Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại công ty TNHH đầu tư và phát triển tân thành phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.35 KB, 66 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
*******

ĐỀ TÀI
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN LƯUĐỘNG TẠI CÔNG TYTNHH
ĐẦU TƯVÀ PHÁT TRIỂNTÂN HỢP THÀNH

GVHD:

TS. Phan Hồng Mai

Sinh viên: Phạm Thị Hương
MSV:

131 22 363

Lớp:

TCDNK13B.01

Hà nội, 31 tháng 08 năm 2014


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân


GVHD: TS. Phan Hồng Mai

MỤC LỤC


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Bảng 1 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Bảng 2 Cơ cấu tài sản và nguồn vốn
Bảng 3 Cơ cấu tăng trưởng nguồn vốn
Bảng 4 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Bảng 5 Khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Bảng 6 Tình hình quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp
Bảng 7 Phân tích các khoản phải thu
Bảng 8 Tốc độ luân chuyển phải thu khách hàng
Bảng 9 Tình hình quản lý hàng tồn kho
Bảng 10 Tốc độ luân chuyển HTK
Bảng 11 Cơ cấu TSLĐ
Bảng 12 Tốc độ luân chuyển TSLĐ
Bảng 13 Hệ số đảm nhiệmTSLĐ
Bảng 14 Hệ số sinh lời TSLĐ
Bảng 15 Báo cáo kế hoạch vốn bằng tiền


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai


LỜI NÓI ĐẦU
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động (TSLĐ) là mục tiêu phấn đấu
lâu dài của mỗi doanh nghiệp, nó gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp đó. Để đưa ra những giải pháp hữu hiệu, nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả sử dụng TSLĐ, bản thân doanh nghiệp phải biết kết hợp giữa lý luận với
điều kiện thực tế của công ty mình, cũng như điều kiện kinh tế xã hội và các qui
định của nhà nước trong việc quản lý và sử dụng TSLĐ.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, ở nước ta hiện nay, vấn đề quản lý và
sử dụng TSLĐ đang được đặc biệt quan tâm. Trong tình hình mới,cùng với việc
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế là quá trình cắt giảm nguồn vốn ngân sách cấp,
mở rộng quyền tự chủ và chuyển giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử
dụng đã tạo ra một tình hình mới đầy phức tạp và biến động trong quá trình vận
động vốn nói chung. Một số doanh nghiệp đã có phương thức, phương pháp, biện
pháp huy động và sử dụng vốn kinh doanh một cách năng động và có hiệu quả,
phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi của cơ chế quản lý kinh tế mới. Bên cạnh đó
đã có không ít những doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, các doanh
nghiệp này chẳng những không huy động, phát triển tăng thêm nguồn vốn mà còn
trong tình trạng mất dần vốn. Do công tác quản lý sử dụng vốn thiếu chặt chẽ,
kém hiệu quả, vi phạm các qui định trong thanh toán.
Trong bối cảnh chung đó, Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Tân Hợp
Thành đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hướng khai thác, huy động vốn vào
phát triển kinh doanh và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết như tích luỹ
hơn nữa để tăng nguồn vốn sở hữu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh
doanh, hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là vấn đề quản lý và sử dụng hiệu quả tài
sản lưu động. Là một doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực, tài sản lưu
động của công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Tân Hợp Thành bắt buộc doanh
nghiệp phải có phương thức quản lý và sử dụng tài sản lưu động một cách hết sức
khoa học, hợp lý nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất .


SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

4


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Do tầm quan trọng của vấn đề và qua thực tế nghiên cứu, tìm hiểu trong
thời gian thực tập tại Công ty. Đặc biệt là được sự giúp đỡ tận tình của TS.Phan
Hồng Mai và các cô, chú ,anh chị trong phòng Kế toán – Tài chính Em đã mạnh
dạn chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là: “NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
TÂN HỢP THÀNH”
Song do thời gian có hạn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cô,
chú ,anh,chị trong phòng Kế toán –Tài chính để bài viết của em được tốt hơn. Qua
đây em cũng tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Cô giáo – TS.Phan
Hồng Mai cùng các cô, chú ,anh chị trong phòng Kế toán –Tài chính. Em xin chân
thành cảm ơn!
Nội dung chính của chuyên đề gồm:
Chương 1: Lý luận chung về tài sản lưu động và hiệu quả tài sản lưu động
Chương 2: Thực trạng sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động Công
ty TNHH Đầu tư và Phát triển Tân Hợp Thành
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại Công
ty TNHH Đầu tư và Phát triển Tân Hợp Thành

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01


5


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG
1.1 Những vấn đề chung về tài sản lưu động
1.1.1 Khái niệm
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có 3
yếu tố là: đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất
kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá lao vụ,
dịch vụ. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động( nhiên nguyên, nhiên, vật
liệu, bán thành phẩm...)chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh và luôn
thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần
vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Biểu hiện
dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động gọi là tài sản lưu động( TSLĐ ).
Trong các doanh nghiệp, TSLĐ gồm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông.TSLĐ sản
xuất gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục, vật
tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những tư liệu lao động không đủ
tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm: Nguyên vật liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang, công cụ lao động
nhỏ. TSLĐ lưu thông gồm: sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn
trong thanh toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông.
Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản lưu động
sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không

ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Để hình thành nên tài
sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông doanh nghiệp cần phải có một
số vốn tương ứng để đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản
ấy được gọi là tài sản lưu động( TSLĐ )của doanh nghiệp.
SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

6


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển
trong quá trình kinh doanh.Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp ,tài sản
lưu động được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt ,các chứng khoán thanh khoản
cao,phải thu và dự trữ tồn kho.Gía trị các loại TSLĐ của doanh nghiệp kinh
doanh ,sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của
chúng.Quản lý sử dụng hợp lý các loại TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối với
việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
1.1.2


Phân loại tài sản lưu động
Tiền
Tất cả tiền mặt tại quỹ ,tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang
chuyển .Lưu ý rằng ,ở đây tiền (hay vốn bằng tiền )không phải chỉ là tiền mặt
.Nhiều người nhầm lẫn khái niệm Cash trong tiếng Anh và cho nó đồng nghĩa với
khái niệm tiền mặt trong tiếng Việt.Theo ngôn ngữ tiếng Việt Nam ,”tiền mặt “
không bao gồm tiền gửi ngân hàng.Khi các doanh nghiệp thanh toán bằng séc hoặc

chuyển khoản thì được gọi là “thanh toán không dùng tiền mặt “.Trong lĩnh vực tài
chính- kế toán ,tài sản bằng tiền “Cash “của một công ty hay doanh nghiệp bao
gồm:







Tiền mặt(Cash on hand)
Tiền gửi ngân hàng(Bank accounts)
Tiền dưới dạng séc các loại (Cheques)
Tiền trong thanh toán(Floating money,Advanced payment)
Tiền trong thẻ tín dụng và các loại tài khoản thẻ ATM

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

7


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân


GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Vàng,bạc ,đá quý và kim khí quý
Đây là nhóm tài sản đặc biệt ,chủ yếu dùng vào mục đích dự trữ.Tuy
vậy,trong một số nghành như ngân hàng ,tài chính ,bảo hiểm ,trị giá kim cương ,đá
qúy ,vàng bạc ,kim khí quý vv..có thể rất lớn

Các tài sản tương đương với tiền(cash equivalents) Nhóm này gồm các tài
sản tài chính có khả năng chuyển đổi cao ,tức là dễ bán ,dễ chuyển đổi thành tiền
khi cần thiết.Tuy nhiên, không phải tất cả các loại chứng khoán đều thuộc nhóm
này .Chỉ có các chứng khoán ngắn hạn dễ bán mới được coi là TSLĐ thuộc nhóm
này.Ngoài ra,các giấy tờ thương mại ngắn hạn ,được bảo đảm có độ an toàn cao thì
cũng thuộc nhóm này.Ví dụ:hối phiếu ngân hàng,kỳ phiếu thương mại,bộ chứng từ



hoàn chỉnh…
Chi phí trả trước(Prepaid expenses)
Chi phí trả trước bao gồm các khoản tiền mà công ty đã trả trước cho người
bán ,nhà cung cấp hoặc các đối tượng khác .Một số khoản trả trước có thể có mức
độ rủi ro cao vì phụ thuộc vào một số yếu tố khó dự đoán trước



Các khoản phải thu(Accounts receivable)
Các khoản phải thu là một tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp ,đặc biệt
là các công ty kinh doanh thương mại ,mua bán hàng hoá.Hoạt động mua bán chịu
giữa các bên ,phát sinh các khoản tín dụng thương mại.Thực ra ,các khoản phải thu
gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ mua bán ,quan hệ
hợp đồng



Tiền đặt cọc
Trong nhiều trường hơp ,các bên liên quan đến hợp đồng phải đặt cọc một số
tiền nhất định .Phần lớn các điều khoản về tiền đặt cọc quy định theo 2 cách:


SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

8


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

-Số tiền đặt cọc tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng hoặc giá trị tài sản
được mua bán
-Số tiền đặt cọc được ấn định bằng một số tiên cụ thể,hoặc một giá trị tối
thiểu cho hợp
Tiền đặt cọc là một tài sản không chắc chắn ,độ tin cậy có thể giao động
lớn,từ 90% đến 30% hay 40%.Do tính chất là một tài sản bảo đảm như vậy nên
mặc dù tiền đặt cọc thuộc TSLĐ nhưng nó không được các ngân hàng tính đến khi
xác định khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp


Hàng hoá vật tư(Inventory)
Hàng hoá vật tư được theo dõi trong một tài khoản gọi là hàng tồn
kho.”Hàng tồn kho” trong khái niệm này không có nghĩa là hàng hoá bị ứ
đọng,không bán được ,mà thực chất bao hàm toàn bộ các hàng hoá vật liệu,nguyên
liệu đang tồn tại ở các kho, quầy hàng hoặc trong xưởng.Nó gồm nhiều chủng loại
khác nhau như:NVL chính, NVL phụ ,vật liệu bổ trợ ,nhiên liệu và các loại dầu
mở, thành phẩm…



Các chi phí chờ phân bổ

Trong thực tế ,một khối lượng NVL và một số khoản chi phí đã phát sinh
nhưng có thể chưa được phân bổ vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ.Những khoản
này sẽ được đưa vào giá thành trong khoảng thời gian thích hợp.

1.1.3

Kết cấu tài sản lưu động
Bên cạnh việc nghiên cứu các cách phân loại TSLĐ theo những tiêu thức
khác nhau, doanh nghiệp còn phải đánh giá, nắm bắt được kết cấu TSLĐ ở từng
cách phân loại đó. Kết cấu TSLĐ phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ
giữa thành phần trong tổng số TSLĐ của doanh nghiệp. ở các doanh nghiệp
SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

9


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

khác nhau thì kết cấu TSLĐ cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu
TSLĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh
nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về TSLĐ mà mình đang quản lý, sử dụng
từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý TSLĐ có hiệu quả hơn
phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua việc đánh giá,
tìm hiểu sự thay đổi kết cấu TSLĐ trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy được
những biến đổi tích cực cũng như những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý
TSLĐ của từng doanh nghiệp.
Kết cấu TSLĐ của doanh nghiệp luôn thay đổi và chịu tác động của nhiều
yếu tố khác nhau. Có thể phân ra thành ba nhóm chính sau:

- Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như: khoảng cách giữa doanh nghiệp
với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối
lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật
tư cung cấp, giá cả của vật tư...
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất
của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản
xuất; trình độ tổ chức quá trình sản xuất...
- Các nhân tố về mặt thanh toán như phương thức thanh toán được lựa chọn
theo các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hanh kỷ luật thanh toán
giữa các doanh nghiệp.
1.1.4

Nguồn hình thành tài sản lưu động của doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, TSLĐ được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau,
do đó mỗi một loại nguồn vốn sẽ có tính chất, đặc điểm, chi phí sử dụng khác
nhau. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải cân nhắc lựa chọn cho mình một cơ
cấu nguồn vốn tối ưu vừa giảm được chi phí sử dụng vốn, vừa đảm bảo sự an toàn
SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

10


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Căn cứ vào các tiêu thức phân loại khác
nhau thì TSLĐ của doanh nghiệp được hình thành từ các loại nguồn vốn như :



TSLĐ hình thành theo quan hệ sở hữu về vốn
Vốn chủ sở hữu: Là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Tuỳ từng
loại hình doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước, vốn do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra, vốn góp cổ phần, vốn
góp liên doanh, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại.Vốn chủ sở hữu thể hiện khả
năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn
càng lớn thì sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao.
Các khoản nợ: Là các khoản TSLĐ được hình thành từ các khoản vay của
các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính, vốn vay qua phát hành trái
phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán...



TSLĐ hình thành căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: Nguồn vốn
của doanh nghiệp chia thành hai loại :
Nguồn vốn thường xuyên: Là nguồn vốn mang tính chất ổn định và dài hạn,
bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn để tài trợ cho nhu cầu TSLĐ
thường xuyên cần thiết của doanh nghiệp
Nguồn vốn thường xuyên = Tổng nguồn vốn - Nợ ngắn hạn
Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn, gồm các khoản
vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản nợ ngắn hạn,
được dùng để đáp ứng nhu cầu TSLĐ có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh
trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn vốn tạm thời = Vốn vay ngắn hạn + Vốn chiếm dụng hợp pháp

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

11



Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân


GVHD: TS. Phan Hồng Mai

TSLĐ hình thành theo phạm vi huy động vốn: TSLĐ được hình thành từ hai
nguồn
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được từ
bản thân doanh nghiệp. Bao gồm: vốn từ lợi nhuận để lại trong quá trình kinh
doanh, các quĩ của doanh nghiệp, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản...
Sử dụng triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp tức là doanh nghiệp đã phát
huy được tính chủ động trong quản lý và sử dụng TSLĐ của mình.
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn doanh nghiệp có thể huy
động từ bên ngoài, gồm: vốn của bên liên doanh, vốn vay các ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp,
nợ khách hàng và các khoản nợ khác.., qua việc vay vốn từ bên ngoài tạo cho
doanh nghiệp có một cơ cấu tài chính linh hoạt, mặt khác có thể làm gia tăng
doanh lợi vốn chủ sở hữu nhanh nếu mức doanh lợi tổng vốn đạt được cao hơn chi
phí sử dụng vốn .

1.2
1.2.1

Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Quan niệm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Hiện nay có rất nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
trong doanh nghiệp. Trong khuôn khổ chuyên đề này chúng ta đứng trên quan điểm
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tức là làm sao để chỉ phải bỏ ra một
lượng tài sản nhỏ nhất mà thu về được lợi nhuận lớn nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì vấn

đề sống còn doanh nghiệp cần quan tâm là tính hiệu quả. Chỉ khi hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp mới có thể tự trang trải chi phí đã bỏ ra,
làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và quan trọng hơn là duy trì và phát triển
quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là kết
quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận.
SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

12


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Trong đó, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp
cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp
phải luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động có vai trò quan trọng trong việc đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, bởi khác với tài sản cố định, tài sản lưu
động cần các biện pháp linh hoạt, kịp thời phù hợp với từng thời điểm thì mới đem
lại hiệu quả cao. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là một trong những căn cứ
đánh giá năng lực sản xuất, chính sách dự trữ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
và nó cũng có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp.
Có thể nói rằng mục tiêu lâu dài của mỗi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi
nhuận. Việc quản lý sử dụng tốt tài sản lưu động sẽ góp phần giúp doanh nghiệp
thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Bởi vì quản lý tài sản lưu động không những
đảm bảo sử dụng tài sản lưu động hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa đối với việc
hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán hàng, từ
đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tóm lại, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp có thể hiểu là

một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác và quản lý tài sản lưu động của
doanh nghiệp, đảm bảo lợi nhuận tối đa với số lượng tài sản lưu động sử dụng với
chi phí thấp nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là yêu cầu tất yếu
khách quan của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù hầu hết các
vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ đơn
thuần do quản trị tài sản lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng sự bất lực của
một số doanh nghiệp trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại
tài sản lưu động hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ.

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

13


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

1.2.2

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh
nghiệp
Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một
lượng tài sản nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có tài sản sẽ không có
bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng tài sản như thế nào
cho có hiệu quả cao mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của
doanh nghiệp.Với ý nghĩa đó, việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng
tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng là một nội dung rất quan trọng của công tác
quản lý tài chính doanh nghiệp.
Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng TSLĐ phải được hiểu trên hai

khía cạnh:
+ Một là, với số tài sản hiện có có thể sản xuất thêm một số lượng sản phẩm
với chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
+ Hai là, đầu tư thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản
xuất để tăng doanh thu tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn
hơn tốc độ tăng tài sản.
Hai khía cạnh này chính là mục tiêu cần đạt được trong công tác tổ chức
quản lý và sử dụng tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng .
Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn trong thời kỳ bao cấp, mọi nhu cầu
vốn,tài sản cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được Nhà nước cấp phát
hoặc cấp tín dụng ưu đãi nên các doanh nghiệp không đặt vấn đề khai thác và sử
dụng tài sản có hiệu quả lên hàng đầu. Kể cả hiện nay, khi mà nền kinh tế nước ta
đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã phải tự tìm nguồn
vốn để hoạt động thì hiệu quả sử dụng vốn,tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng
SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

14


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

vẫn ở mức thấp. Đó là do các doanh nghiệp chưa bắt kịp với cơ chế thị trường nên
còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng tài sản.
Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý,
hiệu quả từng đồng TSLĐ nhằm làm cho TSLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản
xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển TSLĐ cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển
của vốn, qua đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt được số TSLĐ cần
thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn

trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn có ý nghĩa quan trong trong việc
giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm.
Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu
được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng
đặt ra tối thiểu cho các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn TSLĐ. Do đặc điểm
TSLĐ lưu chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái TSLĐ
thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn TSLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo
toàn TSLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một lượng vật
tư, hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể hiện ở khả
năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy
trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cường quản lý và
nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có được trình độ
sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật được cải tiến. Việc áp dụng
kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng
suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm
trên thị trường. Đặc biệt khi khai thác được các tài sản, sử dụng tốt tài sản lưu
động, nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả TSLĐ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như việc giảm chi phí về lãi vay.

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

15


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác
quản lý và sử dụng tài sản lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong

những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là
sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
1.2.3

Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Doanh thu thuần
Vòng quay tài sản lưu động trong kỳ
TSLĐ bq trong kỳ
=

1.2.3.1

Vòng quay tài sản lưu động
Việc sử dụng tài sản lưu động đạt hiệu quả có cao hay không biểu hiện trước
hết ở tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Tài sản lưu động
luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
càng cao và ngược lại.
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lời tài sản lưu động

TSLĐ bq trong kỳ
=

Chỉ tiêu vòng quay tài sản lưu động phản ánh trong một năm tài sản lưu
động của doanh nghiệp luân chuyển được bao nhiêu vòng hay một đồng tài sản lưu
động bình quân trong năm tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
1.2.3.2

Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động


SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

16


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản lưu động có thể tạo ra được bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Mức doanh lợi tài sản lưu động
càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao.
1.2.3.3

Một số chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu trên, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động còn được đánh giá
qua một số chỉ tiêu sau :
Tiền và tương đương tiền + Các khoản Phải thu

TSLĐ Hệ số thanh toán ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
=


Hệ số thanh toán ngắn hạn:
Tiềnvà tương đương tiền + Các khoản Phải thu
Hệ số thanh toán hiện hành
Nợ ngắn hạn
=


Hệ số này cho biết khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp trong ngắn
hạn,nghĩa là khả năng đáp ứng các nhu cầu thanh toán dưới một năm của các
khoản mục tài sản lưu động của doanh nghiệp .


Hệ số thanh toán nhanh:
Tiềnvà tương đương tiền
Hệ số thanh toán tức thời
Nợ ngắn hạn
SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

17


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

=

Hệ số này cho biết khả năng thanh toán của tiền và các khoản phải thu nghĩa
là các tài sản có thể chuyển nhanh thành tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp .


Hệ số thanh toán tức thời
Giá vốn

Vòng quay HTK
Giá trị HTK bình quân

=

Hệ số này cho biết khả năng đáp ứng ngay các nhu cầu thanh toán đến hạn
của doanh nghiệp .

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

18


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân


GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Vòng quay hàng tồn kho
Chỉ tiêu này phản ánh số lần hàng hoá tồn kho bình quân lưu chuyển trong
kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
càng có hiệu quả.
Vòng quay các khoản phải thu
Doanh thu thuần

Các khoản phải thu bình quân

=


Vòng quay các khoản phải thu:
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải
thu thành tiền mặt. Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu

hồi là tốt vì doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn (ít phải cấp tín dụng cho khách
hàng và nếu có cấp tín dụng cho khách hàng thì chất lượng tín dụng cao)
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân
Doanh thu bình quân 1 ngày
=



Kỳ thu tiền bình quân
Nó cho biết bình quân trong bao nhiêu ngày, doanh nghiệp có thể thu hồi các
khoản phải thu của mình. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền
trung bình càng nhỏ và ngược lại. Kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều
trường hợp chưa thể có kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

19


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

chính sách của doanh nghiệp như mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín
dụng....
Các chỉ tiêu trên đây tuy không phản ánh trực tiếp hiệu quả sử dụng tài sản
lưu động nhưng nó cũng là những công cụ mà người quản lý tài chính cần xem xét
để điều chỉnh việc sử dụng tài sản lưu động sao cho đạt hiệu quả cao nhất.


SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

20


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân
1.2.4
1.2.4.1

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Một số phương pháp quản lý tài sản lưu động trong doanh nghiệp
Quản lý tiền mặt
Doanh nghiệp tự chủ trong việc quyết định lượng tiền mặt dự trữ. Để quản







lý vốn bằng tiền, DN cần thực hiện những mục tiêu sau:
Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt
Giảm tốc độ chi tiêu tiền mặt
Dự báo và xác định nhu cầu vốn bằng tiền
Đầu tư thích hợp cho những khoản tiền nhàn rỗi
Lập ra kế hoạch vốn bằng tiền: Nội dung cốt lõi của kế hoạch vốn bằng tiền là lập

-


ra bảng dự toán thu chi ngắn hạn. Bảng này bao gồm 2 phần:
Phần thu: gồm tiền bán hàng,,vốn tăng thêm, nhượng bán tài sản..
Phần chi: Bao gồm các khoản chi cho kinh doanh như:mua nguyên vật liệu, chi
trả lương, thưởng, nộp thuế mua TSCĐ, trả nợ vay..
Trong

kỳ kế hoạch sau khi liệt kê các khoản thu chi, cần tiến hành so sánh

xác định mức bội thu, bội chi để có biện pháp nhằm tiến tới cân bằng tích cực.
-

Nếu DN bị bội thu thì thực hiện trả bớt nợ vay cho ngân hàng, nợ khách hàng, nộp

-

ngân sách, đầu tư vào hoạt động kinh doanh.
Nếu DN bị bội chi thì phải tìm biện pháp tăng tốc độ thu hồi nợ, đẩy mạnh giá trị


-

sản lượng nghiêm thu hoàn thành, vay ngân hàng, giảm bớt chi tiêu..
Xây dựng mô hình quản lý vốn bằng tiền: Có 2 mô hình
Mô hình EOQ: Được xây dựng dựa trên các giả định:
+ Tình hình thu chi tiền mặt ổn định và đều đặn
+ Không tính đến tiền thu trong kỳ hoạch định
+ Không có dự trữ cho mục đích an toàn

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01


21


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Theo mô hình này lượng tiền dự trữ tối ưu được xác định như sau:
2*S * F /i

Q* =
Trong đó:

S: là tổng lượng tiền cần thiết trong kỳ

i : là lãi suất tiền gửi
F: chi phí cố định cho một lần vay
-

Mô hình Miller: Theo mô hình này DN cần xác định khoảng cách giới hận trên
và dưới cho quá trình vận động vốn bằng tiền theo công thức sau:
3

D= 3*
δ

3 / 4 * (∂ 2 * F / i )

:Phương sai thu chi ngân quỹ mỗi ngày


i : lãi suất bình quân mỗi ngày
Sau khi xác định khoảng cách giới hạn trên và giới hạn dưới cho quá trình
vận động vốn bằng tiền căn cứ vào nhu cầu sử dụng tiền mặt doanh nghiệp xác
định giới hạn dưới cho quá trình sự trữ tiền. Mức dự trữ tối ưu của doanh nghiệp sẽ
được xác định như sau:
Q*= Gđ + d/3
1.2.4.2

Quản lý dự trữ
Dự trữ, tồn kho là một bộ phận quan trọng của tài sản lưu động, là những
bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp.Trong quá trình sản
xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng
đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực
tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh
doanh tiến hành được bình thường. Quản lý vật liệu dự trữ hiệu quả sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Do vậy, doanh nghiệp tính toán dự trữ
SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

22


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

một lượng hợp lý vật liệu, nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn
nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng
loạt các hậu quả như mất thị trường, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp…
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên vật liệu nằm ở các công đoạn
của dây chuyền sản xuất. Nếu dây chuyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công

đoạn sản xuất thì tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn. Đây là những bước
đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục.
Khi tiến hành sản xuất xong, do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và tiêu thụ,
do những chính sách thị trường của doanh nghiệp…đã hình thành nên bộ phận
thành phẩm tồn kho.
Hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm 3 bộ phận như trên nhưng
thông thường trong quản lý chúng ta tập trung vào bộ phận thức nhất, tức là
nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh.
Có nhiều phương pháp được đưa ra nhằm xác định mức dự trữ tối ưu.
-

Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất -

-

EOQ (Economic odering Quan tity).
Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau.
Theo mô hình này, mức dự trữ tối ưu là:

Q* =

2 xDxC2
C1

Trong đó: Q*: Mức dự trữ tối ưu
D: Toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng
C2: Chi phí mỗi lần đặt hàng
C1: Chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá
+


SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

23


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Thời điểm đặt hàng mới
Số lượng nguyên liệu sử dụng mỗi ngày
Độ dài thời gian giao hàng
=
X

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

24


Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân

GVHD: TS. Phan Hồng Mai

Điểm đặt hàng mới:Về mặt lý thuyết ta giả định khi nào lượng hàng kỳ trước
hết mới nhập kho lượng hàng mới nhưng trên thực tế hầu như không bao giờ như
vậy
Nhưng nếu mặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho. Do
vậy các doanh nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt hàng mới.
+ Lượng dự trữ an toàn

Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng biến
động không ngừng. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất, doanh nghiệp
cần phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn tuỳ
thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng
hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
Ngoài phương pháp quản lý dự trữ theo mô hình đặt hàng hiệu quả nhất
(EOQ) nhiều doanh nghiệp còn sử dụng phương pháp sau đây:
-

Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng
Theo phương pháp này các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có liên
quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ, khi có một đơn đặt
hàng nào đó họ sẽ tiến hành huy động những loại hàng hoá và sản phẩm dở dang
của các đơn vị khác mà họ không cần phải dự trữ.
Sử dụng phương pháp này tạo ra sự ràng buộc các doanh nghiệp với nhau,
khiến các doanh nghiệp đôi khi mất sự chủ động trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.

1.2.4.3

Quản lý các khoản phải thu

SV: Phạm Thị Hương - Lớp TCDN K13B01

25


×