BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
TRẦN QUỐC VIỆT
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẬM TIẾN
ĐỘ THI CÔNG CÁC DỰ ÁN NHÀ Ở DÂN
DỤNG TẠI TP.HCM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
TRẦN QUỐC VIỆT
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẬM TIẾN
ĐỘ THI CÔNG CÁC DỰ ÁN NHÀ Ở DÂN
DỤNG TẠI TP.HCM
Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã số: 60340102
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS Bảo Trung
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ
thi công các dự án nhà ở dân dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TP.HCM, ngày … tháng …. năm 2013
Tác giả luận văn
Trần Quốc Việt
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ-ĐỒ THỊ
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1 Lý do chọn đề tài 1
2 Mục tiêu nghiên cứu 2
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4 Phương pháp nghiên cứu 2
4.1 Nguồn dữ liệu 2
4.2 Phương pháp nghiên cứu 3
5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu 3
6 Kết cấu nghiên cứu 4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 5
1.1 Các khái niệm 5
1.1.1 Dự án 5
1.1.2 Dự án xây dựng nhà ở dân dụng 5
1.1.3 Chậm tiến độ trong dự án xây dựng 6
1.2 Các nghiên cứu trước đây về các yếu tố gây ra chậm tiến độ 9
1.3 Các giả thuyết và mô hình nghiên cứu 12
1.3.1 Bối cảnh nghiên cứu 12
1.3.2 Các giả thuyết 13
1.3.3 Mô hình nghiên cứu của đề tài 18
Tóm tắt chương 1 19
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1 Qui trình nghiên cứu 20
2.2 Giai đoạn 1 – Nghiên cứu định tính 22
2.2.1 Chọn mẫu 22
2.2.2 Thực hiện nghiên cứu định tính 22
2.2.3 Kết quả nghiên cứu định tính 23
2.3 Giai đoạn 2 – Nghiên cứu định lượng 25
2.3.1 Thang đo 25
2.3.2 Chọn mẫu 27
2.3.3 Xử lý dữ liệu trong nghiên cứu định lượng chính thức 30
Tóm tắt chương 2 32
CHƯƠNG 3
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẬM TIẾN ĐỘ THI CÔNG CÁC DỰ
ÁN NHÀ Ở DÂN DỤNG TẠI TP.HCM 33
3.1 Tính chất và đặc điểm của mẫu 33
3.2 Xếp hạng các yếu tố gây chậm tiến độ 35
3.3 Đánh giá sự khác biệt trong các đối tượng khảo sát 43
3.4 Đánh giá thang đo 43
3.4.1 Đánh giá thang đo bao gồm các biến quan sát 43
3.4.2 Đánh giá thang đo biến phụ thuộc 45
3.5 Phân tích nhân tố khám phá EFA 46
3.5.1 Kiểm tra điều kiện phân tích EFA 46
3.5.2 Phân tích nhân tố khám phá EFA 47
3.5.3 Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA 49
3.6 Kiểm định mô hình – xây dựng hàm hồi qui 53
3.6.1 Xây dựng hàm hồi qui 53
3.6.2 Đánh giá độ phù hợp của mô hình & kiểm định các giả thuyết 55
3.6.3 Đánh giá mức độ quan trọng của các biến trong mô hình. 58
3.7 Thực trạng và kết quả phân tích các yếu tố gây chậm tiến độ đối với các
nhóm đối tượng khảo sát 58
3.7.1 Thực trạng và kết quả phân tích các yếu tố xuất phát từ nhà thầu 58
3.7.2 Thực trạng và kết quả phân tích các yếu tố xuất phát từ chủ đầu tư 60
3.7.3 Thực trạng và kết quả phân tích các yếu tố xuất phát từ tư vấn giám sát,
thiết kế 61
Tóm tắt chương 3 63
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 64
1 Kết luận 64
2 Khuyến nghị 66
2.1 Giải pháp hạn chế các yếu tố từ nhà thầu gây chậm tiến độ 66
2.2 Giải pháp hạn chế các yếu tố từ chủ đầu tư gây ra chậm tiến độ 69
2.3 Giải pháp hạn chế các yếu tố từ tư vấn giám sát, thiết kế gây chậm tiến độ
70
3 Các hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Từ được viết tắt Diễn giải tiếng Việt
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh
RII Relative importance index Chỉ số quan trọng tương đối
PCA Principal Component Analysis Phân tích nhân tố chính
PMI Project Management Institute Viện quản lý dự án
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Mã hóa các biến quan sát 25
Bảng 2.2 Giá trị Cronbach alpha cho thang đo định lượng sơ bộ 29
Bảng 2.3 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng thang đo định lượng sơ bộ 29
Bảng 3.1 Xếp hạng các yếu tố theo quan điểm nhà thầu 35
Bảng 3.2 Xếp hạng các yếu tố theo quan điểm tư vấn giám sát 36
Bảng 3.3 Xếp hạng các yếu tố theo quan điểm chủ đầu tư 38
Bảng 3.4 Xếp hạng các yếu tố theo đánh giá tổng hợp từ các đối tượng khảo sát 39
Bảng 3.5 Hệ số tương quan hạng Spearman giữa các đối tượng khảo sát 43
Bảng 3.6 Giá trị Cronbach alpha của thang đo định lượng chính thức 44
Bảng 3.7 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng thang đo định lượng chính thức 44
Bảng 3.8 Giá trị Cronbach alpha của thang đo biến phụ thuộc 45
Bảng 3.9 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng thang đo biến phụ thuộc 45
Bảng 3.10 Kết quả kiểm định KMO và Barlett 46
Bảng 3.11 Giải thích tổng phương sai trích 47
Bảng 3.12 Ma trận các nhân tố đã xoay 48
Bảng 3.13 Hệ số cronbach alpha nhân tố 1 49
Bảng 3.14 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng nhân tố 1 49
Bảng 3.15 Hệ số cronbach alpha nhân tố 2 50
Bảng 3.16 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng nhân tố 2 50
Bảng 3.17 Hệ số cronbach alpha nhân tố 3 51
Bảng 3.18 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng nhân tố 3 51
Bảng 3.19 Hệ số cronbach alpha nhân tố 4 52
Bảng 3.20 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng nhân tố 4 52
Bảng 3.21 Hệ số cronbach alpha nhân tố 5 52
Bảng 3.22 Thống kê hệ số tương quan biến-tổng nhân tố 5 53
Bảng 3.23 Các thông số thống kê các biến trong mô hình 54
Bảng 3.24 Bảng tổng kết mô hình 55
Bảng 3.25 Bảng kết quả kiểm định F 55
Bảng 3.26 Kết quả hệ số phóng đại phương sai VIF 56
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ-ĐỒ THỊ
Hình 1.1 Mô hình nghiên cứu 18
Hình 2.1 Lưu đồ thiết kế nghiên cứu 21
Hình 3.1 Phân bổ đối tượng khảo sát 33
Hình 3.2 Kinh nghiệm nhân viên nhà thầu 34
Hình 3.3 Mô hình được điều chỉnh 53
Hình 3.4 Quan hệ giữa ŷ và phần dư 57
Hình 3.5 Biểu đồ phân phối phần dư chuẩn hóa 57
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Trong ngành xây dựng, chậm tiến độ dự án là một vấn đề mang tính toàn cầu,
chậm tiến độ đề cập đến việc quá thời hạn trong việc phân phối dự án xây dựng mà
các bên liên quan đã cam kết (Assaf và Al Hejji, 2005).
Tại Việt Nam, chậm tiến độ trong các dự án xây dựng nói chung, các dự án
xây dựng nhà ở dân dụng nói riêng là một vấn đề mà gần đây các phương tiện thông
tin đại chúng thường hay đề cập. Loại hình dự án xây dựng bị chậm tiến độ rất đa
dạng, có thể là những dự án trọng điểm quốc gia như cầu, đường, nhà máy điện và
các công trình trọng điểm khác đến những dự án dân dụng như các dự án nhà ở dân
dụng và các loại dự án xây dựng khác.
Chậm tiến độ trong dự án xây dựng nhà ở dân dụng mang lại rất nhiều hậu
quả. Đối với chủ đầu tư, chậm tiến độ có thể làm phát sinh chi phí như những chi
phí phát sinh do lãi vay ngân hàng, chi phí thuê nhà ở đối với chủ đầu tư nhà ở dân
dụng riêng lẻ, chi phí thời gian vì dự án kéo dài và các ảnh hưởng khác. Đối với nhà
thầu thi công, chậm tiến độ đồng nghĩa với chi phí tăng cao trong đó có thể là thời
gian làm việc dài hơn, gia tăng các chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu, chi
phí thiết bị, mất uy tín trong kinh doanh và các ảnh hưởng xấu khác.
Qua các vấn đề trên, có thể thấy được chậm tiến độ trong các dự án xây dựng,
trong trường hợp nghiên cứu là các dự án xây dựng nhà ở dân dụng là một vấn đề
cần được quan tâm. Tuy nhiên, rất khó tìm được một nghiên cứu về các nhân tố ảnh
hưởng đến việc chậm tiến độ trong các dự án nhà ở tại thành phố Hồ Chí Minh mặc
dù đã có những nghiên cứu về việc chậm tiến độ trong các dự án xây dựng lớn - dự
án đầu tư trên 1 triệu USD theo định nghĩa của Long và cộng sự (2008) ở Việt Nam.
Chính vì vậy, nghiên cứu này muốn đi vào tìm hiểu nguyên nhân thật sự gây ra
chậm tiến độ trong các dự án xây dựng nhà ở dân dụng tại thành phố Hồ Chí Minh.
2
Thông qua việc xác định các yếu tố gây chậm tiến độ để từ đó tìm ra các giải pháp
hạn chế ảnh hưởng của các yếu tố gây chậm tiến độ này, nhằm hạn chế sự chậm tiến
độ trong các dự án của các công ty xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh.
2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu cụ thể như sau:
1. Khám phá những yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ thi công các dự
án xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố gây chậm tiến độ thi công
các dự án xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế các yếu tố gây chậm tiến độ thi
công trong các công trình xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các yếu tố gây chậm tiến độ thi công trong
các dự án xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong các dự án xây dựng nhà ở dân
dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến nay.
4 Phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn dữ liệu
Nguồn dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu bao gồm 2 nguồn chính:
Dữ liệu thứ cấp: các nghiên cứu về lĩnh vực quản lý tiến độ thi công các dự
án xây dựng nhà ở, các nghiên cứu về chậm tiến độ, các yếu tố gây ra chậm tiến độ
dự án và các hậu quả do chậm tiến độ gây ra.
Dữ liệu sơ cấp: thực hiện thu thập dữ liệu bằng cách khảo sát các các đối
3
tượng liên quan đến các dự án xây dựng nhà ở dân dụng riêng lẻ trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh. Đối tượng khảo sát là các khách hàng của các công ty (chủ đầu
tư) & nhân viên, nhà quản lý của công ty xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh (nhà thầu) và các nhân viên của đơn vị tư vấn, giám sát các
công trình xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm
phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Nghiên
cứu chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 là nghiên cứu định tính nhằm khẳng định & bổ sung những yếu tố
ảnh hưởng đến chậm tiến độ thi công các dự án nhà ở dân dụng trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến nay. Mục đích chính của giai đoạn nghiên cứu
định tính là để thiết kế bảng câu hỏi phỏng vấn cho nghiên cứu định lượng.
Giai đoạn 2 là nghiên cứu định lượng với việc xếp hạng các yếu tố ảnh hưởng
đến chậm tiến độ, phân tích nhân tố khám phá & xây dựng mô hình hồi qui nhằm
đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến tiến độ thi công các dự án xây dựng nhà ở
dân dụng tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến nay. Sau đó đề xuất các giải
pháp hạn chế ảnh hưởng các yếu tố gây ra chậm tiến độ công trình xây dựng nhà ở
dân dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
Thông qua trả lời các câu hỏi nghiên cứu, nghiên cứu xác định được các yếu tố
ảnh hưởng đến chậm tiến độ cho các dự án xây dựng nhà ở dân dụng tại thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 2010 đến nay. Từ các yếu tố này, xác định được tầm quan
trọng của mỗi yếu tố để từ đó có thể tìm ra các giải pháp khắc phục và hạn chế ảnh
hưởng của các yếu tố này đến tiến độ dự án nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản
lý tiến độ dự án đối với trường hợp xây dựng nhà ở dân dụng trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh.
4
6 Kết cấu nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ được trình bày thành các phần chính như sau:
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ thi công các dự án nhà ở
dân dụng tại TP.HCM
Kết luận và khuyến nghị
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Dự án
Theo Đỗ Thị Xuân Lan (2012), dự án là một nhóm các công việc được thực
hiện theo một quy trình nhất định để đạt được mục tiêu đề ra, có thời điểm bắt đầu
và kết thúc được ấn định trước, và sử dụng tài nguyên có giới hạn. Ngoài ra, dự án
còn được định nghĩa là một nỗ lực tạm thời nhằm tạo nên một sản phẩm, dịch vụ
hay kết quả (PMI, 2008). Bản chất tạm thời của dự án được xác định bởi điểm khởi
đầu và kết thúc xác định của nó.
Trong nghiên cứu này, dự án được xác định là nhóm các công việc nhằm tạo
nên những công trình xây dựng nhà ở dân dụng riêng lẻ với thời gian bắt đầu và kết
thúc được ấn định bởi hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu.
1.1.2 Dự án xây dựng nhà ở dân dụng
Theo Đỗ Thị Xuân Lan (2012), dự án xây dựng là tập hợp những đề xuất hay
công việc có liên quan đến bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hay cải tạo những công trình
xây dựng.
Theo định nghĩa của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nguyên tắc phân loại,
phân cấp công trình dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật đô thị thì công trình
xây dựng dân dụng bao gồm các loại nhà ở, nhà và công trình công cộng (Bộ xây
dựng, 2012). Trong đó, nhà ở được phân thành hai loại là nhà chung cư và nhà riêng
lẻ.
Trong nghiên cứu này, các dự án xây dựng nhà ở dân dụng được đề cập là
các công trình xây dựng nhà ở cá nhân riêng lẻ (thông thường là các công trình xây
dựng nhà ở từ 2 đến 5 tầng), có thời điểm bắt đầu và kết thúc được xác định dựa vào
6
kế hoạch thi công của các công ty xây dựng và nằm trong giới hạn được xác định
bởi hợp đồng được ký kết giữa các công ty và khách hàng.
1.1.3 Chậm tiến độ trong dự án xây dựng
Một đặc tính chung của các dự án xây dựng là chúng thường biến động và
thường phức tạp và đa dạng. Điều này dẫn đến một tranh cãi không có hồi kết, trong
đó rất nhiều nhà nghiên cứu xem chậm tiến độ như là một điều hiển nhiên và một số
cho rằng đó là hiện tượng toàn cầu ảnh hưởng đến tất cả các dạng dự án xây dựng
(Sambasivan & Soon, 2007).
Xét ở một mức độ nhất định, mỗi dự án xây dựng là một công trình duy nhất –
không có hai dự án nào hoàn toàn giống hệt nhau. Tiến trình xây dựng bị ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố có sức biến đổi lớn và đôi khi không thể dự đoán được. Tất cả các
phức tạp vốn có trong các công trình xây dựng khác nhau như các điều kiện về đất
đai, giao thông, thời tiết, nguồn cung cấp vật tư, tiện ích, nhà thầu phụ, các điều
kiện về nguồn nhân lực và công nghệ của nhà thầu là một điều tất yếu trong ngành
xây dựng (S Keoki và cộng sự, 2010).
Theo Chan và Kumaraswamy (1997) trích trong Ramanathan và cộng sự
(2012), thông thường, một dự án xây dựng có thể chia thành 3 giai đoạn chính: giai
đoạn hình thành dự án, giai đoạn thiết kế, và giai đoạn thi công, trong đó, các tác
giả cho rằng việc chậm tiến độ thường xảy ra trong giai đoạn thi công.
Ramanathan và cộng sự (2012) cho rằng chậm tiến độ trong dự án xây dựng có
thể được định nghĩa là sự vượt quá thời gian so với thời gian hoàn thành được xác
định trong hợp đồng hay vượt quá thời gian mà các bên liên quan đã đồng ý với
nhau về thời gian hoàn thành dự án.
Chậm tiến độ trong dự án xây dựng xuất hiện trong tình huống vì một số lý do
nào đó, có thể do chủ đầu tư, nhà thầu hay các bên liên quan khác, làm cho công
việc không thể hoàn thành theo thời gian dự định.
Theo Assaf và Al Hejji (2005), chậm tiến độ dự án xây dựng là một vấn đề
mang tính toàn cầu, và đi kèm với chậm tiến độ dự án là các hậu quả như chi phí gia
7
tăng, kiện tụng, các vấn đề về tài chính và sự mất niềm tin lẫn nhau.
Theo nhiều nghiên cứu, các chậm tiến độ trong quá trình thực hiện dự án xây
dựng gây nên hậu quả quan trọng là chậm tiến độ hoàn thành toàn bộ dự án bên
cạnh việc gia tăng chi phí dự án và các hậu quả khác (M.Haseeb và cộng sự, 2011;
Townhid và Admiruddin, 2011; Sambasivan và Soon, 2007). Ngoài ra, theo Al
Kharashi và Skitmore (2009), chậm tiến độ dự án sẽ làm cho nhà thầu bị mắc kẹt
vốn, bao gồm tài chính, nhân sự và các yếu tố khác với một dự án trong thời gian
dài hơn, làm cho nhà thầu giảm khả năng tham gia vào các dự án khác và có thể làm
giảm doanh thu.
Theodore (2009) đề xuất 4 cách cơ bản để phân loại chậm tiến độ ảnh hưởng
đến tiến độ hoàn thành dự án:
- Chậm tiến độ nghiêm trọng và chậm tiến độ không nghiêm trọng
(Critical & Non-Critical delay): Độ nghiêm trọng của chậm tiến độ được
xét dựa trên chậm tiến độ có hay không ảnh hưởng đến toàn bộ tiến độ của
dự án. Thực tế, có nhiều chậm tiến độ không ảnh hưởng đến đến sự hoàn
thành của toàn bộ dự án hay các mốc quan trọng, các chậm tiến độ này
được xem là chậm tiến độ không quan trọng. Chậm tiến độ có thể gây ảnh
hưởng đến tiến độ của toàn dự án được xem là chậm tiến độ nghiêm trọng.
- Chậm tiến độ có thể tha thứ được và chậm tiến độ không thể tha thứ
được (Excusable & Non-execusable delay): chậm tiến độ có thể tha thứ
được là chậm tiến độ do các nguyên nhân không thể dự đoán được gây ra.
Thông thường, những dạng chậm tiến độ do các nguyên nhân như hỏa
hoạn, động đất, thời tiết, chủ đầu tư bị thay đổi, và các nguyên nhân tương
tự (không thể đoán trước và ngoài tầm kiểm soát của nhà thầu) được xem
như chậm tiến độ có thể tha thứ được. Những chậm tiến độ trong tầm kiểm
soát của nhà thầu và có thể dự đoán được thường được xem là chậm tiến độ
không thể tha thứ.
- Chậm tiến độ phải đền bù và chậm tiến độ không cần đền bù
(Compensable & Non-compensable delay): chậm tiến độ phải đền bù là
8
các chậm tiến độ mà nhà thầu bắt buộc phải đền bù, các chậm tiến độ này
có thể là chậm tiến độ không thể tha thứ được.
- Chậm tiến độ đồng thời và chậm tiến độ không đồng thời (Concurrent &
Non-concurent delay): chậm tiến độ đồng thời là các chậm tiến độ khác
nhau xảy ra cùng một thời gian làm ảnh hưởng đến đường găng của dự án
mà hậu quả là làm chậm tiến độ toàn dự án. Thông thường, khi chậm tiến
độ đồng thời xảy ra, cả chủ đầu tư và nhà thầu đều phải chịu trách nhiệm
cho chậm tiến độ này.
Ngoài ra, theo Tumi và cộng sự (2009), có thể phân chia thành 2 dạng chậm
tiến độ cơ bản là chậm tiến độ có thể tha thứ được và chậm tiến độ không thể tha
thứ được.
- Chậm tiến độ không thể tha thứ được: là dạng chậm tiến độ gây ra do nhà
thầu không tuân thủ hợp đồng đã được thỏa thuận hoặc do các bên cung
cấp dịch vụ cho nhà thầu gây ra chậm tiến độ. Nhà thầu thường phải chịu
trách nhiệm chính và phải đền bù khoảng thời gian chậm trễ cho chủ đầu
tư. Nguyên nhân gây ra chậm tiến độ loại này có thể là do thầu phụ chậm
tiến độ, nhà thầu quản lý công trình không hiệu quả, tài chính của nhà thầu
không đáp ứng được yêu cầu, thiếu lao động, không đáp ứng được kế
hoạch thi công đề ra và các nguyên nhân khác.
- Chậm tiến độ có thể tha thứ được – được đền bù: là chậm tiến độ gây ra
bởi việc hành động hay không hành động của chủ đầu tư. Khi nhà thầu gặp
dạng nhân tố gây ra chậm tiến độ loại này, họ có thể kéo dài thời gian thi
công hoặc được đền bù do sự chậm tiến độ vì dạng chậm tiến độ này làm
nhà thầu phát sinh các chi phí thêm. Sự chậm tiến độ này thường được gây
ra bởi các tình huống không lường được và không phải là lỗi của nhà thầu.
Ví dụ có thể là chậm tiến độ do kỹ sư thiết kế mà chủ đầu tư thuê không
hoàn thành bản vẽ thiết kế đúng thời hạn.
- Chậm tiến độ có thể tha thứ được – không đền bù: là dạng chậm tiến độ
mà lỗi gây ra không do nhà thầu cũng không do chủ đầu tư, khi chậm tiến
9
độ dạng này xảy ra, dự án có thể kéo dài mà không cần đền bù. Trong
trường hợp này thường nhà thầu phải chịu trách nhiệm cho việc kéo dài
thời gian nhưng không phải đền bù. Nguyên nhân gây ra chậm tiến độ loại
này có thể là do thời tiết bất thường, thiên tai, sự can thiệp của chính
quyền.
1.2 Các nghiên cứu trước đây về các yếu tố gây ra chậm tiến độ
Có rất nhiều các nghiên cứu về các yếu tố gây ra chậm tiến độ dự án. Các
nghiên cứu về các yếu tố gây chậm tiến độ cũng như các hậu quả do chậm tiến độ
dự án gây nên đã được thực hiện trên rất nhiều quốc gia, có thể kể đến như USA,
HongKong, Malaysia, Indonesia, Kuwait, Saudi Arabia và các quốc gia khác. Ngay
tại Việt Nam, đã có nghiên cứu các yếu tố gây nên chậm tiến độ trong các dự án xây
dựng lớn của Long (2008).
Kumaraswany và Chan (1998) trích dẫn trong Long (2008) đã tiến hành
nghiên cứu các nhân tố có khả năng gây chậm tiến độ đối với dự án xây dựng ở
HongKong dưới góc nhìn của khách hàng, nhà thầu & chủ đầu tư. Các tác giả đã
xác định được 5 nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chậm tiến độ của dự án theo thứ
tự giảm dần về độ quan trọng: Quản lý & giám sát rủi ro kém, không dự đoán được
tình trạng mặt bằng chính xác, chủ đầu tư ra quyết định chậm, chủ đầu tư yêu cầu
thay đổi và sự thay đổi công việc.
Kaming và các cộng sự (1997) trích trong Long (2008) đã sử dụng khảo sát
bằng bảng câu hỏi để xác định 11 nhân tố dẫn đến sự chậm tiến độ trong các dự án
xây dựng ở Indonesia, trong đó, 5 nguyên nhân hàng đầu gây ra sự châm tiến độ là
thay đổi thiết kế, chất lượng lao động kém, kế hoạch không hợp lý, thiếu vật tư và
dự đoán vật tư không chính xác.
Al Moumani (2000) đã thực hiện nghiên cứu về nguyên nhân gây chậm tiến độ
dự án trong 130 dự án xây dựng trên các vùng khác nhau của Jordan trong khoảng
thời gian từ 1990-1997 bằng cách sử dụng các dữ liệu định lượng. Các dự án xây
dựng trong nghiên cứu này bao gồm các 14 dự án dân cư, 34 văn phòng, 52 trường
10
học, 20 trung tâm y tế và 12 dự án tiện ích cộng đồng. Tất cả các công việc mà có
thời hạn hoàn thành trễ so với ngày hoàn thành trên kế hoạch được xem là chậm
tiến độ. Tác giả đã lập một bảng các yếu tố có thể gây chậm tiến độ và xác định tần
số xuất hiện của các yếu tố này. Nghiên cứu đã xác định được các nguyên nhân gây
chậm tiến độ hàng đầu trong trường hợp nghiên cứu bao gồm các vấn đề liên quan
đến thiết kế, các thay đổi của chủ đầu tư, thời tiết, điều kiện mặt bằng và vật tư phân
phối trễ.
Admed và các cộng sự (2002) đã nghiên cứu về các yếu tố gây chậm tiến độ
tại Florida, USA. Tác giả đã khảo sát thông qua bảng phỏng vấn các công ty xây
dựng ở Florida bằng cách gửi qua thư thông thường và thông qua Internet. Kết quả
nghiên cứu rút ra 10 yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến tiến độ dự án, trong đó 3 yếu tố
quan trọng bao gồm: giấy phép xây dựng từ chính quyền, sự thay đổi yêu cầu thi
công, sự thay đổi thiết kế. Từ kết quả phân tích, nghiên cứu cũng xếp hạng mức độ
trách nhiệm của các thành phần tham gia trong sự chậm tiến độ dự án bao gồm nhà
thầu (44%), chủ đầu tư (24%), chính quyền (14%), tư vấn (6%) và phần còn lại chia
đều cho các bên (12%).
Assaf và Al Hejji (2005) đã khảo sát các dạng dự án xây dựng tại Saudi
Arabia, thông qua phỏng vấn 23 nhà thầu, 19 đơn vị tư vấn, và 15 chủ đầu tư, các
tác giả đã xác định được 73 yếu tố gây nên chậm tiến độ trong nghiên cứu. Trong
đó, 76% nhà thầu & 56% tư vấn được khảo sát cho rằng thời gian trễ tiến độ trung
bình từ 10%-30%. Ba yếu tố gây nên chậm tiến độ quan trọng nhất do chủ đầu tư
xác định bao gồm thiếu lao động, lao động không đạt chất lượng, và nhà thầu lên kế
hoạch thi công không hiệu quả. Kết quả cho thấy các yếu tố gây nên chậm tiến độ
do nhà thầu xác định bao gồm chủ đầu tư trả tiền chậm, chủ đầu tư duyệt & chấp
nhận thiết kế chậm, và chủ đầu tư thay đổi yêu cầu thi công. Các yếu tố chậm tiến
độ quan trọng do nhà tư vấn xác định bao gồm thiếu lao động, chủ đầu tư trả tiền
chậm, nhà thầu lên kế hoạch thi công không hiệu quả.
Ngoài ra, bằng cách phỏng vấn ngẫu nhiên 450 chủ đầu tư tư nhân các dự án
nhà ở dân dụng trên 27 quận đại diện của Kuwait, Koushki và cộng sự (2005) cũng
11
đã xác định được 3 nguyên nhân gây ra chậm tiến độ hàng đầu là thay đổi yêu cầu
xây dựng, chủ đầu tư thiếu hụt về tài chính, chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm.
Sambasivan & Soon (2007) đã xây dựng 200 bảng câu hỏi phỏng vấn với 28
yếu tố gây ra chậm tiến độ và 6 ảnh hưởng của chậm tiến độ gửi ngẫu nhiên đến các
chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn tại Malaysia. Trong đó, 28 yếu tố gây ảnh hưởng đến
chậm tiến độ này được tổ chức thành 8 nhóm bao gồm: (1)các yếu tố liên quan đến
khách hàng (chủ đầu tư), (2) các yếu tố liên quan đến nhà thầu, (3) các yếu tố liên
quan đến đơn vị tư vấn, (4) các yếu tố liên quan đến vật liệu, (5) các yếu tố liên
quan đến lao động và trang thiết bị, (6) các yếu tố liên quan đến hợp đồng, (7) các
yếu tố liên quan đến mối quan hệ hợp đồng, (8) các yếu tố bên ngoài. Nghiên cứu
nhận được 150 phản hồi, trong đó bao gồm 67 từ nhà đầu tư, 48 từ đơn vị tư vấn, và
35 từ nhà thầu. Nghiên cứu đã xác định được 10 nguyên nhân quan trọng nhất gây
nên chậm tiến độ, trong đó 5 nguyên nhân quan trọng hàng đầu bao gồm (1) nhà
thầu lên kế hoạch thi công không tốt, (2) nhà thầu quản lý công trình kém, (3) nhà
thầu không có kinh nghiệm tương xứng, (4) chủ đầu tư có điều kiện tài chính tốt &
không thanh toán cho các công việc đã hoàn thành, (5) có các vấn đề với nhà thầu
phụ.
Long và cộng sự (2008) sử dụng bảng câu hỏi phỏng vấn đến 87 chuyên gia
trong lĩnh vực xây dựng để tìm hiểu về các yếu tố gây chậm tiến độ trong các dự án
xây dựng lớn tại Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố gây ra chậm tiến độ
hàng đầu trong các công trình xây dựng lớn ở Việt Nam như: giám sát & quản lý
công trình kém, các vấn đề về tài chính của cả nhà thầu lẫn chủ đầu tư, thay đổi
thiết kế và không dự đoán chính xác tình trạng mặt bằng thi công.
M.Haseeb và cộng sự (2011) đã thiết lập 150 bảng câu hỏi và khảo sát ngẫu
nhiên đối với các thành phần có liên quan đến các dự án xây dựng tại Pakistan.
Trong đó, 30 bảng được gửi đến nhân viên chính phủ có liên quan đến các dự án
xây dựng, 40 bảng khảo sát các nhà thầu, 30 bảng khảo sát các nhà tư vấn và các kỹ
sư làm trên dự án xây dựng, 30 bảng khảo sát các chủ đầu tư tư nhân & 20 bảng
khảo sát các lao động đang làm trên các dự án xây dựng. Bảng khảo sát tập trung
12
vào các yếu tố gây chậm tiến độ quan trọng và tần số xuất hiện của các yếu tố này
trong các dự án xây dựng. Nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố gây chậm tiến độ
quan trọng như các vấn đề liên quan đến tài chính và chi trả, dự đoán thời gian xây
dựng không chính xác, chất lượng của nguyên vật liệu, trả tiền chậm cho nhà cung
cấp và các nhà thầu phụ, quản lý công trình kém.
Townhid và Admiruddin (2011) đã thực hiện nghiên cứu về các yếu tố gây
chậm tiến độ và các hậu quả quan trọng nhất của chậm tiến độ dự án tại các dự án
xây dựng ở Irania. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định được 10 yếu tố quan trọng
nhất ảnh hưởng đến chậm tiến độ dự án ở Irania trong tổng số 27 yếu tố được tổng
hợp từ các nghiên cứu về các yếu tố chậm tiến độ từ năm 2000 đến thời điểm
nghiên cứu (phụ lục A). Nghiên cứu đã chỉ ra 10 yếu tố quan trọng, trong đó có thể
kể 5 yếu tố quan trọng nhất như: quản lý và giám sát công trình kém, chủ đầu tư trả
tiền chậm, chủ đầu tư thay đổi yêu cầu trong quá trình thi công, nhà thầu lên kế
hoạch thi công không hiệu quả, nhà thầu có vấn đề về tài chính.
Nhìn chung, có rất nhiều nghiên cứu về các yếu tố gây chậm tiến độ dự án trên
rất nhiều quốc gia, các loại dự án xây dựng được nghiên cứu rất rộng bao gồm các
dự án dân cư, văn phòng, chính phủ, trung tâm y tế, dự án lớn quốc gia và nhiều loại
dự án xây dựng khác. Tại Việt Nam đã có nghiên cứu của Long và cộng sự (2008)
về các yếu tố gây chậm tiến độ trong các công trình lớn nhưng chưa có nghiên cứu
nào về các yếu tố gây chậm tiến độ cho các dự án xây dựng nhà ở dân dụng.
1.3 Các giả thuyết và mô hình nghiên cứu
1.3.1 Bối cảnh nghiên cứu
Qua quá trình khảo sát và tìm hiểu thông tin, tác giả nhận thấy có một số điểm
đáng chú ý của bối cảnh nghiên cứu so với các nghiên cứu lý thuyết trước đây.
- Các công trình xây dựng nhà ở riêng lẻ thường là các công trình thấp tầng
(thông thường từ 2-5 tầng).
- Chủ đầu tư thường không tổ chức đầu thầu dự án, mà đa số sẽ tìm hiểu về
nhà thầu hoặc thông qua giới thiệu, tư vấn để chọn nhà thầu, nên việc đấu
13
thầu dự án sẽ không được đưa vào trong câu hỏi khảo sát phục vụ nghiên
cứu. Mặt khác, chủ đầu tư thường là cá nhân, các dự án xây dựng được
thực hiện bởi các chủ đầu tư trong nghiên cứu này là đầu tư xây dựng nhà ở
cá nhân.
- Có một số công trình không thuê tư vấn, giám sát chuyên nghiệp độc lập
mà ủy thác cho nhà thầu, trong đó chủ đầu tư sẽ tự giám sát hoặc nhờ người
nhà thực hiện chức năng giám sát.
- Người chịu trách nhiệm thiết kế cho các dự án nhà ở rất đa dạng, có thể là
cá nhân hành nghề thiết kế độc lập, có thể nhà thầu chịu trách nhiệm về
thiết kế, có thể là tư vấn hỗ trợ vấn đề thiết kế.
1.3.2 Các giả thuyết
Căn cứ vào các nghiên cứu trước đây kết hợp với các tình hình thực tế trong
xây dựng các công trình nhà ở dân dụng trên địa bàn TP.HCM, đề tài đề xuất 6 giả
thuyết nghiên cứu:
1.3.2.1 Các yếu tố xuất phát từ chủ đầu tư gây ra ảnh hưởng chậm tiến độ
Các yếu tố tác động đến chậm tiến độ có nguyên nhân từ chủ đầu tư đã được
xác nhận thông qua rất nhiều nghiên cứu. Long và cộng sự (2008) đã thực hiện
nghiên cứu và chỉ ra rằng có 3 yếu tố trong số 10 yếu tố quan trọng nhất có thể gây
ra chậm tiến độ trong các dự án xây dựng lớn ở Việt Nam là đến từ chủ đầu tư, bao
gồm: chủ đầu tư gặp các vấn đề về tài chính (xếp thứ 3/10), chủ đầu tư yêu cầu thay
đổi thiết kế (xếp thứ 5/10) và chủ đầu tư chi trả chậm trễ cho các công việc đã hoàn
thành (xếp thứ 7/10).
Koushki và cộng sự (2005) khi tiến hành nghiên cứu trên các chủ đầu tư các
công trình nhà ở dân dụng cũng xác nhận có các yếu tố xuất phát từ chủ đầu tư đóng
góp rất lớn vào sự chậm tiến độ của các dự án xây dựng. Theo đó, các nguyên nhân
được đề cập là chủ đầu tư thay đổi yêu cầu thi công, chủ đầu tư có các vấn đề về tài
chính, chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm là 3 yếu tố quan trọng hàng đầu trong các yếu
tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ.
M.Haseeb và cộng sự (2011) trong nghiên cứu các dự án xây dựng tại Pakistan
14
đã xếp hạng các yếu tố gây chậm tiến độ xuất phát từ chủ đầu tư trong 16 yếu tố cần
xem xét của nghiên cứu bao gồm: chủ đầu tư trả tiền chậm, chủ đầu tư yêu cầu thay
đổi bản thiết kế và thay đổi yêu cầu thi công.
Qua đó có thể thấy, các yếu tố xuất phát từ chủ đầu tư gây ra ảnh hưởng đến
chậm tiến độ được xem như nhóm yếu tố có ảnh hưởng khá lớn.
Dựa vào các yếu tố có liên quan đến chủ đầu tư như các vấn đề về tài chính
như chi trả chậm trễ cho các công việc đã hoàn thành, sự chậm trễ trong việc đưa ra
quyết định, sự thay đổi trong thiết kế và thi công, mô hình nghiên cứu phát biểu giả
thuyết như sau:
H1: Các yếu tố xuất phát từ chủ đầu tư có ảnh hưởng đến chậm tiến độ dự án.
1.3.2.2 Các yếu tố xuất phát từ nhà thầu gây ra ảnh hưởng chậm tiến độ
Các nhà thầu thường được xem như là nhân tố chính trong việc xem xét
chậm tiến độ trong các dự án xây dựng. Trong hầu hết các nghiên cứu đã thực hiện
nhằm tìm hiểu về các yếu tố gây nên chậm tiến độ trong dự án xây dựng, các yếu tố
phát sinh từ nhà thầu luôn luôn được xếp hạng khá cao.
Sambasivan & Soon (2007) khi nghiên cứu về các yếu tố gây chậm tiến độ các
dự án xây dựng tại Malaysia đã xác định được 3 yếu tố hàng đầu theo thứ tự gồm:
(1) nhà thầu lên kế hoạch thi công không tốt, (2) nhà thầu quản lý công trình kém,
(3) nhà thầu không có kinh nghiệm tương xứng.
Ramanathan và cộng sự (2012) khi làm nghiên cứu tổng kết về các nghiên cứu
đã từng thực hiện trong lĩnh vực xác định các yếu tố gây nên chậm tiến độ & hậu
quả mà chậm tiến độ gây nên, đã chỉ ra rằng các nghiên cứu ở HongKong của Chan
& Kumaraswany (2002) có các nhóm gây ảnh hưởng đến chậm tiến độ là thuộc về
nhà thầu, thiết kế, lao động, các yếu tố bên ngoài và các yếu tố liên quan đến dự án,
trong đó, yếu tố thuộc về nhà thầu đóng vai trò quan trọng nhất.
Long và cộng sự (2008) cũng xác định yếu tố hàng đầu gây nên chậm tiến độ
cho các công trình xây dựng lớn tại Việt Nam là (1) nhà thầu giám sát & quản lý
công trình kém, (4) nhà thầu gặp vấn đề về tài chính.
Assaf và Al.Hejji (2005) cũng xác nhận các yếu tố từ chủ đầu tư có thể gây ra
15
chậm tiến độ cho toàn dự án, trong đó, yếu tố có thể kể đến như nhà thầu lên kế
hoạch thi công không hiệu quả.
Ngoài ra, khi phỏng vấn trực tiếp một số tư vấn, giám sát & thậm chí các nhà
thầu ở thành phố Hồ Chí Minh, các đơn vị này cũng thừa nhận nhà thầu là một nhân
tố góp phần rất quan trọng trong việc ảnh hưởng đến chậm tiến độ. Vì vậy, mô hình
nghiên cứu phát biểu giả thuyết.
H2: Các yếu tố xuất phát từ nhà thầu có ảnh hưởng đến chậm tiến độ dự án
1.3.2.3 Các yếu tố xuất phát từ tư vấn, giám sát, thiết kế gây ra ảnh hưởng
chậm tiến độ.
Trong thi công xây dựng thì công tác tư vấn giám sát đóng vai trò rất quan
trọng. Một số vai trò của tư vấn giám sát có thể kể đến như nghiệm thu xác nhận các
công việc, hạng mục đã thi công nhằm đảm bảo đúng thiết kế, theo quy chuẩn, tiêu
chuẩn xây dựng và đảm bảo chất lượng. Nhà tư vấn giám sát có trách nhiệm yêu
cầu nhà thầu thực hiện đúng hợp đồng, bản vẽ, biện pháp thi công đã được duyệt.
Ngoài ra, nhà tư vấn giám sát còn có thể từ chối nghiệm thu khi công trình không
đạt yêu cầu, đề xuất với chủ đầu tư những bất hợp lý về thiết kế để kịp thời sửa đổi.
Với vai trò quan trọng của tư vấn, giám sát trong các dự án xây dựng, nên
những nghiên cứu về chậm tiến độ đều có các yếu tố phát sinh từ tư vấn, giám sát.
Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến công tác thiết kế cũng góp phần rất
quan trọng vào chậm tiến độ dự án, điều này đã thể hiện qua một số nghiên cứu như
Long và cộng sự (2008), Acharya và cộng sự (2006, trích từ Ramanathan và cộng
sự ,2012). Thông thường, các vấn đề liên quan đến thiết kế có thể xảy ra khi thời
gian dành cho công việc thiết kế quá ngắn, do các yêu cầu thay đổi từ chủ đầu tư
phải thiết kế lại hoặc do kỹ năng của kiến trúc sư kém.
Assaf và Al Hejii (2005) cũng đã xác định nhà tư vấn có góp phần vào sự
chậm tiến độ dự án, trong đó yếu tố gây chậm tiến độ phát sinh từ nhà tư vấn là nhà
tư vấn quản lý hợp đồng kém.
Ngoài ra, Long và cộng sự (2008) cũng thừa nhận việc công tác quản lý hợp
đồng kém cũng là yếu tố góp phần gây ra chậm tiến độ trong các dự án xây dựng
16
lớn ở Việt Nam bên cạnh việc hỗ trợ quản lý dự án kém đến từ nhà tư vấn và việc
dự đoán không chính xác của nhà tư vấn giám sát.
Thực tế khi tham khảo một số nhà thầu ở TP.HCM cũng cho thấy việc tư vấn
giám sát thiếu kinh nghiệm, chậm trễ trong việc chấp nhận các khối lượng công việc
đã thực hiện cũng như chậm trễ trong việc chấp nhận những thay đổi có khả năng
xảy ra trong thiết kế cũng góp phần gây chậm tiến độ dự án. Qua đó, mô hình
nghiên cứu đề xuất giả thuyết.
H3: Các yếu tố xuất phát từ tư vấn, giám sát, thiết kế có ảnh hưởng đến chậm
tiến độ dự án.
1.3.2.4 Các yếu tố nguyên vật liệu, trang thiết bị gây ra ảnh hưởng chậm
tiến độ
Các yếu tố nguyên vật liệu, trang thiết bị luôn là một thành phần không thể
thiếu trong bất kỳ dự án xây dựng nào. Vì vậy, các vấn đề xảy ra với nguyên vật
liệu và trang thiết bị nếu không được giải quyết trong thời gian hợp lý chắc chắn sẽ
gây ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành cả dự án.
Koushki và cộng sự (2005) trong nghiên cứu của mình về các yếu tố gây chậm
tiến độ tại Kuwait đã xác định được các vấn đề liên quan đến nguyên vật liệu là một
trong 3 yếu tố quan trọng hàng đầu tác động đến chậm tiến độ dự án.
Al Moumani (2000) cũng đã xác nhận các vấn đề liên quan đến nguyên vật
liệu, trong trường hợp này là phân phối nguyên vật liệu trễ, là một trong những yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến chậm tiến độ của các dự án xây dựng tại Jordan.
M.Haseeb và cộng sự (2011) khi xác định các yếu tố gây nên chậm tiến độ
trong các dự án xây dựng của Pakistan cũng cho rằng thiếu nguyên vật liệu và trang
thiết bị là một yếu tố gây chậm tiến độ hàng đầu bên cạnh các yếu tố khác như thảm
họa tự nhiên và các vấn đề về tài chính và các yếu tố khác.
Ngoài ra, khi tham khảo một số tư vấn, giám sát tại HCM, việc thiếu một số
vật liệu không có trên thị trường hiện tại, đòi hỏi phải nhập khẩu từ nước ngoài, nếu
có chậm trễ cũng sẽ tác động đến tiến độ dự án. Vì vậy, mô hình nghiên cứu đề xuất
giả thuyết: