Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.05 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
22

-

T
ạp
chí
luật học



ThS. Nguyễn Phơng Lan *
iều 30 Luật hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ) năm 2000 quy định: "Trong
trờng hợp chia tài sản chung của vợ chồng
thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đ
đợc chia thuộc sở hữu của mỗi ngời; phần
tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu
chung của vợ chồng". Quy định trên tuy có
cụ thể hơn so với Điều 18 Luật HN&GĐ
năm 1986 song vẫn còn tồn tại một số vấn đề
vớng mắc cần có quan điểm thống nhất về
lí luận cũng nh trong thực tiễn xét xử. Đó là
các vấn đề sau:
1. Quan hệ nhân thân
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng
trớc pháp luật, do đó giữa hai bên vẫn tồn


tại mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng nh
nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa
vụ chung thuỷ, quyền chung sống với nhau
tại một nơi, quyền thừa kế tài sản của nhau
khi một bên chết trớc Vì vậy, việc chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân không có
nghĩa là quy định về li thân. Sau khi chia tài
sản chung, vợ chồng có ở riêng hay không là
tuỳ thộc vào thực tế đời sống cụ thể của vợ
chồng, vào ý muốn của vợ chồng, do vợ
chồng quyết định. Nếu sau khi chia tài sản
chung mà vợ chồng có ở riêng thì đó cũng
chỉ là trờng hợp cá biệt, không phổ biến.
Trong đa số các trờng hợp, sau khi chia tài
sản chung, vợ chồng vẫn chung sống bình
thờng với nhau, cùng nhau chăm lo đời
sống chung của gia đình phù hợp với tình
cảm và nguyện vọng của bản thân. Do quan
hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại nên trên cơ sở
tính chất cộng đồng của hôn nhân, khối tài
sản chung của vợ chồng phát sinh sau khi đ
chia tài sản chung về nguyên tắc vẫn là sở
hữu chung hợp nhất, trừ trờng hợp các bên
có thỏa thuận khác.
2. Quan hệ tài sản
Theo quy định tại Điều 29 và 30 Luật
HN&GĐ năm 2000, chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân có thể chia toàn bộ hoặc
chia một phần tài sản chung tuỳ theo sự thoả
thuận của vợ chồng. Nếu vợ chồng không

thoả thuận đợc thì yêu cầu toà án giải
quyết. Đây là điểm khác so với Điều 18 Luật
HN&GĐ năm 1986. Điều 18 Luật HN&GĐ
năm 1986 quy định: "Khi hôn nhân tồn tại,
nếu một bên có yêu cầu và có lí do chính
đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ
chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật
này", tức là chia tài sản nh khi li hôn. Vì
vậy, "sau khi chia tài sản chung theo Điều 18
thì nên hiểu chế độ tài sản chung của vợ
chồng sẽ chấm dứt kể từ thời điểm phán
Đ

* Giảng viên chính Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
Tạp
chí
luật
học

-

23

quyết của tòa án có hiệu lực pháp luật".
(1)
So

với Điều 18 Luật HN&GĐ năm1986 thì quy
định tại Điều 29 và 30 Luật HN&GĐ năm
2000 là hợp lí hơn. Việc chia một phần tài
sản chung có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với
thực tiễn đời sống chung của vợ chồng, bảo
đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của vợ (chồng) đồng thời vẫn bảo đảm đợc
lợi ích chung của gia đình.
Về phía các bên vợ chồng, yêu cầu chia
toàn bộ tài sản chung chỉ đặt ra trong những
hoàn cảnh đặc biệt nh phải thực hiện nghĩa
vụ tài sản quá lớn mà nếu chia một phần tài
sản chung thì không đủ hoặc một bên có yêu
cầu chia khi bên kia có hành vi phá tán tài
sản, nghiện hút, cờ bạc Việc chia một phần
tài sản chung khác với chia toàn bộ tài sản
chung ở chỗ nó không gây ra những ảnh lớn
đến đời sống chung của gia đình, không làm
mất ổn định cuộc sống chung. Ngoài phần tài
sản đợc chia riêng cho mỗi bên vợ, chồng
thì phần tài sản chung còn lại không chia sẽ
bảo đảm đời sống chung của gia đình.
Khi chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân sẽ phát sinh những hậu quả pháp lí về
tài sản nh sau:
2.1. Quyền sở hữu riêng của vợ, chồng
đối với phần tài sản đợc chia
Theo quy định tại Điều 29 và 30 Luật
HN&GĐ năm 2000 thì vợ, chồng có quyền
sở hữu riêng đối với phần tài sản đ đợc

chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài
sản đ đợc chia.
Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
cũng quy định: "Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản đ đợc chia thì thuộc sở hữu riêng
của mỗi ngời, trừ trờng hợp vợ chồng có
thoả thuận khác. Ví dụ: Hai vợ chồng có ba
ngôi nhà là tài sản chung, họ thoả thuận chia
mỗi ngời đợc sở hữu riêng một ngôi nhà,
còn một nhà đợc dùng làm chỗ ở chung của
gia đình. Sau khi chia, vợ hoặc chồng có thể
độc lập quyết định việc dùng ngôi nhà đ
đợc chia đó để cho thuê, bán mà không
phụ thuộc vào ý chí của ngời kia. Tiền thuê
nhà là tài sản riêng của mỗi bên. Đối với
những tài sản này vợ, chồng có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt theo quy định tại
Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000. Vậy trong
trờng hợp này, vợ (chồng) có tài sản riêng
có bị hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng
đó theo quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật
HN&GĐ không? Theo quan điểm của chúng
tôi thì trong trờng hợp này vợ, chồng không
bị ràng buộc bởi quy định tại khoản 5 Điều
33 khi định đoạt tài sản riêng của mình vì vợ,
chồng đ có sự thoả thuận trớc về việc chia
tài sản đó.
2.2. Quyền sở hữu chung của vợ chồng
đối với phần tài sản chung
Điều 30 Luật HN&GĐ quy định: "

phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở
hữu chung của vợ chồng". Điều 8 Nghị định
số 70/2001/NĐ-CP quy định rõ thêm: "Hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài chung còn
lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng".
Đối với phần tài sản chung này, quyền và
nghĩa vụ của vợ, chồng không thay đổi, chế
độ sở hữu chung của vợ chồng cha chấm
dứt, nó vẫn đơng nhiên tồn tại và là sở hữu
chung hợp nhất. Sở hữu chung hợp nhất của
vợ chồng sau khi chia một phần tài sản
chung sẽ bao gồm:
- Phần tài sản chung của vợ chồng cha chia.


nghiên cứu - trao đổi
24

-

Tạp
chí
luật học

- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ những tài
sản này.
- Tài sản mà vợ chồng đợc tặng cho
chung, đợc thừa kế chung sau khi chia tài
sản chung. Vì quan hệ hôn nhân vẫn đang
tồn tại nên tài sản mà vợ chồng đợc tặng

cho chung, đợc thừa kế chung là tài sản
thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có
đợc sau khi chia tài sản chung. Ví dụ: Đất
đợc Nhà nớc giao, giao khoán, đất mà vợ
chồng thuê của Nhà nớc, đợc chuyển
nhợng, đợc thừa kế chung, cho chung
Trong những trờng hợp này, quyền sử dụng
đất vẫn là tài sản chung của vợ chồng vì theo
quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000
thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có đợc
sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
- Quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hoặc
chồng có đợc sau khi chia tài sản chung do
đợc Nhà nớc giao, giao khoán, hoặc đợc
thuê của Nhà nớc Theo quy định tại Điều
27 Luật HN&GĐ năm 2000 và các Điều 24,
25 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì đây là
tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, sau
khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
thì quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hoặc
chồng có đợc chỉ là tài sản chung của vợ
chồng nếu nó không liên quan đến lí do chia
tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ: Sau khi
chia tài sản chung, vợ hoặc chồng thuê đất
hoặc đợc giao đất để đầu t kinh doanh
riêng hoặc nuôi trồng thuỷ sản thì quyền sử
dụng đất đó là tài sản riêng của mỗi ngời.
Ngợc lại, nếu vợ, chồng yêu cầu chia một
phần tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ

riêng về tài sản của mỗi bên nh nghĩa vụ
đền bù thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ mà sau đó
vợ hoặc chồng đợc giao đất, thuê đất thì
quyền sử dụng đất đó là tài sản chung của vợ
chồng. Đây là những trờng hợp đặc biệt cần
đợc quy định cụ thể khi chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Theo
quan điểm của chúng tôi, trong trờng hợp
này cần quy định theo hớng: Quyền sử
dụng đất mà vợ chồng hoặc mỗi bên vợ hoặc
chồng có đợc sau khi chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân vẫn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trờng hợp quyền sử dụng
đất đó có đợc xuất phát từ việc chia tài sản
chung để đầu t kinh doanh riêng.
- Một vấn đề rất quan trọng là tài sản mà
vợ, chồng làm ra sau khi chia tài sản chung
nh tiền lơng, tiền công lao động là tài
sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng
của mỗi bên? Về vấn đề này, Luật HN&GĐ
năm 2000 không có quy định cụ thể nhng
trong Nghị định số 70/2001/NĐ-CP có quy
định tại khoản 2 Điều 8 nh sau: "Thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh
và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi
bên sau khi chia tài sản chung là tài sản
riêng của vợ, chồng, trừ trờng hợp vợ chồng
có thoả thuận khác". Theo quan điểm của
chúng tôi thì quy định này là không hợp lí cả
về lí luận và thực tiễn. Quy định này bộc lộ

một số điểm bất cập và mâu thuẫn sau:
+ Thứ nhất, theo quy định tại Điều 27 thì
tài sản do bất cứ ai, vợ hay chồng tạo ra
trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung
của vợ chồng, không phân biệt mức đóng
góp, mức thu nhập của mỗi bên, không đòi
hỏi phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp
tạo ra. Khi chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân, vì hôn nhân vẫn đang tồn tại và do


nghiên cứu - trao đổi
Tạp
chí
luật
học

-

25

tính chất cộng đồng của hôn nhân chi phối
nên thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất
kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của mỗi bên vợ, chồng về nguyên tắc vẫn là
tài sản chung của vợ chồng, trừ trờng hợp
vợ chồng có thoả thuận khác. Nhng theo
quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP thì cần phải hiểu rằng sau
khi chia tài sản chung, mọi tài sản mà vợ

hoặc chồng tạo ra cũng nh mọi thu nhập từ
lao động của mỗi bên vợ hoặc chồng sẽ
không còn là tài sản thuộc sở hữu chung hợp
nhất nữa bất kể từ nguồn gốc nào. Và nh
vậy đơng nhiên sẽ dẫn đến tình trạng
không còn tồn tại chế độ sở hữu chung hợp
nhất nữa vì sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng cơ bản có đợc từ lao động của mỗi
bên vợ, chồng. Điều này hoàn toàn mâu
thuẫn với quy định tại Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 2000, do đó, cần kịp thời có
sự sửa đổi quy định này.
+ Thứ hai, quy định trên cũng không phù
hợp với ý chí và mong muốn của vợ chồng
bởi vì khi có yêu cầu chia tài sản chung, vợ
hoặc chồng chỉ mong muốn chia tài sản để
có điều kiện thực hiện các nghĩa vụ riêng về
tài sản hoặc đầu t kinh doanh riêng mà
không muốn chấm dứt chế độ sở hữu chung.
Ngay trong trờng hợp chia tài sản chung để
đầu t kinh doanh riêng nhng trong đời
sống vợ chồng nhiều khi các bên vợ chồng
cũng tự nguyện nhập hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh vào tài
sản chung. Vì vậy, nếu không có thoả thuận
khác thì thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh phát sinh từ phần tài sản đ
đợc chia là tài sản riêng của mỗi bên vợ,
chồng. Việc chia tài sản chung để đầu t
kinh doanh riêng một mặt tạo điều kiện cho

đơng sự có vốn cần thiết để sản xuất kinh
doanh nhng lí do khác quan trọng hơn là vì
lợi ích chung của gia đình, xuất phát từ ý chí
của đơng sự là không muốn những rủi ro
trong hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh
hởng đến gia đình, tránh tình trạng khuynh
gia bại sản. Khi chia tài sản chung với mục
đích để đầu t kinh doanh riêng cần phân
biệt hai loại thu nhập phát sinh sau khi chia
tài sản chung là: Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
phần tài sản đ đợc chia do chính hoạt động
sản xuất kinh doanh đó (loại thu nhập này là
tài sản riêng của vợ, chồng nếu không có
thoả thuận khác) và những thu nhập khác của
vợ, chồng không liên quan đến phần tài sản
đ đợc chia nh: Tiền lơng, tiền thởng,
tiền trợ cấp, tiền đền bù giá trị quyền sử dụng
đất khi giải phóng mặt bằng cũng nh
những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
nh tiền trúng xổ số vì hôn nhân vẫn còn
tồn tại nên về nguyên tắc tất cả những tài sản
này vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng chứ không thể là tài sản riêng của mỗi
bên. Vì vậy, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản
chung chỉ là tài sản riêng của vợ chồng nếu
những thu nhập đó có đợc gắn liền với
phần tài sản đợc chia, ngợc lại, những thu
nhập đó là tài sản chung của vợ chồng nếu

nó có đợc không liên quan đến phần tài sản
đ đợc chia. Do vậy, quy định nh khoản 2
Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP là
không chính xác.
+ Thứ ba, sau khi chia tài sản chung, đa


nghiên cứu - trao đổi
26

-

Tạp
chí
luật học

số các cặp vợ chồng vẫn sống chung, chỉ
trong những hoàn cảnh đặc biệt họ mới sống
riêng. Việc chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân không phải là quy định về li thân
nên không đơng nhiên dẫn đến chế độ biệt
sản. Sau khi chia tài sản chung (dù chia một
phần hay chia toàn bộ) vợ chồng vẫn sống
chung nên việc duy trì đời sống chung là
trách nhiệm của cả hai vợ chồng, không phân
biệt mức độ thu nhập của mỗi bên. Nếu một
bên không có thu nhập, không có tài sản thì
bên kia vẫn phải chăm lo đời sống chung của
gia đình. Tuy nhiên, trách nhiệm đóng góp
của vợ chồng vào đời sống chung của gia

đình nh thế nào thì lại cha có quy định,
trong khi đó theo quy định tại khoản 2 Điều
8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì toàn bộ
thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất
kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài
sản riêng của vợ, chồng. Nh vậy, trong
trờng hợp vợ chồng chia hết (chia toàn bộ
tài sản chung) mà sau đó không có tài sản
chung nào khác nh không có tài sản thừa
kế, không đợc tặng cho chung tài sản thì
đời sống chung của gia đình sẽ đợc bảo
đảm nh thế nào? Rõ ràng là về vấn đề này,
quy định trên đ thể hiện sự không đầy đủ,
thiếu chặt chẽ và logic. Trong pháp luật các
nớc, vợ chồng có thể thoả thuận về tài sản
trớc khi kết hôn, có thể phân chia tài sản
chung và bất cứ tài sản nào mà vợ hoặc
chồng có đợc sau khi chia tài sản chung sẽ
là tài sản riêng của ngời đó. Đối với tài sản
mà vợ chồng đợc thừa kế hoặc đợc tặng
cho sau khi chia tài sản chung sẽ trở thành
tài sản riêng chia đều cho cả vợ và chồng.
(2)

Trách nhiệm của vợ, chồng đối với đời sống
chung của gia đình sau khi chia tài sản
chung cũng đợc quy định rõ ràng nh: "
cả hai vợ chồng phải chịu trách nhiệm thanh
toán những chi tiêu của gia đình theo tỉ lệ

tơng ứng với số tài sản riêng của mỗi
ngời.
(3)
Vì vậy, theo chúng tôi, nếu đ quy
định nh khoản 2 Điều 8 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP thì cần phải có quy định cụ
thể về trách nhiệm của vợ chồng đối với đời
sống chung của gia đình sau khi chia tài sản
chung.
Qua những phân tích trên cho thấy quy
định về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân là cha đầy đủ,
cha hợp lí và chính xác. Theo chúng tôi, cần
quy định cụ thể hơn về hậu quả pháp lí của
việc chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân theo hớng sau:
- Cần quy định rõ những tài sản mà vợ
chồng có đợc sau khi chia tài sản chung do
đợc thừa kế chung, tặng cho chung là tài
sản chung của vợ chồng, trừ trờng hợp
ngời để lại tài sản thừa kế, ngời tặng cho
tài sản đ có sự phân định rõ phần quyền của
mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản đó.
- Thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung
là tài sản chung của vợ chồng, trừ trờng hợp
vợ chồng có thoả thuận khác.
- Cần có quy định về việc niêm yết
hoặc công bố công khai về việc chia tài

sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân tại nơi vợ chồng c trú để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của ngời thứ ba
giao dịch với vợ chồng.
2.3. Vấn đề khôi phục chế độ tài sản
chung
Trong Luật HN&GĐ năm 2000 không có
quy định nào về việc khôi phục chế độ tài


nghiên cứu - trao đổi
Tạp
chí
luật
học

-

27

sản chung sau khi chia tài sản chung. Tuy
nhiên, trong Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
tại Điều 9 và 10 lại có quy định về vấn đề
này. Xét về hiệu lực pháp lí, các quy định
của nghị định phải phù hợp với quy định
trong luật vì luật có hiệu lực pháp lí cao hơn,
nghị định chỉ có thể quy định chi tiết việc thi
hành luật mà không thể quy định trái với
luật. Hơn nữa, quy định về việc khôi phục
chế độ tài sản chung của vợ chồng trong nghị

định cũng còn thể hiện một số điểm không
hợp lí. Cụ thể là:
Thứ nhất, việc khôi phục chế độ tài sản
chung chỉ có thể đặt ra khi đ chia hết tài sản
chung nhng không phải trong trờng hợp
chia tài sản chung nào trong thời kì hôn nhân
cũng chia hết tài sản chung nh đ phân tích
ở trên, vì vậy, nếu cha chia hết tài sản
chung thì chế độ tài sản chung vẫn đơng
nhiên tồn tại mà không phụ thuộc vào thoả
thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ
chồng. Ngay trong quy định tại điểm c khoản
1 Điều 9 của Nghị định cũng đ thể hiện rõ
mâu thuẫn này.
- Thứ hai, việc khôi phục chế độ tài sản
chung sẽ là cần thiết, có ý nghĩa và logic nếu
có quy định rằng việc chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân sẽ làm chấm dứt hoàn
toàn chế độ sở hữu chung của vợ chồng, bất
cứ tài sản nào mà vợ chồng có đợc sau khi
chia tài sản chung đều là tài sản riêng của
mỗi bên vợ, chồng, kể cả những tài sản mà
vợ chồng đợc thừa kế chung, đợc tặng cho
chung sẽ đợc chia đều cho mỗi bên và là tài
sản riêng của vợ, chồng. Nói cách khác, việc
khôi phục chế độ tài sản chung sẽ là hợp lí
nếu thừa nhận rằng việc chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân sẽ dẫn đến chế độ biệt
sản. Với các quy định trong Nghị định số
70/2001/NĐ-CP thì có thể dẫn tới cách hiểu

này. Song điều đó rõ ràng không phải là ý
muốn của các nhà lập pháp.
- Thứ ba, việc quy định về khôi phục chế
độ tài sản chung theo chúng tôi là không cần
thiết bởi vì, theo quy định tại khoản 2 Điều
32 Luật HN&GĐ năm 2000 thì "vợ chồng có
quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng
vào khối tài sản chung". Vì pháp luật nớc ta
không quy định vợ chồng có quyền lập hôn
ớc nên khi nhập tài sản riêng vào khối tài
sản chung thì khối tài sản chung đó sẽ tuân
theo chế độ tài sản pháp định, tức là chế độ
sở hữu chung hợp nhất. Việc khôi phục chế
độ tài sản chung thực chất là đem phần tài
sản riêng của mỗi bên vợ, chồng góp vào tài
sản chung và nh vậy chế độ sở hữu chung
của vợ chồng sẽ không còn là sở hữu chung
hợp nhất nữa mà phải là sở hữu chung theo
phần. Điều đó là mâu thuẫn với các quy định
về chế độ sở hữu tài sản của vợ chồng trong
pháp luật nớc ta, làm phức tạp thêm các mối
quan hệ của vợ chồng về tài sản đồng thời
không bảo vệ đợc lợi ích chung của gia
đình một cách có hiệu quả nhất.
Với điều kiện kinh tế hiện nay ở nớc ta,
việc quy định chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân là cần thiết, đáp ứng đợc yêu cầu
của thực tiễn. Song để giải quyết tốt nhất các
tranh chấp có thể xảy ra, bảo đảm hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật thì các quy định

của pháp luật về vấn đề này cần đợc quy
định một cách chặt chẽ, thống nhất và hợp
lí hơn./.

(1). Xem: Nguyễn Văn Cừ, Một số suy nghĩ về Điều
18 Luật HN&GĐ Việt Nam 1986, Tạp chí luật học,
số 1/1995, tr. 24.
(2), (3). Xem: Điều 1492, 1493 Bộ luật dân sự và
thơng mại Thái Lan.

×