sử không thôi thì chưa đủ. Một đất nước muốn chứng tỏ sức sống của
mình cần phải được đảm bảo bằng văn hoá. Cho nên nói về đất nước, không thể thiếu được bề dày
văn hoá của mình.
+ Nguyễn Khoa Điềm điểm lại di sản văn hoá ông cha ta để lại không phải là những công trình,
những tác phẩm văn hoá, những đền đài miếu mạo, pho tượng ... mà những giá trị, những vật phẩm
văn hoá được nói đến rất rộng rãi. Rất có thể một kiểu để tóc của người Việt Nam cũng là một giá trị
văn hoá, hoặc tên gọi cái kèo, cái cột cũng là một giá trị văn hoá, gắn liền với văn hoá Việt Nam
hoặc cách yêu nhau được biểu hiện bằng gừng cay muối mặn cũng thuộc về phạm trù văn hoá, hay
cách làm ra hạt gạo, hạt lúa, "một nắng hai sương xay giã dần sàng" cũng là một phương diện. Hoặc
đơn giản là những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, huyền thoại còn được lưu truyền trong kí ức cũng
chính là tài sản về văn hoá.
MO O N.VN
* Trong khi nói về văn hoá của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện rất bất ngờ.
Tác giả đã thức dậy trong chúng ta một điều giản dị: đừng coi thường những vật phẩm quen thuộc,
bởi trong mỗi vật phẩm quen thuộc có thể chứa đựng những điều hết sức hệ trọng thiêng liêng. Ví
như hình ảnh miếng trầu- một sự vật bình thường, nhỏ nhoi, dễ bị quên lãng dưới con mắt của người
hiện đại, nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại phát hiện trong đó có một phần đất nước. Miếng trầu thuỷ
chung với người Việt, chia sẻ mọi vui buồn, mọi thăng trầm với con người Việt Nam suốt mấy nghìn
năm qua. Trong miếng trầu của bà ăn hôm nay có 4000 năm tuổi. Có thể nói đây là phát hiện đột
xuất, rất bất ngờ và cũng rất sắc sảo của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho ta thấy đất nước này sở dĩ còn
được đến bây giờ là bởi sự sống bền bỉ của nó gắn liền với những sự vật tưởng như là rất bình
thường nhỏ nhoi.
+ Câu thơ còn có một nghịch lí bởi chữ "bắt đầu". Tại sao miếng trầu hôm nay lại là khởi
nguồn của đất nước 4000 năm trước? Ý niệm về thời gian đã bị xáo trộn làm cho người đọc chúng ta
có thể thấy rằng: cái của 4000 năm trước nó vẫn đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và sự hiện
diện của nó hôm nay luôn luôn nhắc ta nhớ về 4000 năm trước. Phát hiện như thế không chỉ có chiều
sâu về mặt nghệ thuật mà còn có chiều sâu về mặt tư tưởng, gắn với tư tưởng chung bao trùm lên
toàn bộ bài thơ. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến cùng một lúc ba tài sản về văn hoá tinh thần:
+ Những câu ca dao, thành ngữ quen
thuộc
+ Truyện cổ tích Trầu cau
=>
Miếng trầu là một vật phẩm rất điển hình
cho văn hoá dân gian làm nên bộ mặt của
văn hoá Việt Nam
+ Tập tục cổ truyền của người Việt
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Tiếp đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất của các phương diện địa lí và lịch sử,
không gian và thời gian.
Ý nghĩa về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là Đất, Nước và những
liên tưởng gợi ra từ đó.
Trong bài thơ, tác giả nói đến đất nước khi thì như là một chữ khi thì như hai chữ. Khi thì nó
liền lại thành Đất nước, khi thì nó tách ra thành Đất và Nước. Đất và Nước như là hai tế bào gốc,
hai nguyên tố chính của đất nước này. Cho nên ban đầu nói về thời kì sơ khai, Đất và Nước tách
nhau như hai nguyên tố riêng rẽ nhưng khi nó trở thành Đất nước thì Đất và Nước liền lại với nhau.
Đất nước trong sự toàn vẹn của tổ tiên, Đất nước trong tình yêu của cá nhân.
Sự sinh thành của Đất và Nước là gắn liền với tình yêu. Tiếng nói tư duy trữ tình rất thống
nhất với tư tưởng triết học: Đất như là một nguyên tố thuộc dương; Nước như là một nguyên tố
thuộc âm. Cả hai nguyên tố đó hoà hợp với nhau tạo thành sự sống. Khi anh và em hò hẹn thì Đất và
Nước không tách rời nữa mà nó liền lại. Nó liền lại bởi tình yêu và đó chính là cơ sở, cội nguồn
sinh sôi nên đất nước Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Đất nước được bảo tồn bởi tình yêu của
con người.
- Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu
cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc
mẹ,… Có "gừng cay muối mặn", cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa
và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã "nhịp mãi
lên một tấm lòng sứ điệp" để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: "tổng
– phân – hợp"; mở đầu là câu "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", khép lại đoạn thơ là câu "Đất
Nước có từ ngày đó". Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình
đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
MO O N.VN
1.2. Hai mươi dòng thơ tiếp theo: Định nghĩa Đất Nước (trả lời cho câu hỏi: Đất Nước là gì?)
- Cấu trúc: Đất là.... Định nghĩa Đất Nước bằng cách tách - ghép hai từ
Nước là...
Đất Nước là...
Đất Nước -> lối tư duy “chiết tự”, gợi chiều sâu suy tưởng. Đất Nước
là sự hài hòa giữa nhiều yếu tố, trong đó có sự thống nhất của yếu tố không gian địa lí và thời gian
lịch sử
- Không gian địa lí:
+ là nơi sinh sống của mỗi con người (nơi anh đến trường, nơi em tắm,..)
+ là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở (nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn...) -> không gian hẹp
+ là núi, sông, rừng bể (hòn núi bạc, nước biển khơi,...)
+ là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (những ai đã khuất,..dặn dò con
cháu...)
-> không gian rộng lớn, mênh mông.
- Thời gian lịch sử:
Thời gian ở đây được đo bằng những hình tượng huyền thoại lấy từ truyền thuyết: Lạc Long Quân,
Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương, ngày giỗ Tổ. Không gian thấm đẫm tính nguồn cội, hướng người
đọc về với cội nguồn dân tộc, nhắc nhở các thế hệ nhớ về lịch sử dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã sử
dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian để tạo nên được những hình tượng nghệ
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
thuật vừa gần gũi, vừa mới mẻ về đất nước trên cả bề rộng vè không gian địa lí và cả chiều dài thời
gian lịch sử.
1.3. Mười ba dòng thơ tiếp: Đất Nước hóa thân trong mỗi con người
Trong anh và em hôm nay
...làm nên Đất Nước muôn đời
- Đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, xa xôi mà là sự hóa thân, kết tinh trong mỗi con
người. Bởi lẽ mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng một phần di sản vật chất và tinh thần của dân tộc.
- Mạch thơ dẫn đến suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đó cũng là thông điệp
mà tác giả muốn gửi đến mỗi chúng ta. Mặc dù viết với mục đích tuyên truyền, cổ động nhưng lời
thơ của tác giả lại rất đỗi trữ tình, chỉ như một lời tự dặn mình chân thành, tha thiết.
Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…”
- Nhà thơ đã khéo léo tạo ra nhân vật “em” là đối tượng để gửi thông điệp. Qua hình thức đối thoại
trò chuyện, tâm tình, lời thơ như lời của đôi lứa yêu nhau nên ý thơ dễ đi vào lòng người và có sức
lan truyền mạnh mẽ.
* Nét đặc sắc, mới mẻ trong cách cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
Cảm nhận Đất Nước trên nhiều phương diện:
- từ chiều sâu của đời sống văn hoá, phong tục, truyền thống
- từ chiều rộng của không gian địa lí
- từ chiều dài của thời gian lịch sử.
-> Đất nước hiện ra vừa thiêng liêng, sâu xa, lớn lao, vừa gần gũi, thân thiết với mọi người.
=> am hiểu -> tự hào -> biểu hiện của lòng yêu nước
MO O N.VN
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM (tiết 2)
2. Phần 2- Bốn mươi bảy câu còn lại (Trả lời cho câu hỏi: Ai đã làm ra Đất Nước?)
2.2. Mười hai dòng thơ đầu: Nhân dân làm ra vóc hình tổ quốc (Những người vợ nhớ
chồng…những cuộc đời đã hóa núi sông ta)
- Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà
thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa thân thành
những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách
của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”
MO O N.VN
- Tám câu đầu, ta thấy nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê (liệt kê những địa danh), sử dụng động
từ “góp” để diễn tả hình ảnh của nhân dân hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho
Đất Nước. Các danh thắng ấy được nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng
nhân dân.
+ Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho vẻ đẹp của
tình yêu thủy chung bền vững. Hòn Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tô Thị
bồng con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương truyền do hai vợ chồng
yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình đã bất tử.
+ Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm” hình móng chân ngựa mọc
đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội). Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao
quanh núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Đó là “con cóc con gà quê hương góp
cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ
nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông.
+ Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non
Nghiên” do cậu học trò nghèo dựng nên. Đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã
góp cho đất nước bao tên tuổi.
+ Ở miền Nam, danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp: “Những con rồng nằm im góp
dòng sông xanh thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên làng trong mỗi
chuyến di dân”. Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
- Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước.
Nhân Dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng
sông, khắp mọi miền đất nước này:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
+ Hai câu đầu trong bốn câu thơ trên khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất
Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm
phần tươi đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp
danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là
truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
+ Ở hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ: “Những
cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để
góp nên. Nhân Dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số phận mình. Ý thơ giản
dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc.
- Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do. Câu thơ
mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức gợi cảm và khái quát cao. Thủ pháp
liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng liêng. Động từ
“góp” được nhắc lại nhiều lần. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước.
2.3. Ba mươi lăm câu cuối: Nhân dân làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa
(Em ơi em hãy nhìn rất xa…đến hết)
- Nhà thơ chuyển từ bút pháp sử thi sang giọng điệu trữ tình, nhà thơ tâm tình với “em” mà tìm sự
đồng cảm của hết thảy chúng ta: “Em ơi em Hãy nhìn rất xa/ Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp/ Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta / Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con…” . Càng nhìn sâu vào
“bốn nghìn năm Đất Nước”, nhà thơ càng thấm thía với công lao xây dựng, vun đắp, bảo vệ đất
nước. Đặc biệt là lớp người tuổi trẻ, những “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta” đã làm cho nhà thơ
xúc động mãnh liệt. Có lẽ đây là trực cảm của nhà thơ đối với lớp thanh niên trong thời kì chống Mĩ
cứu nước- “Có biết bao người con gái, con trai/ Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/ Họ đã
sống và chết/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Chính
những người anh hùng vô danh ấy đã “giữ và truyền” cho ta từ hạt lúa đến ngọn lửa, từ ngôn ngữ đến
hành động: “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/ Để Đất Nước
này là Đất Nước Nhân Dân”
MO O N.VN
- Như vậy là theo mạch chính luận và suy tưởng, tác giả đã dẫn dắt đến chiều sâu chủ đề khúc trường
ca. Nhưng tác giả không dừng ở phát hiện “Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân” mà còn muốn cho
khái niệm này ngân vang lên trong thần thoại, trong cổ tích, trong ca dao dân ca. Khúc trường ca
không bị khô khan trong triết lí mà trở nên hồn nhiên, tươi mát, huyền ảo: “Đất Nước của Nhân Dân/
Đất Nước của ca dao thần thoại/ Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”/ Biết quý công cầm vàng
những ngày lặn lội/ Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu…”
“Đất nước” là một trích đoạn hay trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm. Bằng hình thức trữ tình – chính luận, tác giả đã khéo léo dẫn dắt đến chủ đề sâu sắc là Đất
Nước Nhân Dân. Xúc cảm trực tiếp, mãnh liệt từ cuộc chiến đấu sinh tử của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ đã giúp tác giả huy động tình cảm, trí tuệ, kiến thức về địa lí, lịch sử, văn học,
đặc biệt là văn học dân gian để diễn tả sức mạnh thần kì của Nhân dân trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước. Một “Đất Nước Nhân Dân” tươi đẹp và thần kì như thế sẽ chiến thắng bất kì kẻ thù
xâm lược nào.
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM (tiết 3)
3- Những nét độc đáo trong nghệ thuật biểu hiện của đoạn trích Đất Nước
3.1. Lối thơ tự do, gần như văn xuôi, hướng sâu đến trí tuệ, vận động bằng chiều sâu của trí tuệ
(không véo von trong cảm xúc). Có những đoạn giãn ra đến mười hai chữ, có chỗ thắt lại trong ba
chữ; lối gieo vần hỗn hợp với nhiều khúc biến tấu: vần chéo, vần lưng, không vần, nhạc điệu bên
trong…có nhiều âm sắc lạ…
3.2. Giọng trữ tình có sự đan xen triết luận và chính luận tạo nên sức mạnh cảm hoá và thuyết
phục. Mượn hình thức trữ tình để lí giải các vấn đề triết luận về đất nước. Hình thức trữ tình trò
chuyện lứa đôi - vốn để trao gửi những tình cảm riêng tư, cá nhân, ở đây lại dùng để gửi gắm những
tình cảm chung, lớn lao, thiêng liêng: tình yêu đất nước, tình cảm với nhân dân. Đất nước nhờ tình
yêu của anh và em mà mênh mông thăm thẳm như một nỗi nhớ thầm…
- Ý nghĩa: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận:
• Tạo giọng thơ trữ tình, thủ thỉ, thiết tha, đằm thắm- dấu ấn thi pháp thơ trữ tình chính trị (liên hệ
với Việt Bắc - Tố Hữu).
• Làm cho những lí giải mang tầm triết học về đất nước trở nên dung dị, dễ hiểu, thấm thía.
(Nói thêm: Hình thức lời tâm tình trò chuyện của anh và em- mang tính giãi bày, bộc bạch, như lời
tự nói, một kiểu tùy bút thơ độc đáo, bộc lộ suy cảm rất sâu về tổ quốc, lồng vào đó suy nghĩ về trách
nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ mình. Chất tư duy logic và chất thơ (chất hình tượng sinh động, chất
xúc cảm của thơ) được kết hợp khá nhuần nhuyễn làm nên chất trữ tình- chính luận của thơ.
MO O N.VN
3.3. Sự cảm nhận về Đất nước một cách toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện
+ Trong chiều dài thời gian lịch sử (Lạc Long Quân, Âu Cơ, vua Hùng, thời trung đại, hiện đại,- quá
khứ - hiện tại - tương lai)
+ Trong chiều rộng không gian địa lí (Trung- Nam- Bắc, vùng núi, đồng bằng, miền biển; không
gian sinh hoạt, không gian riêng tư của tình yêu lứa đôi, không gian hùng vĩ của núi cao sông dài
biển rừng vàng biển bạc…Văn của Eren bua cũng nói đến dòng suối đổ vào sông…tình yêu nước bắt
đầu từ cái cây trồng trước nhà, con phố đổ ra bờ sông, mùi cỏ thảo nguyên, hơi rượu mạnh, từ cụ thể
đến khái quát, từ gần gũi thân thuộc đến thiêng liêng)
+ Trong bề dày của văn hoá - phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc.
=> Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó, thống nhất. Bất kì ở đâu, thời nào, đất nước
cũng là của nhân dân, nhân dân cũng làm nên đất nước, trên bất cứ phương diện nào thì tư tưởng cốt
lõi cũng là quan niệm "Đất nước của Nhân dân". Đó cũng chính là hệ quy chiếu mọi cảm xúc và
suy tưởng. Nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, đặc sắc, làm sâu sắc thêm ý niệm về
đất nước của thơ ca thời kì chống Mĩ, làm nổi bật tư tưởng Đất nước của nhân dân: Đất nước có
trong đời sống của nhân dân, do nhân dân làm ra, trường tồn bất diệt cùng nhân dân, được nói bằng
tiếng nói của nhân dân...
- Từ Nguyễn Trãi (có lật thuyền mới thấy dân như nước); Lê nin (Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng); Nguyễn Đình Chiểu (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc); Phan Bội Châu (dân là dân nước nước là
nước dân) đến Nguyễn Đình Thi (Trời xanh đây là của chúng ta)…các nhà cách mạng, các nhà thơ
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
nhấn mạnh vào quyền sở hữu, quyền làm chủ, đối lập với thời đại trước đó (Đất nước chưa thuộc
quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân chưa có đất nước, coi nước là của Vua (Sông núi nước Nam
vua Nam ở); hay Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ (nói những vấn đề liên quan đến thái ấp của
ta, bổng lộc các ngươi). Nguyễn Khoa Điềm nhìn ra vai trò to lớn của nhân dân trong
3.4. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian
Tư tưởng bao trùm "Đất nước của Nhân dân" khiến cho chất liệu mà Nguyễn Khoa Điềm lựa
chọn để diễn tả phải là chất liệu phù hợp mà trong trường hợp này chất liệu ấy không thể là gì khác
hơn là vốn văn hoá dân gian. Trong trích đoạn thơ, tác giả sử dụng rất nhuần nhị, sáng tạo vốn ca
dao, tục ngữ, thành ngữ, những câu chuyện về cổ tích thần thoại, huyền thoại, thậm chí phong tục,
tập quán…gắn bó lâu đời với người Việt. => Tư tưởng đất nước của Nhân dân được nói dựa trên chất
liệu, kho kiến thức, vốn văn hoá nên có sức thuyết phục hơn.
- Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo, không trích nguyên văn, không kể lể dài
dòng mà chỉ nắm bắt lấy rất nhạy cái hồn của văn hóa dân gian để gợi liên tưởng, suy ngẫm cho độc
giả, tạo cảm giác vừa quen vừa lạ. Quen vì tự thuở ấu thơ, ta đã nằm trong tiếng hát đưa nôi, hồn dân
tộc Việt trong mỗi người đã đắm trong những câu ca dao, tục ngữ; cổ tích, truyền thuyết, tâm hồn ta
đã căng sẵn một sợi dây đàn, chỉ cần một rung động nhỏ là tâm hồn ấy sẽ ngân rung bao hồi ức, bao
rung động; lạ vì từ những chất liệu văn hóa dân gian rất gần gũi ấy, tác giả đã thâu tóm được nhiều ý
tưởng bất ngờ và rất thơ, làm cho người đọc hiểu sâu hơn đất nước nhân dân mình.
- Ngoài ra, việc thể hiện sâu tư tưởng Đất nước của nhân dân. (Sau này, trong trường ca “Đất nước
hình tia chớp”, Nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết năm 1976-1977, cũng sử dụng rất nhiều chất liệu văn
hóa dân gian trong chương V/10 chương- Thương nhau cởi áo cho nhau) còn có tác dụng:
+ Tạo thành bầu khí quyển bao bọc cả bài thơ, cuốn ta vào không khí của ân tình, hoài niệm
+ Nét mới mẻ (so với các nhà thơ khác) là những chất liệu lấy trong đời sống dân gian: có chất văn
hóa nghệ thuật gợi ca dao cổ tích, mang tính chất sang trọng, phù hợp với đối tượng thuyết phục là
những người trí thức trẻ, có trình độ văn hóa, phải chinh phục bằng văn hóa. Bản thân người đọc
cũng phải được tiếp nhận bằng học vấn, phải liên tưởng tìm tòi, đồng sáng tạo cùng tác giả.
MO O N.VN
3.5. Tư duy nghệ thuật hiện đại: mượn những nghịch lí để diễn đạt logic những khám phá, tư tuởng
mới mẻ của mình. Nhà thơ không chuộng sáng tạo những từ ngữ mới lạ, mà tạo ra quan hệ mới lạ
của những từ ngữ thân quen. Những câu đẳng thức gồm hai vế đồng nhất hóa hai đại lượng trái
ngược: bên này là cái nhỏ bé, bên kia là cái lớn lao, phát hiện vẻ đẹp của chân lí dưới những điều
nghịch lí, điều đó xui khiến người đọc phải đập vỡ cái phi lí để đi tìm chân lí (Đất Nước bắt đầu với
miếng trầu bây giờ bà ăn; Em ơi em hãy nhìn rất xa...Đất Nước là nơi ta hò hẹn...)
3.6. Ngôn ngữ
- Tác giả viết hoa từ Đất Nước thể hiện thái độ trân trọng, tôn kính.
- Việc tách hai thành tố Đất và Nước như soi chiếu trong nhiều quan hệ để cảm nhận sâu sắc hơn,
tách ra rồi lại nhập vào: đất là, nước là, đất nước là, ba lần như thể hát ru đất nước lớn dần lên, từ nơi
hò hẹn đến nơi dân mình đoàn tụ, để rồi đẻ ra đồng bào ta, Đất và Nước đã thắm lại thành xương và
máu trong mỗi cơ thể chúng ta, trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Từ ta, anh, em đến đồng bào ta, máu
xương của mình, con ta..vv…xuất, nhập, xuất, nhập, cứ thế, hình tượng Đất Nước lớn dần lên, rồi lại
nhỏ lại để nằm trong máu thịt ta, bồi hồi trong bao niềm rung cảm mà vẫn rất giàu chất trí tuệ giàu
suy luận triết lí hơn…(so với hình ảnh quê hương trong bài thơ Bài học đầu cho con của nhà thơ Đỗ
Trung Quân: quê hương là chùm khế ngọt… hình ảnh bình dị mà tao nhã, gắn liền với kỉ niệm tuổi
thơ)
- Ngôn ngữ mang vẻ thô phác nhưng cũng đầy mãnh liệt gợi về nguồn cội xa xăm: yêu nhau và sinh
con đẻ cái…đẻ ra đồng bào ta…, đàn bà cũng đánh; nhớ ngày giỗ Tổ: mở rộng khái niệm từ “tổ” - hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
giống nòi, tổ tiên; - cội nguồn, nơi cưu mang chở che; - xứ sở (ba nghĩa); hóa thân: quan niệm nhà
Phật- sự hi sinh cho Tổ quốc: có phải thịt da em hóa thành mây trắng (Lâm Thị Mĩ Dạ); từ dáng
đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất- Dáng đứng Việt Nam- Lê Anh Xuân; Em sẽ là hoa
trên đỉnh núi – Núi đôi- Vũ Cao). Con sẽ mang Đất Nước đi xa (tôi dang tay ôm nước vào lòng- Tế
Hanh; ôm đất nước những người áo vải- Nguyễn Đình Thi)
- Giọng điệu: lúc tha thiết bồi hồi, lúc trang nghiêm lắng đọng, lúc trầm lắng trong chính luận suy tư:
Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông: chất chứa suy tư…lúc nhắn nhủ âm thầm mà tha thiết:
những ai đã khuất, những ai bây giờ…cúi đầu: thiêng liêng, sâu nặng, thành kính, ngưỡng vọng tổ
tiên (và đến lượt mình, ta cũng muốn cúi đầu xin nhận nợ tháng năm xa)
* Tóm lại, qua đoạn trích, tác giả đã đem đến cho ta cái nhìn mới mẻ, mang tính phát hiện về
Đất Nước:
+ Đất nước gắn liền với những gì bình dị, thân thiết;
+ Đất nước gắn với cội nguồn
+ Đất nước không chỉ ở quanh ta mà còn ở trong tra, hiện hữu trong mỗi con người, làm nên sự sống
thiêng liêng, cao đẹp,
+ Đất nước là sự gắn bó hài hòa giữa cái riêng và cái chung (hai đứa cầm tay là kết hợp bền chặt, tạo
nên sự sống và thắm tình; cầm tay mọi người là sự liên kết với cộng đồng, có sức mạnh, có tầm vóc)
+ Đất nước là cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ (những ai đã khuất, những ai bây giờ, yêu nhau và
sinh con đẻ cái…) (hình tượng lực lưỡng)- đến TƯƠNG LAI TƯƠI ĐẸP HUY HOÀNG (những
ngày ta từng mơ mộng)
MO O N.VN
+ Nhà thơ cảm nhận đất nước từ nhiều bình diện để làm nổi bật tư tưởng, tình cảm và trách nhiệm
với hiện tại.
Trong nền thơ Việt Nam không hiếm những bài thơ hay về đất nước. Mỗi bài thơ có một vẻ đẹp
riêng, bổ sung một góc nhìn làm cho hình ảnh đất nước hiện lên thêm đa dạng, đẹp đẽ: “Những định
nghĩa cao sang xin dành cho người khác/ Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người/ Là đứng theo dáng
hình của mẹ/ Đòn gánh tre chín dạn hai vai”
- “Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc trên đời” (Thanh Thảo- Những người đi tới biển)
- “Thầy đã giảng cho con về đất nước nhân dân
Để khi mặc lành không quên người áo vá
Ăn miếng ngon nhớ bàn tay trồng khoai dỡ củ
Câu ca dao đau đáu một đời” (Thăm thầy giáo cũ- Nguyễn Bùi Vợi)
- “Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu”- Tạ Hữu Yên
- Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam (Nguyễn Duy)
Điều các nhà thơ suy ngẫm, điều họ rung cảm trong nỗi niềm thổn thức xót xa có lẽ cũng là nỗi lòng
chung của mỗi chúng ta, những người con nước Việt biết yêu tổ quốc mình. Hai tiếng Đất Nước
thiêng liêng đã đi vào nhịp đập trái tim mỗi người và trở thành nguồn xúc cảm nghệ thuật cho nhiều
thế hệ. Trong đó, trích đoạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng có những đóng góp riêng, độc
đáo, trở thành một sáng tác có giá trị, được bạn đọc yêu mến và trân trọng ngay từ khi mới ra đời.
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Có được thành công đó là do tác giả đã nhập cuộc hết mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc,
đã tận mắt chứng kiến những đóng góp to lớn và những hi sinh không kể xiết của nhân dân nên đã
nói bằng tất cả sự trải nghiệm và xúc động thật của lòng mình, truyền được cảm xúc cho bạn đọc.
Không thực sự xúc động và tin tưởng, không thể đồng hóa được vào cách nói, cách nghĩ của nhân
dân. Chất chính luận ở bề mặt, chất trữ tình rất sâu, rọi cái nhìn khám phá lên bản đồ đất nước và bản
đồ của tình yêu nước trong mỗi con người.
MO O N.VN
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM (tiết 4)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI- LUYỆN TẬP MỘT SỐ DẠNG ĐỀ CƠ BẢN
Phần I: Định hướng kiến thức cơ bản
1. Những điểm cơ bản về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông sinh trưởng
trong một gia đình trí thức cách mạng.
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ.
Thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào
cuộc chiến đấu của nhân dân. Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (1972); Mặt đường khát vọng (trường
ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)…
2. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác bản trường ca “Mặt đường khát vọng”
- Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971, tại chiến khu Trị- Thiên,
giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc.
- Mục đích: Bản trường ca ra đời nhằm thức tỉnh tuổi trẻ thành thị ở các vùng tạm chiếm ở miền
Nam nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân,đất nước.Từ đó, kêu gọi, khích lệ
mọi người đứng lên, xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
3. Vị trí và nội dung đoạn trích “Đất nước”
- Đoạn trích “Đất nước” được trích ở phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” .
- Đoạn thơ là những cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về đất nước trên nhiều bình diện (chiều dài của
lịch sử,chiều rộng của địa lý, bề dày của văn hoá, phong tục…). Qua đó, nhà thơ khẳng định tư
tưởng lớn: Đất nước là của Nhân dân, và Nhân dân chính là người đã làm ra Đất nước.
4. Mạch vận động của tư tưởng và cảm xúc của đoạn thơ “Đất Nước”
- Đoạn trích gồm hai phần:
+ 42 câu đầu – Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân, hay sự cảm nhận về đất nước
trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt : địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống. Từ
đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
+ 47 dòng còn lại – Nhân dân làm nên đất nước, hay những suy tư và nhận thức về đất nước : Đất
Nước của nhân dân.
- Giữa hai phần của đoạn trích không có sự tách biệt rành mạch về nội dung. Phần nào cũng thể
hiện sự cảm nhận về đất nước qua các phương diện địa lý, lịch sử, tâm hồn và lối sống…
- Tuy nhiên, nếu chú ý, ta sẽ thấy mỗi phần có những trọng tâm khác nhau trong nội dung tư
tưởng và cảm xúc :
+ Phần 1 của đoạn trích, Đất Nước được cảm từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng
ngày, rồi mở rộng ra với “Thời gian đằng đẵng –Không gian mênh mông” trong những truyết thuyết
về thời gian xây dựng và bảo vệ đất nước. Sau đó, nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm đối với Đất
Nước với mỗi người.
+ Phần 2, cảm nhận về Đất Nước cũng mở ra theo các bình diện không gian địa lý, thời gian lịch
sử, chiều sâu văn hoá và tâm hồn dân tộc, nhưng tất cả các bình diện ấy đều được nhìn nhận và phát
hiện từ một tư tưởng nhất quán, bao trùm: Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân đã làm nên đất
nước. Sự cảm nhận ấy được gợi ra từ bao thắng cảnh thiên nhiên, bao địa danh gắn với tên
người bình dị (“Ông Đốc…..bà Điểm..). Sau đó, nhà thơ hướng đến lịch sử bốn nghìn năm với
những lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên”, “giản dị và bình tâm” – chính họ đã làm nên đất
nước...
Phần II: Luyện tập một số dạng đề cơ bản
Dạng 1: Phân tích, cảm nhận về một đoạn trích
Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm:
MO O N.VN
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
“ Trong anh và em hôm nay,
………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Hướng dẫn làm bài
I/ Mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm là... “Đất nước” là... Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự
gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước...
II/ Thân bài
- Sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không
gian- địa lý, thời gian- lịch sử, phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định :
“Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước”
+ Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra
và lớn lên trên đất nước này. Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất,
tinh thần của đất nước, đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm, nếp nghĩ và cách sống của ta.
- Từ việc khẳng định đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ nói
về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những câu thơ giàu chất chính luận:
“Khi hai đứa cầm tay... Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
- Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và
niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền
nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi/ Khi; Đất Nước/ Đất
Nước), nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa
tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng.
- Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với
tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng: “Mai này
con ta lớn lên... Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Thế hệ sau “con ta lớn lên... sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”. Đất
nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.
- Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người: “Em
ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ...Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải
biết - phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như
nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người (nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng
liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo
huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình - dặn người của nhà thơ.
III/ Kết bài
- Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa
Điềm . Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với
đất nước. Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.
- Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình- chính luận của
nhà thơ.
Dạng 2: Phân tích trong sự so sánh, liên kết
MO O N.VN
Cách trình bày kiểu bài so sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và song song.
Thứ nhất, nối tiếp là lần lượt phân tích từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và khác nhau.
Cách này dễ làm nhưng khó hay, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái so sánh bị chìm. Tuy
nhiên, vì yêu cầu cho đại trà nên đáp án đại học những năm qua thường gợi ý theo cách
này.
Thứ hai là song song tức là song hành so sánh trên mọi bình diện của hai đối tượng. Cách
này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lô gic, sự tinh nhạy trong phát hiện
vấn đề.
- hotline: 04.32.99.98.98
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Ví dụ 1: Khi so sánh bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm, có thể song song so sánh để nhận ra điểm tương đồng và điểm khác
biệt trên các bình diện: Xuất xứ- dụng ý nghệ thuật- hình tượng- chất liệu và giọng điệu trữ
tình. Về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời: Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một chỉnh thể sáng
tạo tổng hợp từ hai bài thơ trước đó và nó có dáng dấp như một trường ca thu nhỏ. Trong
khi đó, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một mảnh nhỏ vỡ ra từ chỉnh thể trường ca lớn .
Một bài là tác phẩm tiêu biểu thời kháng chiến chống Pháp, một bài là tác phẩm xuất sắc
thời chống Mĩ. Về dụng ý nghệ thuật, Nguyễn Đình Thi muốn khái quát hình tượng đất
nước trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Pháp, qua đó gửi gắm những suy tư, tâm
niệm về sức sống diệu kì của dân tộc Việt Nam anh hùng còn Nguyễn Khoa Điềm muốn
làm sáng lên tư tưởng: đất nước của nhân dân qua việc cắt nghĩa lí giải các câu hỏi: Đất
nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Mối quan hệ giữa con người và đất nước?... Về hình
tượng, Nguyễn Đình Thi khắc họa hình ảnh của giang sơn tổ quốc là đất và trời thì
Nguyễn Khoa Điềm hướng đến đất và nước như hai yếu tố khởi thủy hợp lại. Với Nguyễn
Đình Thi, nhân dân là những con người trong một cuộc hành trình trường chinh máu lửa
vươn vai như những thiên thần còn với Nguyễn Khoa Điềm là đám đông vô danh bốn
nghìn thế hệ, hòa nhập vào nhau để hóa thành đất nước trong hình tượng mang màu sắc
huyền thoại. Về chất liệu, Nguyễn Đình Thi sử dụng chất liệu thi ca từ chi tiết đờ i sống
bằng vốn sống và ấn tượng chủ quan trực tiếp còn Nguyễn Khoa Điềm nhào nặn tài tình
vốn văn hóa dân gian trong ca dao, truyền thuyết, cổ tích… Về giọng điệu, bài thơ của
Nguyễn Đình Thi có giọng tráng ca hào sảng dõng dạc. Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là
giọng trữ tình của một chàng trai trong lời tâm tình với người yêu, thân mật mà nghiêm
trang, cảm xúc đan cài suy tư, triết lí làm nên giọng triết luận tâm tình.
Ví dụ 2: Cảm nhận của anh chị về vai trò của nhân dân trong đời sống cá nhân và lịch sử
qua hai đoạn thơ sau:
- “Con gặp lại Nhân dân...cánh tay đưa”
MO O N.VN
- “Không ai nhớ mặt đặt tên...Đất Nước Nhân dân”
Bước 1. Giới thiệu: Đoạn thơ thứ nhất thuộc khổ thứ 5 của bài thơ “Tiếng hát con tàu”, nói
lên niềm biết ơn, tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với nhân dân...Đoạn thơ thứ hai thuộc phần
cuối trích đoạn “Đất nước” trong chương V trường ca “MĐKV”, làm rõ tư tưởng Đất Nước
của Nhân dân, nhấn mạnh vai trò sáng tạo và làm nên lịch sử của những người lao động
bình thường.
Bước 2. Cảm nhận hai đoạn thơ
Bước 3: Điểm tương đồng và khác biệt
- Tương đồng: Cả hai đoạn đều lấy nhân dân làm đối tượng miêu tả nhận thức về vai
trò...đều thể hiện tình cảm ngợi ca, trân trọng, tôn vinh qua ngôn từ giàu tính thẩm mĩ của
nghệ thuật thi ca.
- Khác biệt: Đoạn thơ thứ nhất là sự thức tỉnh, chuyển biến tư tưởng của nhà thơ khi thấy
ngọn nguồn nuôi dưỡng và chân trời nghệ thuật mới của mình ở đời sống nhân dân và đất
nước. Vì thế, lời thơ cất lên tiếng nói biết ơn sâu nặng... Cách thể hiện mang đậm phong
cách của Chế Lan Viên là sáng tạo hình ảnh phong phú. Đoạn thơ thứ hai, hình tượng nhân
dân được khắc họa trực tiếp trong tình cảm ngợi ca và sự tôn vinh, nhận thức sâu sắc về vai
trò làm nên đất nước của nhân dân. Phong cách nổi bật của NKĐ là sự kết hợp hài hòa gi ữa
chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc...
Bước 4: Đánh giá chung: hai đoạn trích đều là những đoạn thơ hay trong mạch thơ về đất
nước nhân dân của thơ ca hiện đại Việt Nam, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác
phẩm và tài năng của các tác giả.
- hotline: 04.32.99.98.98