Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 171 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đổi mới và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua 3 giai
đoạn tái cấu trúc kinh tế: (i) giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới; (ii) giai đoạn sau cuộc
khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á năm 1997 và (iii) giai đoạn sau cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới năm 2008. Trong mỗi giai đoạn phát triển, đầu tư công được
xem như là công cụ quan trọng để Chính phủ thực hiện quá trình tái cấu trúc nền kinh
tế. Theo đó, thể chế và chính sách đầu tư công luôn được Chính phủ điều chỉnh để hỗ
trợ cho quá trình tái cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả. Dù là vậy, cho đến nay, đầu tư
công được đánh giá là còn kém hiệu quả xét trên khía cạnh hiệu suất sử dụng đồng
vốn. Hệ số ICOR của đầu tư khu vực Nhà nước giai đoạn 1995 – 2011 là rất cao so với
suất đầu tư chung của xã hội (Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc
gia, 2012). Bảng 0.1 cho thấy hệ số ICOR của đầu tư khu vực nhà nước luôn cao hơn
hệ số ICOR chung toàn xã hội, từ 1,3 – 1,4 lần.
Bảng 0.1: Hệ số ICOR chung và khu vực đầu tư nhà nước qua các giai đoạn
1995 – 2000

2001 – 2005

2005 – 2011

Đầu tư chung

4,25

4,62

6,10


Đầu tư khu vực nhà nước

6,25

5,99

8,52

Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, 2012
Lý thuyết về quản lý dự án đầu tư chỉ ra dự án đầu tư thành công là một dự án
phải đảm bảo được mục tiêu đã đề ra trong khuôn khổ thời gian và giới hạn nhất định
của ngân sách (PMI, 2013). Dự án được hoàn thành đúng hạn là một trong những mục
tiêu không những của khách hàng/chủ đầu tư mà còn của nhà thầu, bởi mỗi bên sẽ phải
chịu thêm gánh nặng chi phí và mất đi doanh thu tiềm năng một khi dự án hoàn thành
chậm (Thomas và cộng sự, 1995). Chan và Kumaraswamy (1996) cho rằng một dự án
thường được coi là thành công nếu nó được hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi
ngân sách và mức độ tiêu chuẩn chất lượng theo quy định.


2

Vượt dự toán và chậm tiến độ có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau đối
với nhiều loại hình dự án khác nhau. Điều này dẫn đến nhiều tranh luận về việc làm
thế nào để giảm thiểu tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán. Ðã có nhiều nghiên cứu
thực nghiệm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự
toán dự án đầu tư công (Mansfield và cộng sự, 1994; Kaming và cộng sự, 1996;
Koushki và Kartam, 2004). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự
toán các dự án đầu tư có thể kể đến từ việc quản lý dự án yếu kém cho đến các yếu tố
khách quan bên ngoài. Hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới tập trung
khám phá các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán tại mỗi nước. Điều này cho

thấy tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán thật sự là vấn đề phổ biến.
Tại Việt Nam, tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán của các dự án đầu tư công
được các nhà hoạch định chính sách, quản lý dự án xem như là một trong những
nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư công. Trong một văn bản trình Thủ tướng về
công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư năm 2014, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư Bùi Quang Vinh thừa nhận nhiều dự án vẫn còn chậm tiến độ, tỷ lệ các dự án điều
chỉnh còn khá cao. Ông Vinh khẳng định việc chậm tiến độ là một trong những
nguyên nhân làm tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư, tác động tiêu cực
đến nền kinh tế (Tư Giang, 2015).
Báo cáo tổng hợp công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư qua các năm 2010,
2011, 2012 và 2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với các dự án đầu tư sử dụng 30%
vốn nhà nước trở lên đưa ra số liệu về số dự án chậm tiến độ chiếm khoảng từ 9,59%
đến 11,77% số dự án thực hiện trong năm; số dự án phải điều chỉnh (trong đó có điều
chỉnh tiến độ và điều chỉnh vốn đầu tư) chiếm khoảng từ 11% đến 16,09% số dự án
thực hiện trong kỳ. Số liệu tổng hợp hàng năm cho thấy tình trạng chậm tiến độ và
vượt dự toán là vấn đề cần quan tâm trong quản lý dự án đầu tư công. Báo cáo giám sát
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa nhận đây là nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư
công nhưng chưa đề ra các giải pháp khắc phục tình trạng này. Để giải quyết vấn đề,
cần thiết phải xác định, phân tích về phương diện học thuật các yếu tố ảnh hưởng đến
chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư công.


3

Lý thuyết quản lý dự án cũng chỉ ra rằng vấn đề vượt dự toán và chậm tiến độ có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có nhiều công trình thực nghiệm tiến hành nghiên cứu
hai vấn đề này một cách riêng biệt (Azhar và cộng sự, 2008; Han và cộng sự, 2009;
Cantarelli và cộng sự, 2012; Hamazh và cộng sự, 2011…); nhưng cũng có nhiều công
trình nghiên cứu đồng thời cả hai vấn đề này trong cùng một thang đo (Claire Bordat
và cộng sự, 2004; Ramanathan và cộng sự, 2012)… Cho đến nay, chủ đề này ở Việt

Nam chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà kinh tế, nhất là dự án đầu tư công.
Lê Hoài Long và cộng sự (2008) nghiên cứu về những nguyên nhân gây ra chậm tiến
độ và vượt dự toán trong các dự án đầu tư lớn tại Việt Nam, nhưng đó là các dự án quy
mô vốn trên 1 triệu USD nói chung mà không nghiên cứu riêng trường hợp dự án đầu
tư công. Dự án đầu tư công có những khác biệt nhất định: khác biệt về vai trò vị thế
của chủ đầu tư, khác biệt về cung cách quản lý nguồn vốn, về khung pháp lý mà các
bên phải tuân thủ... Do vậy, kết quả nghiên cứu của Lê Hoài Long và cộng sự (2008)
cũng chưa bao quát hết các nguyên nhân và giải pháp đặc thù cho trường hợp dự án
đầu tư công ở Việt Nam.
Đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư
công tại Việt Nam” được triển khai nghiên cứu gắn với bối cảnh thực tế của các dự án
đầu tư công ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu được mong đợi sẽ góp phần vào lý thuyết
về nguyên nhân, hiệu ứng vượt dự toán và chậm tiến độ các dự án đầu tư công.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cơ bản của luận án là khám phá các yếu tố dẫn đến tình trạng chậm tiến
độ và vượt dự toán của dự án đầu tư công ở Việt Nam. Đầu tư công ở Việt Nam có khá
nhiều đặc thù vốn có của một nền kinh tế đang chuyển đổi với thể chế và chính sách
đầu tư đang trong quá trình hoàn thiện. Thực hiện nghiên cứu này sẽ góp phần bổ sung
lý thuyết quản trị tài chính công ở các nền kinh tế chuyển đổi. Nét đặc trưng cơ bản
của luận án là nghiên cứu cả hai vấn đề chậm tiến độ và vượt dự toán trong một hệ
thống đo lường các nhân tố, qua đó giúp nhận dạng một cách tổng quát hơn các yếu tố
gây yếu kém hiệu quả đầu tư đầu công, xét trên góc độ thời gian và chi phí đầu tư cũng
như những hậu quả tiêu cực của nó gây ra cho xã hội.


4

Các dự án vượt dự toán và chậm tiến độ gây thiệt hại và lãng phí các nguồn lực
xã hội rất lớn. Nhà nước, doanh nghiệp và cả xã hội bỏ vốn đầu tư vào các dự án xây
dựng, nhưng do chậm hoàn thành dẫn đến đình trệ sản xuất, nguồn vốn không được

quay vòng kịp thời, bị chôn vốn, lãi suất vẫn phải trả, thiếu công trình cho xã hội.
Chính vì lẽ đó, luận án tiến hành nghiên cứu làm rõ tác động của vượt dự toán và chậm
tiến độ đến thời gian hoàn thành và giá trị quyết toán (hay chi phí) dự án đầu tư công
tại Việt Nam.
Từ các mục tiêu trên, các câu hỏi nghiên cứu của luận án là:
- Chậm tiến độ ảnh hưởng như thế nào đến chi phí thực hiện và vượt dự toán có tác
động làm chậm tiến độ thực hiện dự án công ở Việt Nam?
- Những yếu tố nào gây chậm tiến độ và vượt dự toán của dự án đầu tư công tại Việt
Nam?
- Những nhà hoạch định chính sách quản lý dự án công tại Việt Nam cần có những
điều chỉnh gì để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng chậm tiến độ và vượt dự
toán?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, đối tượng của luận án tập trung vào việc nghiên
cứu tình hình triển khai và thực hiện các dự án công ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tiến
hành khảo sát và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ, vượt dự toán các dự
án đầu tư công tại Việt Nam. Đồng thời, luận án cũng phân tích mối quan hệ giữa thời
gian và chi phí của các dự án đầu tư công tại Việt Nam. Nền tảng lý thuyết cho nghiên
cứu dựa vào lý thuyết về quản lý dự án.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dữ liệu sử dụng để phân tích về tác động của vượt dự toán và chậm tiến độ đến
thời gian hoàn thành và giá trị quyết toán (hay chi phí) dự án đầu tư công là dữ liệu từ
hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành của 227 dự án đầu tư công triển khai tại Thành phố
Hồ Chí Minh, giai đoạn 2008 – 2013 lưu trữ tại Sở Tài chính Tp. Hồ Chí Minh.


5

Để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán

các dự án đầu tư công tại Việt Nam, luận án sử dụng dữ liệu sơ cấp từ việc khảo sát
240 chuyên gia đang trực tiếp quản lý, thực hiện dự án đầu tư công công tác tại Bộ Tài
chính, các tỉnh và Tp. Hồ Chí Minh. Thời gian tổ chức khảo sát: 2013-2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu định tính
Theo Neuman (2007), nghiên cứu định tính là một phương pháp nghiên cứu
nhằm nắm bắt và khám phá ý nghĩa, những khái niệm và dữ liệu được thể hiện dưới
những biểu hiện của quan điểm cá nhân thông qua những hình ảnh, từ ngữ được quan
sát và ghi chép lại. Phương pháp thường được sử dụng trong thu thập dữ liệu nghiên
cứu định tính là quá trình thảo luận tay đôi và thảo luận nhóm. Nhà nghiên cứu là
người trực tiếp thực hiện việc thảo luận với đối tượng nghiên cứu trong thảo luận tay
đôi cũng như là người điều khiển trong chương trình thảo luận nhóm.
Nghiên cứu cũng sử dụng các số liệu thống kê thông qua thu thập dữ liệu có sẵn,
tiến hành phân tích thống kê mô tả, xây dựng bảng biểu, đồ thị để dễ dàng so sánh và
đánh giá các nội dung nghiên cứu.
Để nghiên cứu về các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư,
luận án sử dụng phương pháp quy nạp và diễn dịch để tổng quát các cơ sở lý luận, kết
quả các nghiên cứu trước đó làm cơ sở phân tích các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt
dự toán. Từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu phù hợp với điều kiện đặc thù tại Việt
Nam.
Nghiên cứu này còn dùng phương pháp chuyên gia, thông qua việc phỏng vấn
sâu và thảo luận nhóm với các chuyên gia, với những người đang trực tiếp quản lý và
thực hiện dự án đầu tư công nhằm điều chỉnh một số khái niệm, thang đo cho phù hợp
với điều kiện tại Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu định tính làm cơ sở cho việc khảo
sát, thu thập số liệu để phân tích định lượng với mô hình phân tích yếu tố khám phá
(EFA) và hồi quy (RA).
4.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng


6


Để nghiên cứu việc chậm tiến độ ảnh hưởng đến chi phí thực hiện và vượt dự
toán tác động làm chậm tiến độ đối với các dự án đầu tư công, nghiên cứu sử dụng
phương pháp phân tích hồi quy bội, áp dụng cho nhiều mô hình, có sử dụng biến giả để
nhận diện và phân tích.
Để kiểm định và nhận diện các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án
đầu tư công tại Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp định lượng thực hiện qua các
giai đoạn như sau:
 Thu thập dữ liệu nghiên cứu bằng bảng câu hỏi khảo sát các chuyên gia quản
lý dự án đầu tư công trên địa bàn nghiên cứu. Kích thước mẫu là 240 được chọn theo
phương pháp lấy mẫu thuận tiện.
 Đánh giá độ tin cậy và giá trị của thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach’s
Alpha, sau đó phân tích yếu tố khám phá (EFA) thông qua phần mềm xử lý SPSS 22.0,
qua đó loại bỏ các biến quan sát không giải thích cho khái niệm nghiên cứu (không đạt
độ tin cậy); đồng thời tái cấu trúc các biến quan sát còn lại vào các yếu tố (thành phần
đo lường) phù hợp làm cơ sở cho việc hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
nghiên cứu, các nội dung phân tích và kiểm định tiếp theo.
 Sau đó, nghiên cứu dùng phương pháp phân tích hồi quy bội (RA) với các
quan hệ tuyến tính để kiểm định các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án
đầu tư công tại Việt Nam, từ đó xác định được mức độ quan trọng của từng yếu tố.
5. Tính mới và những đóng góp của luận án
Tính mới của luận án là đã xác định được những nguyên nhân gây ra chậm tiến
độ và vượt dự toán của các dự án đầu tư công tại Việt Nam. Đề xuất mô hình thực
nghiệm để ước lượng các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công
(không phân biệt quy mô của dự án). Khuyến nghị một số điều chỉnh chính sách quản
lý dự án đầu tư công tại Việt Nam để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng chậm tiến
độ và vượt dự toán. Cụ thể, nghiên cứu có những điểm mới và đóng góp như sau:
5.1. Về phương diện học thuật



7

- Luận án đã đánh giá và làm rõ sự khác biệt giữa dự án đầu tư công với dự án khác
tại Việt Nam, từ đó xác định khung lý thuyết các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng
chậm tiến độ và vượt dự toán chỉ riêng cho dự án đầu tư công tại Việt Nam.
- Phần nghiên cứu định tính cũng chỉ ra một trong những nguyên nhân làm chậm tiến
độ và vượt dự toán các dự án công- nhất là dự án ODA là do trình tự thủ tục pháp
lý về đầu tư xây dựng của Chính phủ Việt Nam khá phức tạp và khác biệt so với
quy định chung của các tổ chức tài trợ.
- Kết quả nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra chậm tiến độ (thời gian) có ảnh hưởng lớn
đến vượt dự toán (chi phí) của các dự án đầu tư công tại Việt Nam. Bên cạnh đó,
kết quả nghiên cứu cũng chứng minh cụ thể thời gian thực hiện dự án công phụ
thuộc vào tính chuyên nghiệp của chủ đầu tư và việc phân cấp quản lý thực hiện dự
án. Phát hiện này rất có ý nghĩa giúp các nhà hoạch định chính sách xem xét lại quy
định về việc phân cấp và mô hình chủ đầu tư kiêm nhiệm hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu xác định rõ và định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến
độ và vượt dự toán các dự án đầu tư công tại Việt Nam. Theo đó, yếu tố quan trọng
nhất thuộc về năng lực tổ chức quản lý dự án của chủ đầu tư; năng lực tư vấn, thực
hiện hợp đồng của tư vấn và nhà thầu. Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện thêm
các yếu tố ngoại vi (lạm phát, giá cả vật liệu tăng ngoài tầm kiểm soát, điều kiện
địa chất thủy văn) và khó khăn về tài chính của các bên cũng ảnh hưởng đến chậm
tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư công. Đây là điểm mới của đề tài mà các
nghiên cứu trước đây đề cập chưa đầy đủ.
- Luận án lần đầu tiên thực hiện kiểm định kết quả nghiên cứu thông qua phân tích
các yếu tố dẫn đến thành công hoặc thất bại trong quản lý tiến độ và quản lý dự
toán của hai dự án tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả kiểm định đã chứng minh
các yếu tố mà luận án nhận diện chính xác và phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
5.2. Về phương diện thực tiễn
- Luận án đã làm rõ thực trạng việc quản lý dự án đầu tư công tại Việt Nam hiện nay,
chỉ ra được hai nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến chậm tiến độ và vượt dự toán



8

các dự án đầu tư công tại Việt Nam thuộc về năng lực quản lý của chủ đầu tư, năng
lực thực hiện dự án của tư vấn hoặc nhà thầu.
- Luận án cũng đã phân tích những bất cập của cơ chế quản lý tài chính công hiện
hành tại Việt Nam dẫn đến chậm tiến độ và vượt dự toán. Từ đó, khuyến nghị các
giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính công tại Việt Nam, khắc
phục triệt để tình trạng chậm tiến độ và vượt dự toán.
- Nội dung luận án là cơ sở để xây dựng chương trình khung đào tạo bồi dưỡng kiến
thức quản lý dự án cho các nhà lãnh đạo quản lý, bổ sung chương trình giảng dạy
của sinh viên khối ngành kiến trúc kỹ thuật với mục tiêu những người được đào tạo
có đầy đủ kiến thức, kỹ năng để quản lý và thực hiện thành công dự án đầu tư công
tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục
các hình và bảng, Phụ lục và Tài liệu tham khảo; luận án được bố cục theo 5 chương
như sau: Chương 1 trình bày tổng quan lý thuyết của nghiên cứu; Phương pháp và mô
hình nghiên cứu được trình bày trong Chương 2; Chương 3 nghiên cứu vấn đề thời
gian thực hiện và chi phí đầu tư các dự án đầu tư công được tiến hành thực nghiêm dựa
trên mẫu thu thập các dự án đầu tư công của Thành phố Hồ Chí Minh; Chương 4 trình
bày kết quả nghiên cứu các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư
công tại Việt Nam; cuối cùng là kết luận và khuyến nghị chính sách trong trình bày
trong Chương 5.


9

Chương 1:

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

1.1. Khung khái niệm dự án đầu tư công
1.1.1. Dự án đầu tư
Tunner (1996) cho rằng “Dự án là nỗ lực của con người (hoặc máy móc), nguồn
lực tài chính và vật chất được tổ chức theo một cách mới để tiến hành một công việc
đặc thù với đặc điểm kỹ thuật cho trước, trong điều kiện ràng buộc về thời gian và chi
phí để đưa ra một thay đổi có ích được xác định bởi mục tiêu định tính và định lượng”.
Viện Quản lý Dự án (PMI) định nghĩa: “Dự án là một nỗ lực tạm thời để tạo ra một sản
phẩm hoặc dịch vụ đặc thù. Trong đó, “Tạm thời” có nghĩa là mỗi một dự án có một
kết thúc xác định và “Đặc thù” có nghĩa là sản phẩm hoặc dịch vụ đó khác biệt ở một
cách khác so với tất cả sản phẩm hoặc dịch vụ cùng loại” (PMI, 2013).
Luật Xây dựng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua ngày 18 tháng 6 năm 2014 xác định: “Dự án đầu tư xây dựng là tập hợp các đề
xuất có liên quan đến việc sử dụng vốn để tiến hành hoạt động xây dựng để xây dựng
mới, sửa chữa, cải tạo công trình xây dựng nhằm phát triển, duy trì, nâng cao chất
lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong thời hạn và chi phí xác định.”
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái niệm dự án đầu tư được hiểu như quy
định của Luật Xây dựng năm 2014 của Việt Nam do đã bao gồm nội hàm định nghĩa
của các nghiên cứu trước đó và là chuẩn mực bắt buộc mà các bên liên quan đến thực
hiện dự án đầu tư công tại Việt Nam phải tuân thủ.
1.1.2. Đặc điểm dự án đầu tư công
Dự án đầu tư công là những dự án do Chính phủ tài trợ (cấp vốn) toàn bộ hay một
phần hoặc do dân chúng tự nguyện đóng góp bằng tiền hay bằng ngày công nhằm đáp
ứng mọi nhu cầu mang tính cộng đồng. Nếu mở rộng hơn nữa, dự án công còn bao
gồm những dự án mà Chính phủ hoặc chính quyền địa phương đề xuất kêu gọi tài trợ
quốc tế. Dự án do một đơn vị kinh doanh thực hiện cũng được xem là dự án công nếu


10


nó hướng đến việc nâng cao phúc lợi công cộng. Như vậy, tính chất công của một dự
án được nhận diện ở mục đích mà nó hướng đến- tạo ra những lợi ích cho cộng đồng.
Tại Việt Nam, căn cứ vào các quy định cụ thể của Luật Ngân sách, Luật Xây
dựng và Luật Đầu tư công thì dự án đầu tư công còn có những khác biệt so với dự án
khu vực tư như sau:
+ Về chủ đầu tư: Luật Đầu tư công của Việt Nam quy định chủ đầu tư là cơ quan,
tổ chức được giao quản lý dự án đầu tư công. Do đó, có rất nhiều chủ thể khác nhau
được giao làm chủ đầu tư dự án đầu tư công. Ngoài các Ban quản lý dự án chuyên
ngành còn có các cơ quan hành chính, cơ quan sự nghiệp tiếp nhận, quản lý tài sản sau
đầu tư được giao làm chủ đầu tư.
+ Về kế hoạch nguồn vốn: chủ đầu tư chỉ được Nhà nước giao vốn theo kế hoạch
hàng năm phụ thuộc vào dự toán ngân sách dành cho đầu tư hàng năm của Chính phủ
hoặc Chính quyền địa phương. Trong khi đó, đối với dự án tư thì nguồn vốn của dự án
được xác định rõ ràng cụ thể ngay từ đầu và thường không bị giới hạn giải ngân theo
năm.
+ Về thẩm quyền của chủ đầu tư: thẩm quyền của chủ đầu tư dự án công bị giới
hạn hơn so với chủ đầu tư dự án tư nhân. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án
chủ đầu tư dự án công phải xin ý kiến thẩm định từ các cơ quan chuyên môn của Chính
phủ hoặc Chính quyền địa phương; xin ý kiến của cấp có thẩm quyền quyết định đầu
tư.
+ Về khung pháp lý: chủ đầu tư dự án đầu tư công phải tuân thủ nghiêm ngặt
hàng loạt các quy định của Luật Ngân sách, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công và Luật
Đấu thầu. Trong khi chủ đầu tư khu vực tư chỉ phải tuân thủ một số điều của Luật Xây
dựng liên quan đến quy hoạch, việc sử dụng đất, tiến độ xây dựng và bảo vệ môi
trường.
+ Về chi phí đầu tư: chi phí đầu tư dự án công phải được xác định theo đúng các
quy định do Bộ Xây dựng ban hành. Trong khi chủ đầu tư dự án tư được toàn quyền
xác định chi phí đầu tư phù hợp với thực tế phát sinh và bảo đảm hiệu quả đầu tư của
dự án.



11

1.2. Chu trình quản lý dự án
Bùi Ngọc Toàn (2008) định nghĩa: “Chu trình quản lý dự án là quá trình lập kế
hoạch, điều phối thời gian, nguồn lực và giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm
đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và
đạt được các yêu cầu đã định về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, dịch vụ bằng những
phương pháp và điều kiện tốt nhất cho phép”.
Lập kế hoạch: bao gồm việc xây dựng mục tiêu, xác định những công việc cần
được hoàn thành, nguồn lực cần thiết để thực hiện dự án và là quá trình phát triển kế
hoạch hành động theo một trình tự nhất định.
Điều phối thực hiện dự án: đây là quá trình phân phối các nguồn lực bao gồm tiền
vốn, lao động, máy móc thiết bị và đặc biệt là điều phối và quản lý tiến độ thời gian.
Giám sát: là quá trình theo dõi kiểm tra tiến trình dự án, phân tích tình hình hoàn
thành, giải quyết những vấn đề liên quan và thực hiện báo cáo hiện trạng.
Hình 1.1: Chu trình quản lý dự án

(Nguồn: Bùi Ngọc Toàn, 2008)
Mục tiêu cơ bản của chu trình quản lý dự án là làm cho các công việc phải được
hoàn thành theo yêu cầu, đảm bảo chất lượng, trong phạm vi chi phí được duyệt, và
đúng thời gian đã được đề ra. Trong đó ba yếu tố: thời gian, chi phí và chất lượng (kết


12

quả hoàn thành) là những mục tiêu cơ bản và giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau theo sơ đồ dưới đây:
Hình 1.2: Mô hình về mối liên hệ giữa các thành tố trong quản lý dự án.

Chất
lượng

MỤC
TIÊU

Chi
phí

Thời
gian

1.3. Các nghiên cứu lý thuyết về mối quan hệ giữa thời gian và chi phí thực hiện
dự án
Lý thuyết về quản lý dự án đã được hình thành và phát triển qua nhiều thập kỷ.
Thông qua việc nghiên cứu lịch sử và các di tích còn lại của các công trình tại Trung
Quốc, Hy Lạp, Ai Cập hoặc La Mã cổ đại, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra hình thức quản
lý dự án “sơ khai” đã sớm hình thành. Hình thức này được thực hiện bởi các thợ kỹ
thuật có nhiều kỹ năng, am hiểu nhiều lĩnh vực, có thể đảm nhận nhiều vị trí công việc
và được trao đầy đủ quyền để có thể thực hiện các mục tiêu của dự án. Hình thức quản
lý “sơ khai” này được thực hiện cho đến tận thế kỷ 19 (Richardson, 2015).
Sau đó, dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp, quá trình sản xuất đã
chuyển từ nhà của thợ thủ công để đi vào sản xuất ở nhà máy, nơi các sản phẩm có thể
được sản xuất hàng loạt. Việc tổ chức sản xuất đã trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải có


13

một quy trình làm việc cụ thể, có thể áp dụng cho hàng ngàn công nhân để sản xuất,
lắp ráp với số lượng lớn. Giai đoạn này đánh dấu điểm khởi đầu cho lý thuyết quản lý

theo khoa học của Frederick Taylor. Ông đã nghiên cứu một cách có hệ thống việc
phân chia các công việc khác nhau cho từng công đoạn và thời gian cần thiết để hoàn
thành mỗi công việc đó; đồng thời chuẩn hóa các quy trình thực hiện và các thao tác
cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ trong mỗi quy trình. Điều này được mô tả bởi bốn
nguyên tắc quản lý của Taylor như sau (Ivancevich et al, 2008):
(i)

Thiết lập một phương pháp khoa học thay vì chỉ làm việc theo thói quen
đối với mỗi yếu tố trong công việc của một lao động.

(ii)

Cẩn thận chọn lựa, huấn luyện, tái huấn luyện và phát triển lao động theo
phương pháp, bài bản và có tính khoa học.

(iii)

Kiểm soát, hợp tác với lao động để bảo đảm rằng tất cả mọi công việc
được hoàn thành theo đúng những qui định và nguyên tắc khoa học đã
được đề ra.

(iv)

Trong mỗi khâu, công việc và trách nhiệm được san sẻ bình đẳng giữa nhà
quản lý và lao động dựa trên cấp bậc. Nhà quản lý nắm giữ, kiểm soát và
hoàn thành những công việc đúng với nhiệm vụ của mình.

Sau khi Taylor là người tiên phong nghiên cứu phương pháp quản trị, từ những
nghiên cứu và phương pháp làm việc của ông, những tác giả khác cũng nỗ lực nghiên
cứu những kỹ thuật khác nhằm đem lại năng suất cao hơn cho các quản trị viên khi thi

hành chức năng của mình. Điển hình là Frank và Lilian Gilbreth với nguyên tắc đơn
giản hóa công việc, nghĩa là bỏ đi những động tác thừa thãi làm hao tổn sức lực của họ
khiến năng suất bị giảm thiểu. Sau Frank, Lilian, Henry Gantt tiếp tục đóng góp cho lý
thuyết của Taylor bằng Sơ đồ Gantt, theo đó Gantt chia nhỏ các nhiệm vụ của một dự
án và xây dựng sơ đố dưới dạng thanh thời gian. Sơ đồ Gantt cung cấp một cái nhìn
tổng thể của thời gian và công việc cần thiết để hoàn thành dự án. Sơ đồ này được sử
dụng nhiều cho đến tận ngày nay.
Nhìn chung, lý thuyết về quản lý dự án theo trường phái cổ điển giả định rằng các
mục tiêu của dự án có thể được xác định trước khi thực hiện dự án và sẽ không thay


14

đổi. Các mục tiêu này sau đó được phân tách thành các “công việc” chi tiết và được lập
kế hoạch để đảm bảo rằng mỗi “công việc” có thể hoàn thành đúng hạn, đúng với mục
tiêu đề ra. Lý thuyết quản lý theo trường phái này nhìn chung là đã giúp nâng cao năng
suất lao động, xây dựng quan hệ giữa chủ và thợ, là cơ sở để hình thành nên tư tưởng
quản lý “chuyên môn hóa” và “tiêu chuẩn hóa”. Tuy nhiên, phương pháp quản lý dự án
này mặc dù đã được lên kế hoạch và kiểm soát chu đáo nhưng vẫn có thể gặp nhiều rủi
ro, đặc biệt là trong bối cảnh khoa học công nghệ thay đổi nhanh chóng hoặc xuất hiện
các yếu tố không lường trước có thể đe dọa đến kết quả thực hiện của dự án.
Sau năm 1950, quản lý dự án đã được chính thức công nhận là một ngành khoa
học tách ra từ ngành khoa học quản lý. Sau thời gian này, các mô hình toán học được
sử dụng để lập tiến độ của dự án, có thể kể đến là “Phương pháp Sơ đồ mạng CPM”
(Critical Path Method). CPM sử dụng mạng đồ thị có hướng trong lý thuyết đồ thị để
tổ chức các hoạt động công việc, từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc, qua một
số các công việc và mối quan hệ giữa các công việc này để xác định tổng thời gian
thực hiện cần thiết. Một phương pháp khác là “Kỹ thuật đánh giá và xem xét chương
trình/dự án” (Program Evaluation and Review Technique, PERT) do Hải quân Hoa Kỳ
phát triển sử dụng kết hợp lý thuyết xác suất thống kê với sơ đồ mạng CPM để ước

tính thời gian thực hiện một số công việc có thời lượng không xác định trước trong dự
án.
Nhìn chung, giai đoạn trước đây quản lý dự án được xem là không có nền tảng lý
thuyết rõ ràng, mang tính chất riêng lẻ, áp dụng chỉ cho sản xuất công nghiệp hoặc điều
hành quản lý chương trình/dự án. Oisen (dẫn theo Atkinson, 1999) cho rằng “Quản lý
dự án là việc áp dụng một tập hợp các công cụ và kỹ thuật (chẳng hạn như các mô hình
CPM hay PERT) để chỉ đạo việc sử dụng các nguồn tài nguyên đa dạng đối với việc
hoàn thành một, nhiều nhiệm vụ phức tạp, trong thời gian, chi phí và chất lượng xác
định” hoặc Tổ chức Tiêu chuẩn Anh Quốc định nghĩa trong bộ tiêu chuẩn BS6079 như
sau: “Việc lập kế hoạch, giám sát và kiểm soát tất cả các khía cạnh của một dự án và
động lực của tất cả những người tham gia vào nó để đạt được các mục tiêu dự án về


15

thời gian và các chi phí hiệu suất, chất lượng và tuân thủ các quy định đặt ra ban đầu”
(BSI, dẫn theo Atkinson, 1999).
Cho đến năm 1969, viện Quản lý Dự án (PMI) đã được thành lập và phát triển hệ
lý thuyết, ban hành PMBOK Guide chứa các tiêu chuẩn và nguyên tắc chỉ đạo về thực
hành quản lý dự án được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ giới quản lý dự án chuyên
nghiệp. Sự ra đời của PMBOK Guide đã tạo ra một cách tiếp cận có tổ chức và phân
tích theo hướng không chỉ giải quyết các dự án lớn, mà còn các vấn đề liên quan đến tổ
chức thực hiện dự án. Trong việc theo đuổi các mục tiêu này, PMI tiếp tục đưa ra các
“tiêu chuẩn” cần thiết, trở thành bộ tiêu chuẩn được công nhận trên toàn thế giới về các
kiến thức, kỹ năng, công cụ, và các kỹ thuật liên quan đến việc quản lý và giám sát dự
án nói chung.
Theo định nghĩa của PMI, “Quản lý dự án là việc áp dụng các kiến thức, kỹ năng,
công cụ và kỹ thuật vào các hoạt động của dự án để đạt được các mục tiêu đề ra”
(PMBOK Guide 2013). Các dự án có thể khác nhau về lĩnh vực, quy mô và vòng đời
dự án, nhưng đều có chung quy trình quản lý dự án. Quy trình quản lý dự án này bao

gồm: quản lý thiết lập dự án, quản lý lập kế hoạch dự án, quản lý thực thi dự án, quản
lý kiểm soát và kết thúc dự án. 5 nhóm chính này bao gồm 10 khía cạnh nhận thức
(KAS) được mô tả ngắn gọn như sau: (PMBOK Guide 2013, Chương 3, trang 61):
(i)

Phạm vi: mô tả giới hạn các công việc cần phải được thực hiện của dự án.

(ii)

Thời gian: xác định thời gian hoàn thành công việc, nhóm công việc tiến
tới hoàn thành dự án.

(iii)

Chi phí: xác định quá trình thực hiện dự toán chi phí cho từng công việc,
dự toán ngân sách và kiểm soát chi phí dự án.

(iv)

Chất lượng: mô tả các quy trình cần thiết để đảm bảo rằng dự án sẽ đáp
ứng các mục tiêu hoạt động mà nó đã được đưa ra trong việc lập kế hoạch,
đảm bảo chất lượng và kiểm soát chất lượng.

(v)

Nguồn nhân lực: Xác định các yêu cầu về nhân lực của đội ngũ thực hiện
dự án.


16


(vi)

Truyền thông: mô tả các quá trình liên quan đến cung cấp thông tin kịp
thời liên quan đến dự án.

(vii)

Rủi ro: Xác định việc quản lý các khía cạnh rủi ro khác nhau của dự án.

(viii) Mua sắm: mô tả các quy trình cần thiết để quản lý các hoạt động liên quan
đến việc mua sắm các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến dự án.
(ix)

Các bên liên quan: mô tả các quy trình cần thiết để xác định và quản lý các
cá nhân, các nhóm, các tổ chức có ảnh hưởng đến các dự án (PMI, 2013,
trang 391).

(x)

Tích hợp: mô tả các hoạt động cần thiết để tích hợp tất cả các khía cạnh
khác nhau theo một kế hoạch định hướng để các bên liên quan của dự án
thống nhất thực hiện.

Thứ tự ưu tiên của các tiêu chuẩn có thể khác nhau trong các dự án khác nhau, do
đó bản chất của quản lý dự án là quá trình khai thác, cân đối một cách hiệu quả nhất
các tham số của một dự án để đạt được kết quả tổng thể tối ưu. Đó chính là “Tam giác
chất lượng” được hình thành như là một khuôn khổ giúp các nhà quản lý dự án đánh
giá và cân bằng các nhu cầu về chi phí, thời gian và chất lượng trong các dự án của họ.
Mặc dù sự thành công của một dự án bao gồm nhiều yếu tố, nhưng thời gian hoàn

thành của dự án vẫn thường được coi là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu
quả hoạt động của dự án và hiệu quả hoạt động của các tổ chức thực hiện dự án. Theo
đó, dự án được hoàn thành kịp thời là một trong những mục tiêu không những của
khách hàng/chủ đầu tư mà còn của nhà thầu bởi vì mỗi bên sẽ phải chịu thêm gánh
nặng chi phí và mất đi doanh thu tiềm năng một khi dự án hoàn thành chậm (Thomas
và cộng sự, 1995). Chan và Kumaraswamy (1996) cho rằng một dự án thường được coi
là thành công nếu nó được hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách và mức
độ tiêu chuẩn chất lượng theo quy định.
Dự đoán được thời gian và chi phí thực hiện dự án luôn được các nhà nghiên cứu
và quản lý dự án quan tâm, bởi đó là vấn đề được ưu tiên hàng đầu trong việc quản lý
thực hiện dự án theo hiệu quả thời gian. Bromilow (1969) đã thiết lập một mô hình thể
hiện mối quan hệ giữa thời gian và chi phí dựa trên việc khảo sát của 329 dự án xây


17

dựng tại các thành phố lớn của Úc (bao gồm Canberra, Melbourne và Sydney), từ đó
phát triển thành mô hình dự báo thời gian xây dựng dựa trên chi phí của dự án như sau:
T = K.CB, trong đó:
T = Thời gian xây dựng tính bằng ngày làm việc kể từ ngày nhận bàn giao mặt
bằng đến ngày hoàn thành thực tế.
C = Chi phí cuối cùng của dự án tính bằng triệu đô la
K = Hằng số mô tả hiệu quả chung của thời gian cho dự án trị giá 1 triệu đô la.
B = Hằng số mô tả sự nhạy cảm của hiệu quả của thời gian bị ảnh hưởng bởi quy
mô dự án được đo bằng chi phí.
Nghiên cứu của Bromilow đã chỉ ra rằng thời gian thực để xây dựng một dự án có
liên quan mật thiết với quy mô dự án được đo bằng chi phí. Thời gian thi công trong
ngày làm việc (T) có thể được biểu diễn như một hàm số của chi phí hợp đồng với đơn
vị tính là triệu đô la (C), dựa trên kết quả hồi quy phù hợp nhất, có nguồn gốc từ các dữ
liệu lịch sử về thời gian thực hiện dự án.

Dựa vào mô hình của Bromilow, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành tại Úc để
thiết lập và hiệu chỉnh mô hình “Thời gian – Chi phí” của Bromilow (Bromilow’s
Time – Cost – BTC). Các nghiên cứu tương tự cũng đã được thực hiện ở Vương quốc
Anh (Kaka và Price, 1991) và Malaysia (Yeong, 1994). Các mô hình BTC đã được
hình thành rộng rãi trên thế giới như là một tiêu chuẩn để xác định thời gian thi công
chuẩn hoặc thời gian hợp đồng của dự án xây dựng (Ireland, 1983, dẫn theo Mak và
cộng sự, 2000).
Tuy nhiên, kể từ khi mô hình BTC dựa trên một khung thời gian cụ thể, thì thực
tế cho thấy rằng tốc độ xây dựng đã tăng lên hoặc giảm đi theo thời gian là kết quả của
môi trường kinh tế thay đổi. Lợi thế chính của mô hình là sử dụng chi phí xây dựng
như một thước đo duy nhất của dự án. Thiếu sót của mô hình BTC là không xem xét
các yếu tố khác ngoài chi phí khi thiết lập công thức dự tính thời gian xây dựng
(Walker, 1994, dẫn theo Mak và cộng sự, 2000).
Nhiều nghiên cứu cho rằng việc lập kế hoạch cho dự án dựa trên thời gian xây
dựng là không hiệu quả, có thể dẫn đến sự chênh lệch giữa thời gian thi công thực tế và


18

thời gian hợp đồng. Skitmore và Ng (2003) đã xác định việc sử dụng các công cụ tính
toán để phân tích chi tiết công việc dự kiến thực hiện và nguồn lực sẵn có cũng như
ngân sách và thời gian dành cho dự án như là một phương pháp để ước lượng thời gian
thi công trong thực tế.
Theo tác giả Từ Quang Phương (2005), chi phí là một hàm của các yếu tố: mức
độ hoàn thành công việc, thời gian thực hiện và phạm vi dự án, biểu diễn theo công
thức:
C = f (P, T, S)
Trong đó:

C: Chi phí

P: Mức độ hoàn thành công việc (kết quả)
T: Yếu tố thời gian
S: Phạm vi dự án

Phương trình trên cho thấy chi phí là một hàm của nhiều yếu tố, trong đó: “Nếu
thời gian thực hiện bị kéo dài, gặp trường hợp giá nguyên vật liệu tăng cao sẽ phát sinh
tăng chi phí một số khoản mục nguyên vật liệu. Mặt khác, thời gian kéo dài dẫn đến
tình trạng làm việc kém hiệu quả do công nhân mệt mỏi, do chờ đợi và thời gian máy
chết tăng thêm… làm phát sinh tăng một số khoản mục chi phí. Thời gian thực hiện dự
án kéo dài, chi phí lãi vay ngân hàng, chi phí gián tiếp cho bộ phận (chi phí hoạt động
của văn phòng dự án) tăng theo thời gian và nhiều trường hợp, phát sinh tăng khoản
tiền phạt do không hoàn thành đúng tiến độ ghi trong hợp đồng” (Từ Quang Phương,
2005, trang 11).
Hậu quả của chậm tiến độ và vượt dự toán là hết sức rõ ràng. Nó gây ra những
ảnh hưởng khác nhau cho các bên tham gia vào dự án. Chủ đầu tư mất nguồn thu có
được từ dự án, người dân phải tiếp tục sử dụng các cơ sở hạ tầng hiện hữu cũ kỹ, nhà
nước bị mất các nguồn thu từ thuế-phí khi chậm đưa vào sử dụng các công trình và cơ
sở hạ tầng mới.
Không chỉ vậy, chậm tiến độ và vượt dự toán còn ngụ ý rằng các chi phí tăng
thêm phải được phân bổ làm tăng chi phí hoặc giá cho thuê, hoặc ảnh hưởng đến chi
tiêu ngân sách của Chính phủ trong tương lai. Do đó, vượt dự toán và chậm tiến độ


19

không chỉ gây ra các thiệt hại về kinh tế mà theo Stiglitz (2000) thị trường cung cấp
hàng hóa gây ra bởi yếu tố ngoại lai sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích xã hội.
Trường hợp dự án bị đình trệ, chi phí đầu tư tăng vọt làm ảnh hưởng đến chi tiêu
ngân sách của Chính phủ trong tương lai. Đối với một nền kinh tế, nguồn lực tài chính
cung ứng để thỏa mãn các nhu cầu là có giới hạn. Nếu để chi tiêu ngân sách gia tăng

quá mức cho phép sẽ dẫn đến những hậu quả: (i) gia tăng gánh nặng nợ của nền kinh
tế trong tương lai; (ii) gia tăng gánh nặng về thuế; (iii) phá vỡ cân bằng kinh tế, đó là
cân bằng về tiết kiệm – đầu tư, cân bằng cán cân thanh toán, từ đó ảnh hưởng xấu đến
tăng trưởng kinh tế, cuối cùng ảnh hưởng đến kỷ luật tài khóa tổng thể (Bùi Thị Mai
Hoài, 2007).
Morris (1990) đã có nghiên cứu về chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu
tư công tại Ấn Độ. Các tác giả đã cho rằng dự án công có một vị trí rất quan trọng
trong nền kinh tế Ấn Độ. Những khoản đầu tư công sẽ thúc đẩy gia tăng đầu tư tại các
khu vực kinh tế tư nhân. Vượt dự toán các dự án đầu tư công sẽ tạo hiệu ứng sang khu
vực kinh tế tư nhân bởi vì phần lớn giá trị sản lượng của dự án đầu tư công là chi phí
đầu vào các dự án thuộc khu vực tư nhân và cả chính khu vực công. Tốc độ tăng
trưởng chậm của nền kinh tế Ấn Độ vào những năm 1970 là do chịu tác động bởi việc
vượt dự toán làm cho chi phí đầu tư tăng cao, từ đó làm cho chi phí sản xuất hàng hóa
trung gian gia tăng tương ứng, dẫn đến làm giảm hiệu quả đầu tư công. Nghiên cứu
này cũng chỉ ra rằng chậm tiến độ cũng là hiện tượng xảy ra khá thường xuyên của các
dự án đầu tư công. Một trong những nguyên nhân gây chậm tiến độ là nguồn lực quốc
gia có giới hạn nhưng phải đầu tư dàn trải cho quá nhiều dự án nên đa số các dự án
hoàn thành trong thời gian từ 6 – 7 năm thay vì từ 3 – 4 năm như kế hoạch ban đầu.
Việc bố trí vốn dàn trải cũng là nguyên nhân dẫn đến vượt dự toán. Các khoản chi phí
phát sinh vì lý do lạm phát và phát sinh chi phí quản lý trong suốt thời gian dự án bị
kéo dài.
1.4. Vấn đề chậm tiến độ của các dự án đầu tư
1.4.1.

Khái niệm chậm tiến độ


20

Khái niệm chậm tiến độ được định nghĩa là khoảng thời gian giữa ngày hoàn

thành được thỏa thuận trong hợp đồng và ngày thực tế hoàn thành (Elinwa và Joshua,
2001; dẫn theo Usman, Gambo và Ibrahim, 2014).
Theo Assaf và Hejji (2007), chậm tiến độ chính là sự chậm trễ ảnh hưởng đến
ngày dự án hoàn thành được quy định trong hợp đồng. Theo Menesi (2007), nếu xét
theo tiêu chí trách nhiệm, chậm tiến độ được phân thành hai loại: có thể tha thứ và
không thể tha thứ (Hình 1.4).
Hình 1.3: Phân loại chậm tiến độ theo tiêu thức trách nhiệm

(Nguồn: Menesi, 2007)
Sự chậm trễ ở một số hạng mục mà không ảnh hưởng đến tổng thể dự án được
gọi là sự chậm trễ có thể tha thứ. Điều này được gây ra bởi các yếu tố nằm ngoài sự
kiểm soát của các bên tham gia dự án, tức là chậm trễ do các yếu tố không lường trước
được. Sự chậm trễ không thể tha thứ do các yếu tố nằm trong sự kiểm soát của các bên
tham gia dự án gây ra, thể hiện sự thiếu trách nhiệm và chủ đầu tư/khách hàng có thể
được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trường hợp sự chậm trễ có thể tha thứ, nhà thầu được quyền xin mở rộng thời
gian thi công và không bồi thường cho chủ đầu tư/khách hàng. Một số trường hợp khác
nhà thầu được miễn bồi thường cho sự chậm trễ nếu điều đó không gây ra thiệt hại cho
chủ đầu tư/khách hàng.


21

Trong nghiên cứu này, khái niệm “chậm tiến độ” được hiểu chính là thời gian
thực hiện dự án vượt quá thời gian thỏa thuận giữa chủ đầu tư và nhà thầu quy định
trong Hợp đồng ban đầu.
1.4.2.

Hậu quả của chậm tiến độ


Hậu quả của chậm tiến độ gây ảnh hưởng khác nhau cho các bên tham gia vào dự
án. Một trong các hậu quả thường gặp là mất thời gian, tiền bạc và khả năng dự án bị
thu hồi. Đối với chủ đầu tư, chậm tiến độ có nghĩa là mất nguồn thu có được từ dự án
và/hoặc tiếp tục phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng hiện hữu. Đối với nhà thầu, chậm tiến độ
sẽ dẫn đến việc mất thêm tiền để chi trả cho các trang thiết bị và người lao động. Ngoài
ra, vốn ứng trước của nhà thầu đã chi vào các dự án rất khó để thu hồi. Đối với công
chúng, các dự án xây dựng và các dự án cơ sở hạ tầng chưa được đưa vào để sử dụng
đúng theo quy hoạch làm cho người dân phải tiếp tục sử dụng/chia sẻ các cơ sở hạ tầng
hiện hữu và cũ kỹ. Đối với Nhà nước, Chính phủ bị mất các nguồn thu do chậm đưa
vào sử dụng các công trình và cơ sở hạ tầng mới. Đối với bản thân dự án, chậm tiến độ
khiến hầu hết các dự án phải chịu thêm gánh nặng chi phí gia tăng khi hoàn thành
muộn hơn kế hoạch (Shaikh và cộng sự, 2010).
Trong một nghiên cứu khác, Aibinu và Jagboro (2002) xác định các hậu quả của
chậm tiến độ bao gồm: kế hoạch thực hiện bị vi phạm; vượt dự toán; các bên tranh
chấp, phải nhờ đến trọng tài tham gia phân xử; dự án bị đình chỉ hoặc hủy bỏ và các
bên tiến hành kiện tụng lẫn nhau khi nghiên cứu những ảnh hưởng của chậm tiến độ
trong xây dựng đối với các dự án trong ngành công nghiệp xây dựng ở Nigeria. Kết
quả này cũng được Sambasivan và Soon (2007) xác nhận trong nghiên cứu nguyên
nhân và hậu quả của chậm tiến độ của các công trình xây dựng công nghiệp ở
Malaysia. Trong khi đó, Koushki và Kartam (2004) kết luận rằng chậm tiến độ ảnh
hưởng tiêu cực đến việc thực hiện dự án của các nhà thầu và góp phần tác động tiêu
cực trong xây dựng như tranh chấp hợp đồng, năng suất thấp và tăng chi phí xây dựng,
ảnh hưởng đến mục tiêu các dự án.
Còn theo “Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về
quản lý, phân bổ và sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 – 2010” của Ủy


22

ban Tài chính – Ngân sách thuộc Quốc hội công bố đầu năm 2010 cho biết, các công

trình, dự án bị chậm tiến độ sẽ chịu tác động của đủ mọi chi phí và các chi phí này liên
tục tăng, từ giá nhân công, vật liệu, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, điều chỉnh
thiết kế kỹ thuật, quy mô dự án… gây tổn thất không nhỏ cho nền kinh tế.
Tóm lại, các hậu quả chính của chậm tiến độ có thể có như sau:
Bảng 1.1: Một số hậu quả của chậm tiến độ
Stt

Hậu quả

Nghiên cứu
Aibinu và Jagboro (2002) nghiên cứu những ảnh hưởng của
chậm tiến độ xây dựng đối với dự án trong ngành công

1

Thời gian thực nghiệp xây dựng Nigeria.
hiện bị vi phạm Sambasivan và Soon (2007) nghiên cứu nguyên nhân và hậu
quả của chậm tiến độ của các công trình xây dựng công
nghiệp ở Malaysia.
Aibinu và Jagboro (2002) nghiên cứu những ảnh hưởng của
chậm tiến độ xây dựng đối với dự án trong ngành công
nghiệp xây dựng Nigeria.
Koushki và cộng sự (2005) nghiên cứu chậm tiến độ và

2

Chi phí thực
hiện gia tăng

vượt dự toán trong xây dựng các dự án nhà ở tư nhân ở

Kuwait.
Sambasivan và Soon (2007) nghiên cứu nguyên nhân và hậu
quả của chậm tiến độ của các công trình xây dựng công
nghiệp ở Malaysia.
Shaikh và cộng sự (2010) nhận diện các yếu tố chủ yếu gây
chậm tiến độ trong xây dựng.
Aibinu và Jagboro (2002) nghiên cứu những ảnh hưởng của
chậm tiến độ xây dựng đối với dự án trong ngành công

3

Tranh chấp

nghiệp xây dựng Nigeria.
Sambasivan và Soon (2007) nghiên cứu nguyên nhân và hậu
quả của chậm tiến độ của các công trình xây dựng công


23

nghiệp ở Malaysia.
Aibinu và Jagboro (2002) nghiên cứu những ảnh hưởng của
chậm tiến độ xây dựng đối với dự án trong ngành công
4

Trọng tài

nghiệp xây dựng Nigeria.
Sambasivan và Soon (2007) nghiên cứu nguyên nhân và hậu
quả của chậm tiến độ của các công trình xây dựng công

nghiệp ở Malaysia.
Aibinu và Jagboro (2002) nghiên cứu những ảnh hưởng của
chậm tiến độ xây dựng đối với dự án trong ngành công

5

Kiện tụng

nghiệp xây dựng Nigeria.
Sambasivan và Soon (2007) nghiên cứu nguyên nhân và hậu
quả của chậm tiến độ của các công trình xây dựng công
nghiệp ở Malaysia.
Aibinu và Jagboro (2002) nghiên cứu những ảnh hưởng của
chậm tiến độ xây dựng đối với dự án trong ngành công

6

Hủy bỏ

nghiệp xây dựng Nigeria.
Sambasivan và Soon (2007) nghiên cứu nguyên nhân và hậu
quả của chậm tiến độ của các công trình xây dựng công
nghiệp ở Malaysia.
(Nguồn: tác giả tự tổng hợp)

1.5. Vấn đề vượt dự toán các dự án đầu tư
1.5.1.

Khái niệm vượt dự toán


Vượt dự toán là việc chi phí thực hiện dự án tăng hơn so với chi phí ước tính ban
đầu khi lập dự án, hoặc tăng hơn chi phí tối đa quy định trong hợp đồng (Avots, 1983).
Một số tác giả khác như Mansfield và cộng sự (1994) lại cho rằng “sự thay đổi chi phí”
cũng được sử dụng thay thế cho vượt dự toán. Trong một cách tiếp cận so sánh,
Flyvbjerg và cộng sự (2003) cho rằng “chi phí tăng thêm” là sự khác biệt giữa chi phí
thực tế và ngân sách dự kiến ban đầu.


24

Trong nghiên cứu này, khái niệm “vượt dự toán” được hiểu chính là sự gia tăng
chi phí thực tế tại thời điểm hoàn thành so với giá trị trên hợp đồng thỏa thuận giữa chủ
đầu tư và nhà thầu lúc ban đầu.
1.5.2.

Hậu quả của vượt dự toán

Theo Nega (2008), vượt dự toán có hậu quả rõ ràng cho các bên liên quan nói
riêng và ngành công nghiệp xây dựng nói chung. Đối với khách hàng, vượt dự toán
ngụ ý gia tăng chi phí so với những thỏa thuận ban đầu. Đối với người dùng cuối, các
chi phí tăng thêm phải được phân bổ làm tăng chi phí hoặc giá cho thuê, từ đó ảnh
hưởng đến kế hoạch kinh doanh. Đối với đội ngũ các chuyên gia/tổ chức tư vấn, các dự
án vượt dự toán có thể làm hoen ố danh tiếng và dẫn đến mất lòng tin của khách hàng.
Đối với nhà thầu, vượt dự toán gây ra thiệt hại về lợi nhuận và tạo ra nguy cơ mất trắng
chi phí ứng trước của nhà thầu bỏ vào các dự án nếu nó bị hủy bỏ/chậm thanh toán
hoặc nhà thầu bị thay thế. Đối với ngành xây dựng nói chung, vượt dự toán có thể tạo
ra tiếng xấu, bị giám sát (làm gia tăng chi phí giám sát của Chính phủ) và làm tăng các
rủi ro về tài chính. Đồng thời, Ahmed và cộng sự (2003, theo Mahamid và Dmaidi,
2013) cho rằng vượt dự toán có một tác động tiêu cực đối với khách hàng, nhà thầu
hoặc tư vấn về niềm tin trong sự hợp tác, sự hồ nghi, kiện tụng, trọng tài và các vấn đề

về ngân lưu.
Bảng 1.2: Một số tác động của chậm tiến độ đối với các bên tham gia dự án
Tác động
---------------Nghiên cứu

Giảm lợi

Giảm lợi

Sự hài

nhuận

nhuận

Vấn đề về

Kiện

lòng của

Phá

của Chủ

của Nhà

dòng tiền

tụng


khách

sản

đầu tư

thầu











hàng

Mbachu và cộng
sự
(2004)
Zainuddeen và
cộng sự
(2008)







25

Arditi và cộng


sự
(1985)
Ahmed và cộng



sự



(2003)
Charoenngam và



cộng sự (2001)
Nega (2008)












(Nguồn: Mahamid và Dmaidi, 2013)
1.6. Các nghiên cứu về yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư
Trong các dự án đầu tư, thời gian và chi phí là hai mối quan tâm hàng đầu của
chủ đầu tư trong quản lý thực hiện dự án. Hiện tượng các dự án bị chậm và vượt dự
toán xảy ra phổ biến trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các nghiên cứu về nguyên
nhân của những vấn đề này cũng đã được tiến hành ở Ấn Độ (Singh, 2010), Jordan
(Sweis và cộng sự, 2008), Saudi Arabia (Assaf và Al-Hejji, 2006), Malaysia (Hamzah
và cộng sự, 2011).
Chan và Kumaraswamy (1997) cho rằng quá trình thực hiện một dự án đầu tư có
thể được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị đầu tư (khảo sát ban đầu, lập báo
cáo tiền khả thi, lập báo cáo khả thi), giai đoạn chuẩn bị thực hiện dự án (khảo sát thiết
kế chi tiết, thiết kế bản vẽ thi công) và giai đoạn thực hiện đầu tư (thi công xây dựng).
Trong đó, phần lớn sự chậm trễ của dự án xảy ra trong giai đoạn thi công xây dựng.
Tuy nhiên, ở một cách tiếp cận khác, nghiên cứu của Frimpong và cộng sự (2003) lại
kết luận bất kỳ dự án xây dựng nào cũng bao gồm 2 giai đoạn riêng biệt: Giai đoạn
trước khi xây dựng (là khoảng thời gian từ khi có ý tưởng đầu tư đến trước khi hình
thành hợp đồng) và giai đoạn xây dựng (là giai đoạn từ lúc trao hợp đồng xây dựng đến
khi dự án được hoàn thành) và sự chậm trễ hoặc vượt dự toán chi phí của dự án xảy ra
trong cả hai giai đoạn. Tuy nhiên, trường hợp chủ yếu của vượt dự toán thường diễn ra
trong giai đoạn xây dựng.


×