Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

ÁP DỤNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.63 KB, 40 trang )

ÁP DỤNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
*****
TS. Lưu Kiếm Thanh
Khoa Văn bản và Công nghệ Hành chính

Học viện Hành chính

§1. Chức năng của văn bản quy phạm pháp luật
Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, cấu thành thể chế hành chính nhà
nước hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được nhà nước đặt ra để quản lý sự phát triển
kinh tế - xã hội trên mọi phương diện, bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định, an toàn, bền
vững; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan quyền lực nhà nước,
chế độ công vụ, quy chế công chức, v.v... nhằm ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của
nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân.
Là sản phẩm chủ yếu và trực tiếp của công tác xây dựng pháp luật hình thức hoạt
động cơ bản nhất của nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật phản ánh những nhu cầu phát
triển khách quan của xã hội, là cơ sở tạo nên chất lượng và hiệu quả của quản lý nhà nước.
Để đảm bảo được điều đó, văn bản quy phạm pháp luật phải thực hiện tốt các chức năng
sau đây:
1) Chức năng thông tin
Thông tin là chức năng cơ bản nhất của mọi loại văn bản, không loại trừ văn bản quy
phạm pháp luật. Trong hoạt động giao tiếp muôn hình muôn vẻ của xã hội văn bản quy
phạm pháp luật vừa là phương tiện, vừa là sản phẩm của quá trình truyền đạt "ý chí của
giai cấp cầm quyền" đã được thể chế hóa đến toàn xã hội, cộng đồng nhất định. Thông qua
nội dung của văn bản quy phạm pháp luật pháp luật có thể hiểu rõ được đường lối chính
sách của Đảng, chủ trương của Nhà nước, chính vì vậy việc thông tin, tuyên truyền kịp thời
các văn bản quy phạm pháp luật là hết sức cần thiết. Cũng phải thấy rằng nhiệm vụ của tất
cả các đối tượng nằm trong cải cách hành chính hiện nay đều là thu thập thông tin, tổ chức
xử lý thông tin và ra quyết định. Hiệu quả quản lý nhà nước cuối cùng nằm ở các quyết
định chính xác, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh định hướng cho mọi hoạt động xã hội theo
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong khi đó thực trạng hiện nay cho thấy


việc ban hành luật và các văn bản dưới luật còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Có những
đạo luật liên quan đến nhiều cơ quan chức năng, điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội phức
tạp, mà việc ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật không kịp thời đã làm giảm tính
thông tin cập nhật của luật, gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật.
Để đến với người thực thi văn bản quy phạm pháp luật đang phải trải qua một "hành
trình gian khổ" và "trên hành trình vạn dặm đó, không ít văn bản, quy định mới không thể
đến được" với người thực hiện. Họ không biết để triển khai thi hành, đến khi mắc mớ cấp
trên mới chìa văn bản ra, và họ chỉ còn biết "chịu cứng", không kêu vào đâu được. Đã đến
lúc cần phải thay đổi quy trình ban hành và áp dụng pháp luật, nhằm tạo cho nó có đủ điều
kiện và tiền đề thâm nhập vào cuộc sống, tức là tạo điều kiện để văn bản quy phạm pháp
luật thực hiện có hiệu quả chức năng thông tin của mình.
Ngày nay, trong xu thế phát triển xã hội các đầu mối thông tin tăng nhanh, lượng
thông tin ngày càng nhiều và phức hợp làm cho phương thức thủ công bị quá tải, không

1


còn đáp ứng được, do đó cần ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin hiện đại
vào công tác quản lý nhà nước trên cơ sở phát triển công nghệ thông tin đem lại sự thay đổi
về chất cho quá trình quản lý đó.
Văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện truyền đạt các thông tin quy phạm bằng
ngôn ngữ tiếng Việt. Quy trình truyền đạt thông tin đó chịu sự chi phối của các nhân tố
giao tiếp; chủ thể và đối tượng giao tiếp (ai viết văn bản, ai là đối tượng lĩnh hội văn bản);
nội dung giao tiếp (giao tiếp về vấn đề gì, sự vật, hiện tượng nào?); mục đích giao tiếp
(giao tiếp nhằm thu lại kết quả gì?); cách thức giao tiếp (nhờ phương tiện nào?) và hoàn
cảnh giao tiếp (giao tiếp diễn ra trong những hoàn cảnh nào?). Các thông tin quy phạm
trong sự chi phối của các nhân tố giao tiếp có tác động trực tiếp đến đời sống xã hội (điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội), và ngược lại các đối tượng lĩnh hội cũng có tác động đến
chủ thể tạo lập các văn bản đó, song gián tiếp qua các nhân tố của môi trường giao tiếp mà
thôi.

Để làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là sao cho đại bộ phận nhân dân
nắm được các văn bản liên quan trực tiếp đến đời sống của họ, Nhà nước cần có kế hoạch
và biện pháp cụ thể để phổ biến pháp luật sâu rộng đến người dân. Cụ thể là, Chính phủ đã
ra chỉ thị và có kế hoạch từ năm 1998 đến năm 2002, tăng cường công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật và thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của
Chính phủ mà Bộ Tư pháp là cơ quan thường trực.
Mục tiêu của kế hoạch này là phổ cập kiến thức cơ bản về pháp luật cho cán bộ, viên
chức, những người áp dụng pháp luật, phổ biến các quy định pháp luật về các lĩnh vực liên
quan đến đời sống của các tầng lớp nhân dân và thực hiện chương trình giáo dục pháp luật
có nền nếp cho học sinh trong các nhà trường.
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cấp Công báo nước CHXNCN Việt Nam cho xã,
phường, thị trấn từ 01-5-1998 và giao cho Bộ Tư pháp có kế hoạch xây dựng ở xã, phường,
thị trấn tủ sách pháp luật đã cung cấp các tài liệu cho cán bộ, chính quyền địa phương và
phục vụ nhân dân nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật. Thêm nữa, Thủ tướng Chính phủ cũng
đã có quyết định thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý dành cho người nghèo và đối
tượng chính sách.
Thông qua công tác tuyên truyền pháp luật vai trò thông tin của văn bản quy phạm
pháp luật sẽ góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc nâng cao ý thức pháp luật của toàn
cộng đồng. Có thể thấy chức năng thông tin của văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
chặt chẽ, tác động qua lại thường xuyên với các chức năng của ý thức pháp luật (chức năng
nhận thức, chức năng mô hình hóa pháp lý, chức năng điều chỉnh).
Trong một cơ chế thống nhất các chức năng đó còn bao gồm cả yếu tố đánh giá và dự
báo xã hội. Ý thức pháp luật (được hình thành phần lớn từ nội dung thông tin của văn bản
quy phạm pháp luật) luôn chứa đựng sự đánh giá hiện thực khách quan, đánh giá hành vi
xử sự của con người dưới lăng kính pháp lý. Thêm nữa, cùng với việc đưa ra các nguyên
tắc, mô hình pháp lý cũng như trong thực hiện pháp luật, ý thức pháp luật dự báo và hình
dung trước sự phát triển của các quan hệ xã hội, các hiện tượng pháp lý và kết quả tác động
của các quy phạm pháp luật.
2) Chức năng pháp lý - quản lý
Trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước văn bản quy phạm pháp luật là những văn

bản có hiệu lực pháp lý cao hơn cả. Chức năng pháp lý của loại văn bản này được thể hiện
ở chỗ là chúng được sử dụng để ghi lại các quy phạm pháp luật, là chứng cứ pháp lý để
"điều chỉnh các mối quan hệ xã hội”, trong đó có việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của
công tác quản lý nhà nước. Chính mục đích ban hành đó đã tạo nên chức năng pháp lý của
văn bản quy phạm pháp luật.

2


Là phương tiện và sản phẩm của hoạt động pháp luật nói chung văn bản quy phạm
pháp luật là cơ sở pháp lý vững chắc để nhà nước giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ
quản lý hết sức phức tạp của mình. Chức năng này luôn gắn liền với chức năng và nhiệm
vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể và được thể hiện ở những mặt sau
đây:
a) Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ
quan nhà nước) và hoạt động có hiệu quả chỉ khi xác định được đúng chức năng, thẩm
quyền, trách nhiệm của từng loại cơ quan đó; xác lập được một cách đúng đắn và hợp lý
mối quan hệ giữa chúng; có được những phương pháp và hình thức tổ chức và hoạt động
phù hợp để tạo thành một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực hiện quyền lực
nhà nước. Việc thực hiện những yêu cầu đó phải dựa trên cơ sở vững chắc của những
nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật.
b) Pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý
kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Quản lý kinh tế là công việc hết sức phức tạp và có phạm vi rộng trên quy mô toàn
quốc, do đó Nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ
thực hiện việc quản lý hành chính - kinh tế ở tầm vĩ mô. Quá trình này được thực hiện trên
cơ sở và dựa vào pháp luật, tức là pháp luật với những tính chất đặc thù của nó tạo cơ sở để
đảm bảo cho Nhà nước hoàn thành được chức năng của mình trong lĩnh vực kinh tế.

Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy tình trạng thiếu hệ thống quy phạm pháp luật kinh
tế, cũng như sự tồn tại quá lâu của những văn bản, những quy phạm pháp luật kinh tế của
cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp đã làm giảm hiệu lực quản lý của nhà nước, kìm hãm
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực như
tham ô, lãng phí. Khác với thời kỳ quản lý theo cơ chế cũ, khi pháp luật được quan niệm
như là phương tiện trong tay Nhà nước nhằm để "đẩy mạnh" hay "kìm hãm", xóa bỏ", một
quan hệ kinh tế nào đó, tức là "pháp luật dường như" tồn tại theo "ý muốn chủ quan bắt
nguồn trực tiếp từ những đòi hỏi của Nhà nước nhiều hơn là từ những nhu cầu của các
quan hệ kinh tế", trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước như hiện nay, pháp
luật trước hết tồn tại vì kinh tế, sinh ra trực tiếp từ các đòi hỏi của kinh tế.
Pháp luật trở thành phương tiện quản lý của nhà nước, phương tiện hữu hiệu điều
chỉnh các quan hệ kinh tế thị trường ra đa dạng, phong phú, năng động và phức tạp diễn ra
trong điều kiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều chỉnh pháp luật tạo ra môi trường thuận
lợi, tin cậy và chính thức cho sự tồn tại và phát triển các quan hệ kinh tế, thể chế hóa các
quan hệ tiền hàng, hạch toán kinh tế, hợp đồng kinh tế, các quan hệ về lợi ích và đặc biệt là
thể chế hóa và hoàn thiện cơ chế quản lý về mặt tổ chức và hoạt động, làm cho nó có hiệu
lực thực thi trên quy mô toàn xã hội.
Chẳng hạn, thử xem xét vai trò của pháp luật và tư vấn pháp luật trong môi trường
pháp luật kinh doanh hiện nay.
Nhiều cuộc hội thảo pháp luật về kinh doanh cho thấy, bên cạnh những tích cực thì
pháp luật về kinh doanh hiện còn gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Đó là tình
trạng xây dựng pháp luật không có tầm nhìn xa, ''chỉ thấy cây mà không hấy rừng'', dần
đến pháp luật lạc hậu quá xa so với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội thay vì lợi ích
cục bộ mà cơ quan soạn thảo xây dựng “luật đá luật”, hay vì luật không quy định cụ thể
nên phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành vốn được ban hành chậm, thậm chí còn hướng
dẫn sai luật. Ví dụ, trong một cuộc hội thảo, đại diện Trung tâm Phát triển ngoại thương
Thành phố Hồ Chí Minh tổng kết được 11 “điểm nóng” liên quan đến lĩnh vực hải quan,

3



đại diện Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nêu ra 14 điểm vướng mắc
của Luật Phá sản Doanh nghiệp, có báo cáo còn nói Luật Phá sản Doanh nghiệp bị ''phá
sản'' để chỉ sự bất cập của luật so với đời sống kinh doanh của doanh nghiệp.
c) Pháp luật bảo đảm thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực
nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.
Văn bản quy phạm pháp luật là một trong những cơ sở pháp lý vững chắc để xác lập
những nguyên tắc và quy định phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đồng bộ
của hệ thống chính trị. Việc củng cố và hoàn thiện hệ thống chính trị là sự thể hiện quan
trọng hàng đầu của sự thiếp lập và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhận thức rõ
điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm củng cố hệ thống
chính trị, phát huy sức mạnh của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do chưa có đủ
hệ thống quy phạm pháp luật để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị, nên việc phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống đó còn có
những hạn chế nhất định.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện trong việc xác lập và điều chỉnh các mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Những quyền tự do dân chủ phải được quy định của
thể trong pháp luật; Nhà nước phải bảo đảm cho công dân thực hiện các quyền đó trong
khuôn khổ luật định. Đồng thời, pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ tương ứng mà
công dân phải thực hiện để đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực quyền làm chủ của nhân dân
vẫn còn bị xâm phạm, mặc dù việc ban hành thêm nhiều văn bản quy phạm pháp luật là
một thành tích không thể không nhận thấy (riêng Quốc hội khóa IX đã thông qua 44 luật và
43 pháp lệnh). Để giải quyết vấn đề này cần phải có những giải pháp đồng bộ và thật cụ
thể. Văn bản quy phạm pháp luật sẽ góp phần đáng kể vào việc xây dựng quy chế dân chủ,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từ đó tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
d) Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trong thời kỳ quá độ, bên cạnh hệ thống quy

phạm pháp luật được đặt ra để điều chỉnh, hướng dẫn hành vi xử sự của các chủ thể, thiết
lập một trật tự quan hệ pháp luật, thúc đẩy quá trình phát triển và những tiến bộ xã hội,
pháp luật còn chứa đựng những quy phạm cấm mọi hành vi gây mất ổn định chính trị và
trật tự an toàn xã hội, xâm hại đến lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân. Những biện
pháp được pháp luật quy định để áp dụng trong những trường hợp có vi phạm pháp luật
(của cá nhân hay một tổ chức) thể hiện sức mạnh nhà nước, quyền lực của nhân dân một
cách công khai có ý nghĩa rất lớn để răn đe, phòng ngừa, đồng thời là cơ sở để xử lý và
trừng trị nghiêm khắc những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong lĩnh vực này, pháp luật
là công cụ sắc bén nhất bởi vì nó thể hiện sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
e) Pháp luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ
Pháp luật là phương tiện quan trọng để giáo dục với mọi người từ những nhân viên
nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân. Những quy phạm pháp luật được
đặt ra luôn xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự
của mỗi chủ thể khi ở trong tình huống đã được dự kiến. Pháp luật tạo cho mỗi chủ thể khả
năng sử dụng những quyền đã được quy định để phục vụ lợi ích của mình, nhưng đồng thời
phải thực hiện những nghĩa vụ tương ứng để tôn trọng quyền và lợi ích của các chủ thể
khác, của tập thể và Nhà nước.
Sự tồn tại của hệ thống quy phạm pháp luật tự bản thân nó đã có ý nghĩa giáo dục, nó
tác động tới nhận thức và tư tưởng của mỗi thành viên trong xã hội, giáo dục ý thức "một

4


người vì mọi người, mọi người vì một người", tôn trọng các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời ý nghĩa giáo dục còn thể hiện ở việc pháp luật còn quy định những hình
thức và mức độ khen thưởng, khuyến khích vật chất và tinh thần đối với những thành viên
có nhiều cống hiến cho Nhà nước và xã hội; xử lý và trừng trị nghiêm khắc đối với những
người vi phạm pháp luật làm xâm hại lợi ích của cá nhân, tập thể hoặc Nhà nước.
f) Pháp luật xã hội chủ nghĩa tạo dựng những quan hệ mới
Bên cạnh chức năng phản ánh, mô hình hóa các nhu cầu khách quan của xã hội, pháp

luật xã hội chủ nghĩa còn có khả năng "đi trước", định hướng cho sự phát triển của các
quan hệ xã hội, vì vậy nó có vai trò rất lớn trong việc tạo dựng ra những quan hệ mới.
Đời sống xã hội vốn rất sống động và thực tiễn thường diễn ra những thay đổi
thường xuyên. Tuy nhiên về căn bản những thay đổi đó vẫn diễn ra theo những quy luật
nhất định mà con người có thể nhận thức được. Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự
báo khoa học, người ta có thể dự kiến được những biến đổi có thể diễn ra với những tình
huống (sự kiện) cụ thể, điển hình cần tới sự điều chỉnh bằng pháp luật, từ đó pháp luật
được đặt ra để tạo cơ sở cho việc xác lập những quan hệ mới, đồng thời có thể thiết kế
những mô hình tổ chức tương ứng, chủ động và kịp thời tác động thúc đẩy nhanh quá trình
phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, pháp luật bao giờ cũng có sự ổn định tương đối. Sự hình thành mới hoặc
những thay đổi thường chỉ diễn ra với từng bộ phận nhất định của hệ thống pháp luật, ít có
những đột biến toàn phần trong một thời gian ngắn. Tính định huống của pháp luật cũng
theo quy luật đó. Các quy phạm định hướng chỉ là một bộ phận nhất định trong hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia.
Sự kết hợp hài hòa giữa tính cụ thể, tính thời sự của pháp luật với tính tiên phong
(định hướng) của nó có một ý nghĩa rất quan trọng, vì chính điều đó sẽ tạo ra được sự ổn
định và phát triển, kế thừa và đổi mới, làm cho pháp luật luôn năng động, thích ứng tiến
bộ.
h) Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác và
phát triển
Sự hợp tác và các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia chỉ có thể phát triển trong
môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Pháp luật là
phương tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường ổn định đó, bởi vì chính
nhờ những đặc điểm đặc thù của mình, pháp luật có khả năng thiết lập một trật tự mà ở đó
mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ phải tôn trọng những cam kết và phải chịu trách
nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện quyền lực nhân dân, phản ánh những lợi ích cơ
bản, lâu dài của dân tộc, của quốc gia, của tập thể và cá nhân luôn luôn là cơ sở vững chắc
cho việc củng cố và mở rộng các mối quan hệ hợp tác và phát triển với các quốc gia và tổ

chức quốc tế.
Với phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới" mấy
năm vừa qua hệ thống pháp luật Việt Nam đã có bước phát triển mới: Toàn diện hơn, phù
hợp hơn, vừa thể hiện tính dân tộc vừa thể hiện tính thời đại. Ở Việt Nam đã có được môi
trường pháp lý đáng tin cậy và nhờ đó các mối quan hệ hợp tác và phát triển đã có sự mở
rộng và mang lại hiệu quả quan trọng.
Thực tiễn càng cho thấy rõ là, muốn thực hiện tốt sự quản lý của nhà nước, đẩy
nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng
phát huy vai trò của pháp luật, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thóng pháp luật phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển
chung của tình hình quốc tế và khu vực.
5


3) Chức năng lịch sử - văn hóa
Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn tư liệu lịch sử quý giá cho chúng ta hình dung
được lịch sử nhà nước và pháp luật của đất nước. Có thể tìm thấy trong chúng những định
chế cơ bản của nếp sống, của văn hóa trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau của sự phát
triển xã hội, phát triển đất nước, những tư tưởng và quan điểm trong cách quản lý và điều
hành đất nước. Có thể nói văn bản quy phạm pháp luật là một phần, phần tiêu cự của tấm
gương phản ánh lề lối của từng thời kỳ là một biểu hiện của văn hóa quản lý. Thí dụ,
nghiên cứu các văn bản pháp luật của thế kỷ XV, đặc biệt là bộ Quốc triều hình luật (Luật
Hồng Đức) có thể, thấy vào thế kỷ 15, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của
giai cấp phong kiến thống trị và trở thành quốc giáo, và trên nền tảng của hệ tư tưởng đó
nhà nước phong kiến Việt Nam chủ trương đức trị (dùng giáo lý đạo đức để cải hóa, cai trị,
hướng về mục đích trau dồi nhận cách), song đồng thời cũng thấy rõ tầm quan trọng của
pháp luật trong công việc trị nước, và do đó đã chủ trương những điểm mạnh của pháp trị.
Đặc biệt, các quy phạm pháp luật của Bộ luật Hồng Đức đã phản chiếu một cách trung
thực tình trạng xã hội Việt Nam thời Hậu Lê và cho thấy cách giải quyết những vấn đề xã
hội đặt ra của giai cấp thống trị Hậu Lê: tôn trọng quyền lợi cá nhân và quyền lợi xã hội

nói chung, hạn chế chế độ nô tỳ và bảo vệ sản xuất, quan tâm đến đời sống nhân dân và
vấn đề cứu tế xã hội...
Thể hiện trình độ văn minh pháp lý của mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể (so sánh Bộ luật
Hồng Đức và Bộ luật Gia Long; so sánh Hiến pháp nước CHXNCN Việt Nam 1946, 1959,
1980, 1992), văn bản quy phạm pháp luật với chất lượng cao có thể được xem là "biểu mẫu
văn hóa có ý nghĩa đối với đời sống con người" do đó "văn bản sẽ có một vai trò rất quan
trọng trong việc tạo ra một nếp sống mới cho xã hội. Nó đòi hỏi việc soạn thảo văn bản
phải góp phần nâng cao văn hóa quản lý, tạo nên một di sản văn hóa có giá trị cho đất nước
mai sau".
Ngoài các chức năng cơ bản kể trên văn bản quy phạm pháp luật còn có một số chức
năng khác như chức năng thống kê, chức năng kinh tế, v.v...
Thống kê kinh tế – xã hội là một trong những công cụ quan trọng để nhận thức xã
hội, là những tri thức có thể làm thay đổi ý thức của khách thể quản lý. Những thông tin
thống kê chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa to lớn đối với hiệu
quả của công tác quản lý nhà nước. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá: “Thống
kê không phải chỉ là cộng trừ, nhân chia. Mỗi con số đều có ý nghĩa. Tình hình nước mình
thể hiện trong con số, tương lai cũng ở trong con số, kế hoạch cũng ở trong con số”. (48)
Về ý nghĩa kinh tế có thểû thấy, những văn bản có nội dung khả thi, phù hợp với
thực tiễn khách quan, phản ánh được quy luật vận động của thực tiễn khách quan sẽ thúc
đẩy xã hội phát triển về mọi mặt, đặc biệt sẽ là cơ sở tạo đà cho phát triển kinh tế. Văn bản
quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý cần thiết cho các hoạt động kinh tế, hành lang đó
cần thông thoáng, song không vì thế mà có quá nhiều kẽ hở, “lối ngang, lối tắt” dẫn đến
tình trạng quản lý kém hiệu quả. Mục tiêu cuối cùng là những hiệu quả kinh tế đích thực
nhằm làm cho “dân giàu, nước mạnh”.
Mọi chức năng của loại văn bản này được thực hiện trong một chính thể thống nhất
của việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.

§2. Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
1) Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật được quy định hiệu lực về thời gian (thời điểm có hiệu

lực thi hành), không gian và đối tượng áp dụng.
a) Về thời điểm có hiệu lực thi hành:

6


Đối với văn bản quy phạm pháp luật của trung ương, vấn đề này đã được quy định
tương đối rõ ràng tại Chương VIII - Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và nguyên
tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, gồm các Điều 75-80; Khoản 22 Điều 1 Luật sửa
đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cũng vì văn bản quy phạm pháp luật có
không gian và đối tượng điều chỉnh rộng lớn, những hệ quả của việc áp dụng chúng có thể
khôn lường (gây hậu quả nghiêm trọng nếu sai trái...), do đó cần quy định thời hiệu cho
chúng sao cho bảo đảm có đủ thời gian chuyển đạt được chúng tới các đối tượng thi hành,
có đủ thời gian cần thiết để chuẩn bị các điều kiện cho việc triển khai thực hiện nội dung
văn bản, cũng như đủ để xem xét, đánh giá tính hiệu quả của chúng nếu như được áp dụng
vào thực tiễn.
- Các văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp
văn bản đó có quy định ngày có hiệu lực khác.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng Công
báo, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản quy phạm
pháp luật liên tịch có hiệu lực sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng trên Công báo hoặc có
hiệu lực muộn hơn nếu được quy định tại văn bản đó. Đối với văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng
khẩn cấp, thì văn bản có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cũng được quy
định hiệu lực về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng (Điều 5 Luật Ban hành văn

bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân). Cụ thể, các hiệu lực về
thời gian được quy định tại Điều 51 như sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có
hiệu lực sau mười ngày và phải được đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ
ngày hội đồng nhân dân thông qua hoặc chủ tịch uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường
hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
- Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp huyện có
hiệu lực sau bảy ngày và phải được niêm yết chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày hội đồng
nhân dân thông qua hoặc chủ tịch uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản
quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
- Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp xã có
hiệu lực sau năm ngày và phải được niêm yết chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày hội đồng
nhân dân thông qua hoặc chủ tịch uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản
quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
- Đối với văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân quy định các biện pháp
nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp quy định tại Điều 47 của Luật này
thì có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn.
Những quy định về thời điểm có hiệu lực đã được làm rõ trong luật (thời hiệu mặc
nhiên) không cần phải thể hiện trong văn bản, mà chỉ đề những thời điểm được quy định
khác hoặc thời điểm bắt đầu (kể cả thời điểm mặc nhiên) và thời điểm ngưng hiệu lực (từ
... đến ... ). Cần lưu ý: chỉ có văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân trong trường hợp khẩn cấp mới được quy định thời hiệu sớm hơn thời hiệu
mặc nhiên.

7


b) Về hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố)
Về nguyên tắc văn bản quy phạm pháp luật không có hiệu lực trở về trước (hiệu lực

hồi tố). Tuy nhiên, trong một số trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới
được quy định hiệu lực trở về trước. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các
trường hợp sau đây:
- Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành
vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý.
- Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.
- Đối với văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân.
c) Về việc ngưng hoặc hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ thi hành, thì ngưng hiệu lực cho đến khi có
quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc:
- Không bị hủy bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực.
- Bị hủy bỏ thì văn bản hết hiệu lực.
Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn
bản phải quy định rõ tại quyết định đình chỉ thi hành, quyết định xử lý của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Quyết định đình chỉ, quyết định xử lý văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải được đăng Công báo, đưa tin trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Các hình thức văn bản xử lý phải bảo đảm những yêu cầu về tính
hiệu lực pháp lý.
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường
hợp sau đây:
- Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
- Được thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản
đó.
- Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực cũng đồng
thời hết hiệu lực cùng với văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần
vì còn phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương:
“Điều 52. Ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân

1. Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân bị đình chỉ thi hành
thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền;
trường hợp không bị hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực; trường hợp bị hủy bỏ, bãi bỏ
thì văn bản hết hiệu lực.
2. Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực hoặc hết hiệu lực của văn bản quy phạm
pháp luật phải được quy định rõ tại văn bản đình chỉ thi hành, văn bản xử lý của cơ quan nhà nước,
cá nhân có thẩm quyền.
3. Văn bản đình chỉ thi hành, văn bản xử lý của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
đối với văn bản trái pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được đăng
Công báo cấp tỉnh, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương.
Văn bản đình chỉ thi hành, văn bản xử lý của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền đối
với văn bản trái pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã phải được
niêm yết, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương.
Điều 53. Những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân hết hiệu lực

8


1. Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân hết hiệu lực trong
các trường hợp sau đây:
a) Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản;
b) Được thay thế bằng một văn bản mới của chính cơ quan đã ban hành văn bản đó;
c) Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền;
d) Không còn đối tượng điều chỉnh.
2. Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân hết hiệu lực thi hành
thì văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản đó cũng hết hiệu lực.” (Luật s ố
31/2004/QH1)

d) Về không gian và đối tượng áp dụng

Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực trong
phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam, trừ
trường hợp văn bản có quy định khác.
Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân có hiệu lực
trong phạm vi địa phương (kể cả các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn địa phương,
v.v..).
“Điều 49. Hiệu lực về không gian, đối tượng áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật của
hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân
1. Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân của đơn vị hành
chính nào thì có hiệu lực trong phạm vi đơn vị hành chính đó.
2. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân có
hiệu lực trong phạm vi nhất định của địa phương thì phải được xác định ngay trong văn bản đó.
3. Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân có hiệu lực áp dụng
đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp
luật đó điều chỉnh.
Điều 50. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân
trong trường hợp điều chỉnh địa giới hành chính
1. Trong trường hợp một đơn vị hành chính được chia thành các đơn vị hành chính mới thì
văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính được
chia có hiệu lực đối với các đơn vị hành chính mới cho đến khi hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân
dân của đơn vị hành chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.
2. Trong trường hợp nhiều đơn vị hành chính được sáp nhập thành một đơn vị hành chính
mới thì văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính
được sáp nhập có hiệu lực đối với đơn vị hành chính đó cho đến khi hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân của đơn vị hành chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.
3. Trong trường hợp một phần địa phận và dân cư của đơn vị hành chính này được sáp nhập
về một đơn vị hành chính khác thì văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân
dân của đơn vị hành chính được mở rộng có hiệu lực đối với phần địa phận và bộ phận dân cư được
sáp nhập.” (Luật s ố 3 1 / 2 0 0 4 / Q H 1 )


Văn bản quy phạm pháp luật cũng có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức người nước
ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
2) Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
a) Đối với văn bản của trung ương:
Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương được quy định áp dụng
theo các nguyên tắc sau đây:
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm có hiệu lực thi hành. Văn
bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó

9


đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có quy định hiệu lực trở về trước, thì áp dụng
theo quy định đó.
- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng
một vấn đề, thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Nếu các văn bản đó đều có
cùng hiệu lực pháp lý thì các cơ quan, tổ chức phải cùng nhau bàn bạc, phối hợp xem xét
vàkịp thời thống nhất ý kiến; trong trường hợp không thể tự cùng nhau giải quyết thì phải
nhanh chóng kiến nghị lên cấp trên để có chỉ đạo giải quyết.
- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một
cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau, thì áp dụng quy định của văn bản được ban
hành sau (Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo sao cho văn bản xử lý có hiệu lực pháp lý ít nhất là
ngang bằng hoặc cao hơn văn bản bị xử lý).
- Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm
pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn
bản có hiệu lực, thì áp dụng văn bản mới. Đây là quy định thể hiện tính nhân đạo của hệ
thống pháp luật nước ta, là hiện thân tính nhân dân, tính nhân văn của đường lối, chính
sách của Đảng. Vì vậy, việc cố tình vi phạm nguyên tắc này hòng phục vụ cho những mưu
đồ cá nhân cần phải được xử lý nghiêm minh.

b) Đối với văn bản của địa phương:
Văn bản quy phạm pháp luật của của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân được quy
định áp dụng theo các nguyên tắc sau đây:
- Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân được áp dụng
từ thời điểm có hiệu lực.
- Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân
dân cùng cấp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật của hội đồng nhân dân.
- Trong trường hợp các nghị quyết của cùng một hội đồng nhân dân có quy định khác
nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của nghị quyết được ban hành sau.
- Trong trường hợp các quyết định, chỉ thị của cùng một uỷ ban nhân dân có quy
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của quyết định, chỉ thị được ban
hành sau.
Như vậy, cơ quan ban hành văn bản phải định rõ thời hạn văn bản có hiệu lực thi
hành, phạm vi và mức độ mà các cơ quan có nhiệm vụ thi hành được phép truyền đạt, phổ
biến. Cơ quan có trách nhiệm thi hành phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy phạm của văn
bản, không được tùy tiện phổ biến sai nội dung văn bản hoặc phổ biến không đúng đối
tượng, không được tự ý sửa đổi, bổ sung các văn bản đó. Tuy nhiên, áp dụng pháp luật còn
là một hoặt động sáng tạo để trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa
rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự.
Có một thực tế là, trong áp dụng pháp luật người ta thường chú ý hơn đến các thông
tư liên tịch, liên bộ, các nghị định, công văn hành chính và ít tìm hiểu luật, pháp lệnh.
Trong khi đó, nếu tranh chấp xảy ra thì các toà án lại áp dụng luật, pháp lệnh. Thêm nữa,
trong quá trình áp dụng luật cần được giải quyết là việc giải thích luật được UBTVQH thực
hiện quá ít, còn bản thân toà án do không được giải thích luật nên cũng lúng túng trong
nhiều trường hợp và phải làm công văn hỏi ý kiến về đường lối xử lý. Các bản án của toà
án thì chưa được phổ biến ra công chúng tham khảo, thậm chí giới nghiên cứu cũng không
có điều kiện tiếp cận. Ðiều này hạn chế sự phát huy của pháp luật. Về việc áp dụng luật, có
những ý kiến đặt vấn đề nên áp dụng án lệ trong xét xử, ý kiến khác cho rằng Toà án tối
cao chỉ nên tập trung vào giải quyết thủ tục và áp dụng luật...


10


Tóm lại, áp dụng văn bản là một hình thức đặc thù của áp dụng pháp luật, do đó nó
có những đặc điểm là: mang tính tổ chức thể hiện, quyền lực nhà nước, được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của mình (không phụ thuộc
vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật) theo trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy
định. Áp dụng văn bản là hoạt động áp dụng pháp luật điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với
các quan hệ xã hội, tức là đối tượng của hoạt động này bao gồm những quan hệ xã hội cần
đến sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những quy định chung trong quy phạm pháp
luật. Có thể nói, "bằng hoạt động áp dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định
được cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác". Hơn thế nữa đây còn là hoạt động sáng tạo
để "trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng một
cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự", tức là áp dụng văn bản có chứa đựng
quy phạm pháp luật tương tự.
Kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật phụ thuộc phần lớn vào tính hiệu quả của
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 17-01-2003 Thủ tướng Chính phủ đã có
Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ
năm 2003 đến năm 2007, theo đó những mục tiêu của Chương trình là:
“1. Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến cuộc sống của các tầng
lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu
và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
2. Tạo bước phát triển mới trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để hỗ trợ tích cực hơn
nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ, nhân dân, góp phần thực
hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện con người Việt Nam, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy
nhà nước và trong xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”


Chương trình cần hướng tới đảm bảo các yêu cầu sau đây:
“1. Kế thừa kết quả, bảo đảm tính liên tục và phát triển trong việc thực hiện các nội dung,
hình thức, biện pháp đã được đề ra trong Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
từ năm 1998 đến năm 2002 ban hành kèm theo Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01
năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ, tiếp tục thực hiện thường xuyên, liên tục, rộng khắp việc phổ
biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng. Lựa chọn nội dung pháp luật phù hợp với từng đối
tượng, địa bàn; chú trọng phổ biến các quy định pháp luật cụ thể để nâng cao tính hướng dẫn thực
hiện.
2. Sử dụng, khai thác hiệu quả các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật đang
phát huy tác dụng với sự đổi mới trong phương thức thực hiện, bảo đảm tính phù hợp, khả thi; kết
hợp phổ biến, giáo dục pháp luật đại trà, trên diện rộng với tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hoà
giải, giải quyết tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật trong từng vụ việc
cụ thể; từng bước ứng dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Chọn
điểm chỉ đạo và đối tượng ưu tiên phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, từng ngành, từng địa phương.
3. Lồng ghép hợp lý và hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trong thực hiện các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội. Gắn chặt hơn nữa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với việc
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; hoạt động xây dựng và hoàn thiện
pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật, thực hiện Quy chế dân chủ.” (53)

Như vậy, văn bản là phương tiện quan trọng để phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội
dung pháp luật liên quan đến các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng
pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của nhà
nước và xã hội, nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán
bộ, nhân dân. Trên cơ sở đó, văn bản hỗ trợ tích cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật,

11



nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ, nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển
toàn diện con người Việt Nam, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy nhà nước và trong
xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối với cán bộ, công chức các cơ quan quản lý kinh tế văn bản đem đến cho họ các
quy định pháp luật chuyên ngành, pháp luật về kinh tế, tài chính, thương mại, đầu tư, hội
nhập kinh tế quốc tế (các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề AFTA, APEC, WTO),
điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động chuyên môn; đối với cán bộ, công chức các cơ
quan quản lý văn hoá, xã hội - các quy định pháp luật chuyên ngành, các quy định pháp
luật về phòng chống tệ nạn xã hội, phát huy truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc;
đối với cán bộ, công chức các cơ quan bảo vệ pháp luật - các quy định pháp luật chuyên
ngành, nhất là quy trình, thủ tục, quy tắc khi thực thi công vụ; quy định pháp luật về bảo
đảm các quyền tự do, dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; trình tự, thủ tục
giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy chế tiếp công dân; các thông tin về tình hình thi hành,
chấp hành pháp luật; đối với cán bộ chính quyền cơ sở - các quy định, trình tự, thủ tục liên
quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền cơ sở; quy định pháp
luật về bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; trình
tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy chế tiếp công dân; quy chế dân chủ ở cơ sở; các
văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.
Nhằm đạt hiệu quả trong phổ biến văn bản pháp luật cần tích cực huy động và sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các báo, tạp chí, tập san chuyên ngành trong
phổ biến, thông tin pháp luật cho các đối tượng; tăng thời lượng phát thanh, truyền hình,
trang viết về pháp luật, về gương Người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến trong việc chấp
hành pháp luật; nâng tính định hướng, hướng dẫn dư luận của báo chí khi phổ biến, thông
tin pháp luật. Củng cố và sử dụng có hiệu quả hệ thống truyền thanh cơ sở trong việc phổ
biến, thông tin pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, trực
tiếp của các cấp ủy Đảng. Trong quá trình triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên

hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Liên đoàn lao động, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,
Hội Luật gia và các cơ quan, tổ chức khác; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, tổ chức
đó phát huy vai trò, tham gia tích cực vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động
các tầng lớp nhân dân chấp hành pháp luật.

§3. Giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
1) Rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là một chính thể bao gồm các văn bản có liên hệ mật
thiết với nhau về mọi phương diện, được sắp xếp theo trật tự pháp lý khách quan, lôgic và
khoa học, tức là phải tạo nên một hệ thống. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật bao
gồm các văn bản có mối liên hệ nội tại, thống nhất với nhau, được phân định thành các văn
bản khác nhau về thẩm quyền ban hành, nội dung quy phạm ban hành, v.v... Đảm bảo được
tính hệ thống sẽ loại trừ được tối đa những mâu thuẫn, chồng chéo của văn bản, đặc biệt là
với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhằm thiết lập một trật tự pháp lý với cơ chế điều
chỉnh, quản lý và điều hành phù hợp.
Muốn có được một hệ thống văn bản phải thường xuyên tiến hành công tác rà soát và
hệ thống hóa các văn bản. Công tác rà soát và hệ thống hóa là nhằm tạo ra một hệ thống
văn bản cân đối, hoàn chỉnh thống nhất, khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu thuẫn và những
lỗ hổng của hệ thống văn bản, làm cho nội dung phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của
12


đời sống, có hình thức rõ ràng, dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng.
Hệ thống hóa văn bản bao gồm hai hình thức: tập hợp hóa và pháp điển hóa.
- Tập hợp hóa là sắp xếp văn bản theo một trình tự nhất định, theo các tiêu chí phân
loại nhất định, nhưng không làm thay đổi nội dung văn bản, không bổ sung những quy
định, văn bản mới, mà chỉ loại bỏ những quy định, văn bản đã hết hiệu lực hoặc rõ ràng là
mâu thuẫn với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Hệ quả của việc loại bỏ này là việc
ban hành một văn bản mới, và do đó việc hệ thống hóa có hình thức khác ở mức độ cao
hơn là pháp điển hóa.

- Pháp điển hóa là hoạt động tập hợp các văn bản theo trình tự nhất định, đánh giá
các văn bản đó và đưa ra những văn bản mới thay thế cho các văn bản không còn phù hợp,
văn bản này có hiệu lực pháp lý cao hơn, hoặc rộng hơn, tổng quát hơn về phạm vi điều
chỉnh, hoàn chỉnh hơn về kỹ thuật ban hành, phù hợp hơn với thực tiễn, v.v... hoặc đồng
thời đạt được tất cả các yêu cầu đó.
Việc rà soát, hệ thống hóa các văn bản có thể được tiến hành chính thức và không
chính thức. Không chính thức là hoạt động hệ thống hóa văn bản do các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tiến hành nhằm mục đích riêng nào đó của mình, thí dụ như việc biên soạn mục
lục công báo hàng năm của Văn phòng Chính phủ.
Rà soát và hệ thống hóa văn bản chính thức là hoạt động do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Thí dụ, công tác rà soát và hệ thống hóa
văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành, địa phương tiến hành theo quyết định của
Nghị quyết 38/CP ngày 04 tháng 05 năm 1994 của Chính phủ, và Quyết định 355/QĐ-TTg
ngày 28-5-1997 của Thủ tướng Chính phủ và kế hoạch tổng rà soát, hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật trong hai năm 1997 - 1998 ban hành kèm theo Quyết định này. Cho
đến ngày 01-5-1998 nhiều địa phương đã kết thúc việc chuẩn bị giai đoạn sưu tầm, tập hợp
và lập danh mục đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành trong 20 năm
qua và chuẩn bị tiến hành việc xử lý, phân loại các văn bản.
2) Giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quản lý nhà nước mà vi phạm pháp luật sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng khôn
lường. Văn bản của Trung ương sai phạm sẽ ảnh hưởng đến cả nước, đến toàn bộ xã hội;
văn bản của ngành sai ảnh hưởng đến toàn ngành, văn bản cá biệt sai ảnh hưởng đến số
phận đối tượng thi hành. Việc giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được tiến
hành nhằm phát hiện những nội dung sai trái của văn bản để kịp thời đình chỉ việc thi
hành, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính
thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xác định
trách nhiệm của cơ quan, cá nhân đã ban hành văn bản sai trái. Như vậy, hoạt động giám
sát, kiểm tra văn bản cần hướng tới làm sáng tỏ sự phù hợp của văn bản với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; sự phù hợp của
hình thức văn bản với nội dung văn bản đó; và sự phù hợp của nội dung văn bản với thẩm

quyền của cơ quan ban hành văn bản.
“1. Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.” (Điều 2. Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội)

Cơ sở pháp lý để xác định nội dung trái pháp luật của văn bản được kiểm tra là
những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực tại thời điểm kiểm tra văn bản
theo quy định tại Chương VIII "Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và nguyên tắc áp
dụng văn bản quy phạm pháp luật" của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đồng
13


thời, cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản (Cục Kiểm tra văn bản thuộc Bộ Tư
pháp, tổ chức pháp chế các bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương có trách nhiệm giúp bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện) phải thường xuyên và kịp thời rà soát, xác định văn bản có
hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực tại thời điểm kiểm tra văn bản để làm cơ sở pháp
lý phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản.
Văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản được kiểm tra là văn bản do cơ quan
nhà nước cấp trên của cơ quan có văn bản được kiểm tra ban hành mà nội dung của văn
bản được kiểm tra đó phải phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Ví dụ: đối với
quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thì văn bản có
hiệu lực pháp lý cao hơn là Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết,
nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; đối với quyết định; chỉ thị của uỷ ban nhân dân
tỉnh, thì văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn là văn bản do các cơ quan nhà nước trung
ương ban hành, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và nghị quyết của

hội đồng nhân dân cùng cấp; đối với quyết định, chỉ thị của uỷ ban nhân dân huyện, thì văn
bản có hiệu lực pháp lý cao hơn là văn bản do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành,
các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, văn bản của hội đồng nhân dân,
uỷ ban nhân dân tỉnh và nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp; đối với quyết định,
chỉ thị của uỷ ban nhân dân xã, thì văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn là văn bản do các
cơ quan nhà nước trung ương ban hành, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập, văn bản của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện và nghị quyết của hội
đồng nhân dân cùng cấp.
Trong trường hợp các văn bản là cơ sở pháp lý để xác định nội dung trái pháp luật
của văn bản được kiểm tra có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp dụng văn bản
có hiệu lực pháp lý cao hơn. Ví dụ, khi kiểm tra một thông tư mà thấy giữa nghị định của
Chỉnh phủ và quyết định của Thủ tướng Chỉnh phủ làm cơ sở pháp lý để kiểm tra thông tư
đó có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp dụng quy định của nghị định; khi
kiểm tra một nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện mà thấy giữa quyết định của Thủ
tướng Chính phủ và pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quan hội làm cơ sở pháp lý để kiểm
tra nghị quyết đó có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của pháp
lệnh; khi kiểm tra một quyết định của Uỷ ban nhân dân huyện mà thấy giữa nghị quyết của
Hội đồng nhân dân huyện đó và văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh làm cơ sở pháp lý để
kiểm tra quyết định đó có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của
văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Trong trường hợp các văn bản là cơ sở pháp lý để kiểm tra đều do một cơ quan ban
hành về cùng một vấn đề nhưng có quy định khác nhau, thì áp dụng quy định của văn bản
được ban hành sau; đối với văn bản do các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban
hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản của bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực liên quan đến vấn đề đó.
Văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra còn phải là văn bản đang có hiệu lực tại thời
điểm kiểm tra. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được xác định theo
quy định tại Điều 75 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Đối với văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước thì thời điểm có hiệu lực được
quy định tại văn bản đó.

Đối với chính quyền địa phương, thời điểm có hiệu lực của nghị quyết của hội đồng
nhân dân, quyết định, chỉ thị của uỷ ban nhân dân được xác định theo quy định tại Điều 51
của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân.
14


Đồng thời, các văn bản nói trên phải chưa hết thời hạn có hiệu lực được quy định
trong các văn bản đó; chưa được thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã
ban hành văn bản đó; chưa bị hủy bỏ, bãi bỏ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiệu
lực của văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành được xác đính theo hiệu lực của văn
bản được quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Trong trường hợp văn bản được quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế thì chỉ những nội dung của
văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản đó tiếp tục có hiệu lực khi chúng
vẫn còn phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới.
Văn bản đã bị đình chỉ thi hành, ngưng hiệu lực theo quy định tại Điều 77 của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 52 và 53 của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân thì không được sử dụng làm cơ sở
pháp lý để kiểm tra văn bản từ thời điểm ngưng hiệu lực cho đến thời điểm tiếp tục có hiệu
lực thi hành theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Kết quả của các hoạt động nói tại điểm này là hệ thống các văn bản, quy định đang
có hiệu lực tại thời điểm kiểm tra văn bản, được cập nhật thường xuyên theo yêu cầu của
công tác kiểm tra (đồng thời còn có hệ thống các văn bản, quy định đã hết hiệu lực pháp
luật tại thời điểm kiểm tra).
Tóm lại, không thể để văn bản vi phạm Hiến pháp và luật. Chính vì vậy phải có cơ
chế giám sát và kiểm tra văn bản. Đối với văn bản quy phạm pháp luật cơ chế này được
quy định tại Chương IX của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (1996, Sđ 2002)
"Giám sát, kiểm tra, kiểm sát và xử lý văn bản trái pháp luật". Thêm nữa, việc kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật cần được thực hiện theo các quy định của Nghị định của Chính
phủ số 135/2003/NĐ-CP ngày 14-11-2003, cũng như các văn bản hướng dẫn thực hiện
Nghị định này về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do các bộ trưởng, thủ

trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân các cấp ban hành, văn bản
liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ và văn bản liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ
với Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan trung ương của các
tổ chức chính trị - xã hội.
Nhìn chung, hoạt động giám sát và kiểm tra văn bản được tiến hành trên cơ sở những
quy định sau đây:
a) Thẩm quyền giám sát và kiểm tra
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm văn bản của chính Quốc hội, của
UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, HĐND và
UBND các cấp, và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch.
- UBTVQH thực hiện quyền giám sát đối với các văn bản quy phạm pháp luật của
các cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình:
"Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao (...)". Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân (...)"
(Hiến pháp 1992, Điều 91, Khoản 5 và 6)

Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban
của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao trái với pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; đình chỉ
việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến

15


pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ một phần

hoặc toàn bộ văn bản đó.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ,
Hội đồng Dân tộc, uỷ ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ nghị quyết sai trái của hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan
ban hành văn bản thuộc thẩm quyền giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách
nhiệm gửi văn bản đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Trong trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì Uỷ
ban thường vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành văn bản và yêu cầu cơ quan ban hành văn
bản sửa đổi hoặc bãi bỏ theo thẩm quyền. Cơ quan ban hành văn bản phải chấp hành ý kiến
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản
quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã
hội thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, uỷ ban phụ trách.
- Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội còn giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Toà
án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban
hành văn bản thuộc thẩm quyền giám sát của Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội
có trách nhiệm gửi văn bản đến Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội.
Trong trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội thì Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội yêu cầu cơ quan ban hành văn
bản xem xét lại văn bản để đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan đã ban hành văn bản có trách nhiệm trả
lời Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội; nếu cơ quan đã ban hành văn bản không
đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc huỷ bỏ văn bản thì Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của

Quốc hội đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Trong trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị - xã hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Hội đồng Dân tộc, các
uỷ ban của Quốc hội yêu cầu cơ quan ban hành văn bản xem xét lại văn bản để đình chỉ
việc thi hành, sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu, cơ quan đã ban hành văn bản có trách nhiệm trả lời Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban
của Quốc hội; nếu cơ quan đã ban hành văn bản không đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc
huỷ bỏ văn bản thì Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội đề nghị Thủ tướng Chính
phủ xem xét, xử lý theo thẩm quyền.
“Điều 10. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội
1. Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, đình chỉ việc thi hành và trình Quốc hội

16


xem xét, quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất.
Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì đại biểu Quốc hội đề nghị Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó; Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có trách nhiệm xem xét, trả lời đại biểu Quốc hội. Trong
trường hợp đại biểu Quốc hội không đồng ý với trả lời của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước thì yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần
nhất.
2. Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch

nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo trình tự sau đây:
a) Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
b) Quốc hội thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật
có thể trình bày bổ sung những vấn đề có liên quan;
c) Quốc hội ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật không trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp
luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.” (Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội)

- Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, HĐND, UBND cấp tỉnh.
- Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành một
phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên; xem xét, quyết định đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn
bộ nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội
bãi bỏ.
Thủ tướng Chính phủ kiểm tra văn bản do các bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành, văn bản liên tịch giữa các bộ,
cơ quan ngang bộ và văn bản liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ với Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã
hội.
- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ kiểm
tra các văn bản có quy định liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ do các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
khác, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.
+ Quyền hạn và trách nhiệm của Bộ Tư pháp

Cần lưu ý, Bộ trưởng Bộ Tư pháp giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra:
* Văn bản do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành liên quan đến lĩnh
vực quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ đó và của cơ quan thuộc Chính phủ;
* Văn bản do các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành quy định liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ;
* Văn bản liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ;
* Văn bản liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ với Toà án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội;
* Văn bản do hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành liên quan đến
17


nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước.
Đặc biệt, cần lưu ?:Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra, xử lý
văn bản trái pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh.
+ Khi giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất về công tác kiểm tra văn bản
trong phạm vi toàn quốc, Bộ Tư pháp có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
* Xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
các văn bản về kiểm tra văn bản;
* Xây dựng và chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan
có liên quan tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
* Đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện công tác kiểm tra văn bản của các bộ,
ngành, địa phương;
* Hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra, kiểm tra công tác kiểm tra văn bản đối với tổ chức
pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, sở tư pháp, phòng tư pháp; tổ
chức nghiên cứu khoa học về kiểm tra văn bản;

* Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra văn bản cho đội ngũ cán bộ, công chức
kiểm tra văn bản; tổ chức và quản lý đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản;
* Tổ chức mạng lưới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho
việc kiểm tra văn bản;
* Sơ kết, tổng kết, tổ chức hội thi theo ngành, lĩnh vực, địa phương và toàn quốc về
công tác kiểm tra văn bản; định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ về công tác kiểm tra văn bản;
* Khen thưởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ luật các cán
bộ, công chức và cộng tác viên thuộc quyền quản lý của Bộ trong công tác kiểm tra văn
bản; khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân đã phát hiện và đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp
kiểm tra, xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật;
* Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm tra văn bản;
* Giải quyết khiếu nại, tố cáo về kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.
+ Trong khi đó, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong quản lý
nhà nước về công tác kiểm tra văn bản tại bộ, ngành mình có các nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
* Xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
các văn bản về kiểm tra văn bản áp dụng trong bộ, ngành mình;
* Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền kiểm
tra của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ;
* Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên
trong việc kiểm tra văn bản có quy định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành
mình do các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành;
* Chỉ đạo tổ chức pháp chế trao đổi nghiệp vụ kiểm tra văn bản với Cục Kiểm tra
văn bản Bộ Tư pháp, tổ chức pháp chế của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ; tổ chức nghiên cứu khoa học về kiểm tra văn bản;
* Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra văn bản cho đội ngũ cán bộ, công chức
kiểm tra văn bản; tổ chức và quản lý đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản thuộc quyền


18


quản lý của bộ, ngành mình;
* Tổ chức mạng lưới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho
việc kiểm tra văn bản trong bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
* Sơ kết, tổng kết, tổ chức hội thi theo ngành, lĩnh vực về công tác kiểm tra văn bản;
định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tư pháp về công tác
kiểm tra văn bản;
* Khen thưởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ luật các cán
bộ, công chức và cộng tác viên thuộc quyền quản lý của bộ, ngành mình trong công tác
kiểm tra văn bản; khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân đã phát hiện và đề nghị bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ kiểm tra, xử lý
văn bản có dấu hiệu trái pháp luật;
* Giải quyết khiếu nại, tố cáo về kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.
+ Đối với chính quyền địa phương, trong quản lý nhà nước về công tác kiểm tra văn
bản với sự trợ giúp của sở tư pháp, phòng tư pháp, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện
có những nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
* Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra văn bản ở địa phương;
* Đôn đốc, chỉ đạo công tác kiểm tra văn bản ở địa phương;
* Sơ kết, tổng kết, tổ chức hội thi về công tác kiểm tra văn bản của địa phương; định
kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp (đối với cấp tỉnh), uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh (đối với cấp huyện) về công tác kiểm tra văn bản;
* Phối hợp và tạo điều kiện để các cơ quan kiểm tra văn bản kiểm tra theo thẩm
quyền;
* Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra văn bản; tổ chức và quản lý đội ngũ cộng
tác viên kiểm tra văn bản tại địa phương; tổ chức nghiên cứu khoa học về kiểm tra văn bản;
* Tổ chức mạng lưới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho
việc kiểm tra văn bản;
* Khen thưởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ luật các cán

bộ, công chức và cộng tác viên trong công tác kiểm tra văn bản ở địa phương mình; khen
thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân đã phát hiện và đề nghị Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện kiểm tra, xử lý văn bản có
dấu hiệu trái pháp luật;
* Giải quyết khiếu nại, tố cáo về kiểm tra văn bản theo thẩm quyền.
+ Quyền hạn và trách nhiệm của Văn phòng Chính phủ
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ngoài việc thực hiện thẩm quyền kiểm
tra theo quy định chung đối với cấp bộ, còn giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra:
* Văn bản do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước
của Bộ Tư pháp;
* Văn bản liên tịch giữa Bộ Tư pháp với các bộ, cơ quan ngang bộ;
* Văn bản liên tịch giữa Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ với Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã
hội;
* Các văn bản khác khi được Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ giao.
+ Tranh chấp thẩm quyền kiểm tra
Trường hợp có tranh chấp thẩm quyền kiểm tra thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo
Thủ tướng Chính phủ quyết định.

19


+ Quyền hạn và trách nhiệm tổ chức pháp chế bộ, cơ quan tư pháp địa phương
Người đứng đầu tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
giúp bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ thực
hiện việc kiểm tra các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ.
Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp kiểm tra các văn bản
thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Cơ quan tư pháp địa phương được giao làm đầu mối giúp uỷ ban nhân dân cấp tỉnh,

cấp huyện kiểm tra văn bản.
Để phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản trong phạm vi thẩm quyền được giao, các
cơ quan, đơn vị đó có trách nhiệm xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu bao gồm các nội
dung cơ bản sau đây:
* Các văn bản quy phạm pháp luật đã được rà soát để xác lập cơ sở pháp lý phục vụ
cho việc kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của bộ, ngành và uỷ ban nhân dân
các cấp theo quy định;
* Kết quả kiểm tra và xử lý văn bản (kể cả văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
được kiểm tra và xử lý theo quy định tại Điều 26 của Nghị định số 135/2003/NĐ-CP);
* Các thông tin về nghiệp vụ kiểm tra;
* Các thông tin, tài liệu, dữ liệu khác phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản.
Hệ cơ sở dữ liệu bao gồm các tài liệu bằng văn bản, được phân loại, sắp xếp một
cách khoa học và từng bước tin học hóa theo khả năng và điều kiện kinh phí cho phép để
tiện quản lý, tra cứu, sử dụng.
+ Căn cứ vào thẩm quyền và phạm vi văn bản được giao kiểm tra, trách nhiệm tập
hợp, xử lý các văn bản quy phạm pháp luật được phân công, phân cấp như sau:
* Cục Kiểm tra văn bản thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm rà soát văn bản quy phạm
pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Cính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành hoặc
liên tịch ban hành để xác lập cơ sở pháp lý phục vụ cho việc kiểm tra văn bản theo quy
định (tự kiểm tra; kiểm tra theo thẩm quyền và giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra văn bản
của bộ, ngành và địa phương). Cục Kiểm tra văn bản chủ trì phối hợp với tổ chức pháp chế
các bộ, ngành tổng hợp kết quả rà soát để xây dựng hệ cơ sở dữ liệu chung phục vụ công
tác kiểm tra và xử lý văn bản.
* Tổ chức pháp chế các bộ, ngành có trách nhiệm rà soát văn bản quy phạm pháp
luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ quy định về các vấn đề thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ, ngành đó và
các văn bản quy phạm pháp luật do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đó ban hành
hoặc liên tịch ban hành để xác lập cơ sở pháp lý phục vụ cho việc kiểm tra văn bản theo
quy định (tự kiểm tra; kiểm tra theo thẩm quyền).

* Sở tư pháp có trách nhiệm rà soát văn bản quy phạm pháp luật do hội đồng nhân
dân, uỷ ban nhân dân tỉnh ban bành và tổng hợp chung vào hệ cơ sở dữ liệu do Cục Kiểm
tra văn bản cung cấp để phục vụ công tác kiểm tra và xử lý văn bản theo thảm quyền.
* Phòng tư pháp có trách nhiệm rà soát văn bản quy phạm pháp luật do hội đồng
nhân dân, uỷ ban nhân dân huyện ban hành và tổng hợp chung vào hệ cơ sở dữ liệu do sở
tư pháp cung cấp để phục vụ công tác kiểm tra và xử lý văn bản theo thẩm quyền và cung
cấp cho tư pháp cấp xã để phục vụ công tác là kiểm tra văn bản của hội đồng nhân dân, uỷ
ban nhân dân cấp xã.
Trong quá trình rà soát văn bản, nếu phát hiện có văn bản hoặc quy định mâu thuẫn,
20


chồng chéo hoặc không còn phù hợp nhưng chưa đủ cơ sở pháp lý để xác định hiệu lực của
văn bản hoặc quy định đó, thì cơ quan, tổ chức rà soát phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền
kèm theo kiến nghị, đề xuất cụ thể để xem xét, quyết định.
+ Thẩm quyền của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp
huyện trong việc kiểm tra văn bản được quy định như sau:
Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra văn bản do hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân cấp huyện ban hành.
Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện kiểm tra văn bản do hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân cấp xã ban hành.
Giám đố sở tư pháp, trưởng phòng tư pháp giúp chủ tịch uỷ ban nhân dân cùng cấp
thực hiện việc kiểm tra văn bản.
+ Đối với các văn bản quản lý khác cũng cần có chế độ giám sát, kiểm tra, kiểm sát
chặt chẽ, tuân thủ pháp luật. Đó là trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan ban hành, các bộ
phận chức năng được giao quyền hạn, nói chung là của cơ quan ban hành văn bản.
b) Phạm vi giám sát và kiểm tra
Các văn bản được giám sát, kiểm tra và xử lý bao gồm:
- Văn bản quy phạm pháp luật:
+ Quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

+ Thông tư liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ;
+ Thông tư liên tịch giữa bộ, cơ quan ngang bộ với Toà án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội;
+ Nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp;
+ Quyết định, chỉ thị của uỷ ban nhân dân các cấp.
- Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức
văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật ban hành theo quy định tại Điều 26 của Nghị định số
135/2003/NĐ-CP, bao gồm:
+ Văn bản của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân các cấp có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức
văn bản quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, nghị
quyết của hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của uỷ ban nhân dân;
+ Văn bản có thể thức và nội dung như văn bản quy phạm pháp luật (ví dụ: quyết
định, chỉ thị, thông tư, nghị quyết), văn bản có thể thức không phải là văn bản quy phạm
pháp luật nhưng có chứa quy phạm pháp luật (ví dụ: công văn, thông báo, quy chế, điều lệ,
chương trình, kế hoạch và các hình thức khác) do cơ quan, cá nhân không có thẩm quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành: thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, thủ
trưởng đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành hoặc do chủ
tịch uỷ ban nhân dân các cấp, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện ban hành (bao gồm cả văn bản có thể thức và nội dung như trên được
ký thừa lệnh).
c) Nguyên tắc giám sát và kiểm tra
Công tác giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội phải cần được tiến hành
đảm bảo những nguyên tắc công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo
quy định của pháp luật và không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc

21



hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm về quyết định, yêu cầu,
kiến nghị giám sát của mình.
Công tác kiểm tra văn bản cần được tiến hành đảm bảo những nguyên tắc sau đây:
- Công tác kiểm tra văn bản phải do các cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành thường xuyên, kịp thời, theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm
sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trong việc kiểm tra.
- Cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản phải tổ chức tự kiểm tra văn bản
do mình ban hành trước khi cơ quan chức năng kiểm tra.
- Cơ quan, tổ chức và cá nhân khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, mâu
thuẫn, chồng chéo trong quá trình thực hiện, có quyền phản ánh với các cơ quan thông tin
đại chúng và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản đó.
- Nghiêm cấm lợi dụng việc kiểm tra vì mục đích vụ lợi cá nhân, gây khó khăn cho
hoạt động bình thường của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản có văn bản
được kiểm tra.
d) Phương thức giám sát và kiểm tra
Công tác giám sát văn bản cũng cần được tiến hành theo những quy định tại Luật
của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 05/2003/QH11 ngày 17 tháng 6
năm 2003 về hoạt động giám sát của Quốc hội.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở
hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, uỷ ban của Quốc
hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Quốc hội xem xét, đánh giá và báo cáo về hoạt động giám sát của mình trước cử tri
cả nước.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo về hoạt động giám sát của
mình trước Quốc hội.
Hội đồng Dân tộc, uỷ ban của Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo về hoạt động
giám sát của mình trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm về hoạt động giám sát của mình; báo cáo

về hoạt động giám sát của đoàn và của các đại biểu Quốc hội trong đoàn với Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát
của mình trước cử tri tại địa phương.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có các quyền và trách nhiệm theo quy
định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hộivà các quy định khác của pháp luật có liên
quan.
Khi thực hiện quyền giám sát, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân
tộc, uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội dựa vào sự tham
gia của nhân dân, của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận.
Khi tiến hành hoạt động giám sát, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc,
uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội có thể mời đại diện Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và yêu cầu đại diện
cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan tham gia; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm
thực hiện yêu cầu này.
Công tác kiểm tra văn bản cũng cần được tiến hành theo những phương thức được
quy định như sau tại Điều 6 Nghị định 135/2003/NĐ-CP như sau:

22


- Tự kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản:
+ Các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân
dân các cấp phải tự kiểm tra văn bản do mình ban hành; các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ phải tự kiểm tra những nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong văn bản liên tịch nhằm phát hiện quy định trái
pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tế để kịp thời
đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ văn bản đó. Việc tự kiểm tra
được thực hiện đối với:

* Văn bản quy phạm pháp luật do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng
nhân dân, uỷ ban nhân dân ban hành (bao gồm cả văn bản do bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ liên tịch ban hành). Trách nhiệm tổ chức tự kiểm tra được giao cho bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân đã ban hành
hoặc liên tịch ban hành văn bản đó.
* Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức
văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật ban hành, khi có yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ
chức, các cơ quan thông tin đại chúng và của cá nhân. Trách nhiệm tổ chức tự kiểm tra loại
văn bản này được giao cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, hội đồng nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân nơi có văn bản được ban
hành.
+ Người đứng đầu tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ là đầu mối giúp bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện việc tự kiểm tra văn bản do bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ ban hành hoặc văn bản liên tịch do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ cùng các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan, người đứng đầu tổ chức khác ký, ban hành.
Trưởng ban pháp chế của hội đồng nhân dân, giám đốc sở tư pháp, trưởng phòng tư pháp
(ở những địa phương có phòng tư pháp), trưởng ban tư pháp cấp xã là đầu mối giúp hội
đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc tự kiểm tra văn bản.
Tuỳ theo tính chất, phạm vi, yêu cầu quản lý và số lượng văn bản được ban hành của
từng bộ, ngành, địa phương, việc tự kiểm tra văn bản có thể được giao cho tổ chức pháp
chế bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương trực tiếp thực hiện hoặc phân công cho các đơn
vị thuộc bộ, ngành, các sở, ban, ngành của địa phương thực hiện theo lĩnh vực được giao
phụ trách với điều kiện bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò làm đầu mối của
tổ chức pháp chế bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương trong việc xây dựng kế hoạch,
đôn đốc theo dõi công tác tự kiểm tra, tổng hợp và báo cáo kết quả tự kiểm tra với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Người đứng đầu tổ chức pháp chế bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương có trách
nhiệm tham mưu cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân quy định cụ thể nhiệm vụ của tổ chức

pháp chế bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương trong việc làm đầu mối giúp bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, hội đồng nhân dân, uỷ
ban nhân dân tự kiểm tra văn bản theo quy định và đảm bảo các điều kiện cho công tác tự
kiểm tra.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật đã được cơ quan, người có thẩm quyền ký ban
hành, khi phát hành văn bản, đơn vị phát hành văn bản có trách nhiệm đồng thời gửi văn
bản cho đơn vị được phân công kiểm tra văn bản đó để thực hiện việc tự kiểm tra. Khi phát
hiện văn bản có nội dung trái pháp luật hoặc không còn phù hợp, đơn vị được phân công
kiểm tra có trách nhiệm thông báo ngay cho đơn vị đã chủ trì soạn thảo, trình văn bản,
đồng thời phối hợp trao đổi để thống nhất những nội dung trái pháp luật hoặc không còn
phù hợp, thống nhất các biện pháp xử lý và chuẩn bị dự thảo văn bản xử lý, báo cáo với cơ
23


quan, người đã ban hành văn bản để kịp thời xử lý theo thẩm quyền.
Đối với văn bản liên tịch, tổ chức pháp chế bộ, ngành có trách nhiệm tự kiểm tra các
nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành mình, đồng thời phối hợp với các
đơn vị hữu quan thuộc bộ, ngành, cơ quan, tổ chức đã ký văn bản liên tịch để kiểm tra toàn
bộ nội dung văn bản. Trường hợp phát hiện văn bản có nội dung trái pháp luật hoặc không
còn phù hợp thì việc trao đổi, thảo luận và kiến nghị xử lý cũng phải có sự phối hợp giữa
các cơ quan đã ký văn bản liên tịch.
Tổ chức pháp chế bộ, ngành, cơ quan tư pháp địa phương có trách nhiệm theo dõi,
tổng hợp kết quả tự kiểm tra và định kỳ báo cáo công tác tự kiểm tra theo quy định của
pháp luật.
+ Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi là Cục Kiểm
tra văn bản) thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc tự kiểm tra văn
bản do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành.
đ) Người đứng đầu tổ chức pháp chế cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với tổ chức
pháp chế thuộc bộ mà bộ trưởng bộ đó được Thủ tướng Chính phủ phân công ký, ban hành
văn bản của cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc tự kiểm tra văn bản.

+ Các cơ quan, đơn vị có liên quan phải kịp thời cung cấp thông tin, tư liệu, tài liệu
cần thiết và phối hợp với tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, ban pháp chế của hội đồng nhân dân, sở tư pháp, phòng tư pháp, ban tư pháp cấp xã
trong việc tự kiểm tra văn bản.
+ Cơ quan, tổ chức ban hành văn bản thường xuyên tổ chức kiểm tra các văn bản do
mình ban hành; kịp thời tổ chức rà soát, kiểm tra văn bản do mình ban hành khi tình hình
kinh tế - xã hội đã thay đổi hoặc khi cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản mới làm
cho nội dung văn bản do mình đã ban hành không còn phù hợp; hoặc khi nhận được yêu
cầu, kiến nghị, thông báo của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản hoặc của cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác và các phương tiện thông tin đại chúng về văn bản do mình
ban hành có dấu hiệu trái pháp luật hoặc không còn phù hợp.
Cơ quan người có thẩm quyền ban hành văn bản có trách nhiệm bảo đảm kinh phí,
biên chế và các điều kiện khắc phục vụ cho việc tự kiểm tra văn bản do mình ban hành.
- Kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản theo nhiệm vụ được
phân công:
+ Cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản tiến hành kiểm tra văn bản do cơ
quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản gửi đến; hoặc tổ chức đoàn kiểm tra theo
chuyên đề, địa bàn hoặc theo ngành, lĩnh vực;
+ Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản có văn bản được
kiểm tra bao gồm:
* Thực hiện Điều 10 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Điều 18 Nghị
định 135/2003/NĐ-CP; cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho cơ quan, người có thẩm
quyền kiểm tra văn bản;
* Giải trình về nội dung văn bản theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền
kiểm tra văn bản;
* Kịp thời tổ chức tự kiểm tra để phát hiện và xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp
luật theo quy định tại khoản 1 Điều 10 và điểm b khoản 2 Điều 11 Nghị định
135/2003/NĐ-CP;
* Thông báo về việc xử lý văn bản trái pháp luật cho cơ quan, người có thẩm quyền
kiểm tra văn bản;

* Tạo điều kiện cho cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản thực hiện nhiệm
24


vụ kiểm tra văn bản;
* Thực hiện các quyết định, yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại Điều
14 Nghị định 135/2003/NĐ-CP;
* Thực hiện các quyết định, kiến nghị của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
theo quy định tại các Điều 15 và 16; nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp tỉnh, nghị quyết
của hội đồng nhân dân cấp huyện, quyết định của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, quyết
định chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại Điều 17 Nghị định
135/2003/NĐ-CP.
+ Cơ quan, người có văn bản được kiểm tra có quyền như sau:
* Được thông báo về kế hoạch, nội dung kiểm tra, nội dung được yêu cầu;
* Trình bày ý kiến liên quan đến nội dung văn bản được kiểm tra;
* Từ chối trả lời, cung cấp thông tin không thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình hoặc những thông tin thuộc bí mật nhà nước không được phép cung
cấp theo quy định của pháp luật;
* Giải trình và đề nghị các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chủ tịch uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn
bản xem xét lại thông báo về xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật do cơ quan, người có
văn bản được kiểm tra ban hành (trừ những văn bản quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị
định 135/2003/NĐ-CP) trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được thông
báo (Khi thực hiện quyền này, cơ quan, người có văn bản được kiểm tra, xử lý phải chứng
minh được văn bản do mình ban hành đúng pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước cấp
trên và trước pháp luật về tính trung thực, đúng đắn trong báo cáo, đề nghị của mình);
* Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản vẫn quyết định
xử lý theo quy định tại các Điều 15, 16 và 17 Nghị định 135/2003/NĐ-CP thì cơ quan,
người có văn bản được kiểm tra có quyền đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý xem
xét lại quyết định xử lý. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được đề nghị,

nếu cơ quan, người có thẩm quyền xử lý không trả lời hoặc cơ quan, người có văn bản
được kiểm tra không nhất trí với trả lời đề nghị thì cơ quan, người có văn bản được kiểm
tra có quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ (nếu cơ quan, người đã xử lý là bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) hoặc chủ
tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (nếu cơ quan, người đã xử lý là hội đồng nhân dân, chủ tịch
uỷ ban nhân dân cấp huyện). Khi thực hiện quyền này, cơ quan, người có văn bản được
kiểm tra, xử lý cũng phải chứng minh được văn bản do mình ban hành đúng pháp luật và
phải chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước pháp luật về tính trung thực, đúng đắn trong
báo cáo, đề nghị của mình.
- Kiểm tra khi nhận được yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát
hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
e) Nội dung giám sát và kiểm tra
Nội dung giám sát, kiểm tra văn bản là kiểm tra sự phù hợp của văn bản được kiểm
tra với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc bội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên; sự phù hợp của hình thức văn bản với nội dung văn bản đó; sự phù hợp của nội dung
văn bản với thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản đó. Nói cách khác, đó là việc xem
xét, đánh giá và kết luận về tính hợp pháp của văn bản. Tính hợp pháp đó biểu hiện ở chỗ
văn bản được ban hành cần bảo đảm đủ các điều kiện sau đây:
- Được ban hành đúng căn cứ pháp lý, tức là:
+ Có căn cứ pháp lý cho việc ban hành, mà chúng đang còn hiệu lực pháp luật vào
thời điểm ban hành, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp

25


×