i
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn “Quản lý nhà nước về phát triển làng
nghề truyền thống trên địa bàn huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội” là công
trình nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Hoàng Văn Thành.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này hoàn toàn trung thực
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình
Học viên
Nguyễn Thị Kim Ngân
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện Luận văn Thạc sỹ tại trường
Đại học Thương Mại, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của Khóa sau
đại học Trường Đại học Thương mại; phòng kinh tế huyện Thạch Thất,
UBND huyện Thạch Thất, quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã
tạo điều kiện về thời gian, kinh phí, hướng dẫn nội dung, cung câp tài liệu và
thông tin cần thiết.
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn sau sắc đến tập thể cán bộ, giảng
viên Trường Đại học Thương Mại đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập chương trình Thạc sỹ khóa 20A – chuyên ngành Quản lý kinh tế
tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Văn Thành, Trưởng phòng
Khảo thí và Kiểm định chất lượng đã tận tình hướng dẫn và có những đóng
góp quý báu để tôi hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới người thân, bạn bè đồng nghiệp đã cổ vũ
tinh thần và giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Nguyễn Thị Kim Ngân
iii
MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................................1
iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số lượng nghề và làng nghề.....................................................................36
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp các doanh nghiệp trong làng nghề..........................................................37
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp lao động và thu nhập bình quân..............................................................38
Biểu 2.4 Tổng hợp các khu, Cụm công nghiệp.................................................................................46
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QLNN
Quản lý Nhà nước
DLTC
Dữ liệu thứ cấp
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
KT – XH
Kinh tế xã hội
LNTT
Làng nghề truyền thống
HTX
Hợp tác xã
UBND
Ủy ban nhân dân
GPMB
Giải phóng mặt bằng
NN & PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
TMDV
Thương mại dịch vụ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển công nghiệp nông thôn là một nhiệm vụ trọng tâm trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn ở
Việt Nam. Có hai phương thức cơ bản để thực hiện chủ trương này: một là
xây dựng các cụm công nghiệp hoặc cụm công nghiệp - TTCN; hai là phát
triển các làng nghề và ngành nghề ở nông thôn. Phát triển các làng nghề và
ngành nghề nông thôn nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, góp
phần xoá đói giảm nghèo, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn và cũng là thực hiện mục tiêu “ly nông bất ly hương” .
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Thạch Thất lần
thứ XXII, nhiệm kỳ 2010-2015 là khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế
huy động mọi nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, duy trì tốc độ
phát triển kinh tế cao, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp – TTCN, xây dựng nông thôn mới đồng bộ về kết cấu kinh tế - xã hội,
quan tâm bảo vệ và cải thiện môi trường, phấn đấu đến năm 2020 huyện
Thạch Thất trở thành huyện công nghiệp, đô thị.
Trong những năm qua các làng nghề truyền thống tiếp tục giữ vững và
ngày càng phát triển, nhiều làng nghề phát triển mạnh như: Làng nghề nghề
Cơ kim khí Phùng Xá, Mộc Chàng Sơn, Mộc may Hữu Bằng, Mộc xây dựng
Canh Nậu, Mộc làm nhà cổ truyền Hương Ngải……
Tuy nhiên, các làng nghề phát triển còn thiếu tính bền vững, quy mô sản
xuất còn nhỏ lẻ, công nghệ, thiết bị sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm
chưa cao, hầu hết sản phẩm chưa có thương hiệu, một số nghề truyền thống bị
mai một, sản xuất còn chạy theo thị hiếu thị trường và chạy theo lợi nhuận ít
chú ý đến thương hiệu sản phẩm. Đội ngũ nghệ nhân thợ giỏi truyền thống
2
đang dần mai một, môi trường ở các làng nghề bị ô nhiễm, cơ sở hạ tầng và
dịch vụ phục vụ sản xuất ở các làng nghề chưa đồng bộ.
Mặt khác, cùng với sự tăng trưởng kinh tế là quá trình đô thị hóa diễn ra
với tốc độ ngày càng nhanh, hiện tượng người lao động từ các làng quê dịch
chuyển ra các thành phố lớn là rất lớn. Vì vậy, việc phát triển các nghề và
làng nghề nông thôn cũng như các làng nghề mới có ý nghĩa quan trọng
không chỉ về mặt kinh tế mà còn góp phần ổn định chính trị xã hội.
Với lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về phát
triển làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Thạch Thất, Thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sĩ nhằm góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác QLNN về phát triển làng nghề truyền thống đã có nhiều công
trình nghiên cứu trên các góc độ khác nhau trong phạm vi cả nước. Trong đó
phải kể tới các công trình tiêu biểu như:
- Tác giả Trần Thị Minh Nguyệt (2008) nghiên cứu đề tài “ Quản lý nhà
nước với phát triển nghề và làng nghề Hà Tây giai đoạn hiện nay”, Luận văn
thạc sỹ, Trường Đại học Thương Mại. Tác giả đã nghiên cứu các lý thuyết tổng
quan về nghề truyền thống, làng nghề, vai trò của làng nghề với kinh tế, văn hoá,
xã hội và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Thông qua các phương pháp thu thập
dữ liệu từ các báo cáo khoa học, Internet, tạp chí kết hợp với khảo sát thực tế,
luận văn đã chỉ ra được những mặt thành công và hạn chế trong việc phát triển
nghề và làng nghề Hà Tây trong giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra cần
giải quyết trong thời gian tới.
- Đỗ Hoàng Toàn (chủ biên), Giáo trình Quản lý Nhà nước về kinh tế
(tái bản, trường Đại học Kinh tế quốc dân. Đây là giáo trình nghiên cứu về
các vấn đề QLNN về kinh tế nói chung trong đó có đề cập đến các phương
pháp, công cụ của QLNN, bộ máy tổ chức QLNN và cán bộ QLNN.
3
Tác giả Phan Văn Tú (2011) nghiên cứu về: “Các giải pháp để phát
triển làng nghề ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”, Luận văn thạc sỹ kinh
tế, Đại Học Đà Nẵng. Tác giả tập trung nghiên cứu các lý thuyết về làng
nghề, phân loại và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề cũng như
kinh nghiệm phát triển làng nghề ở một số địa phương trên cả nước, từ đó
nghiên cứu thực trạng phát triển các làng nghề ở thành phố Hội An và đề xuất
các giải pháp để phát triển các làng nghề này. Các phương pháp được sử dụng
trong luận văn là thu thập thực tế tại làng nghề, thống kê, tổng hợp kết hợp
với chi tiết hóa, đối chiếu và so sánh để đưa ra kết luận. Luận văn chỉ ra rằng
phát triển làng nghề ở Hội An hiện nay còn thiếu tính bền vững, hiệu quả kinh
tế xã hội còn thấp, cần thiết phải có sự quan tâm, đầu tư của cơ quan nhà nước
và các tổ chức doanh nghiệp.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài hướng tới mục tiêu đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn
thiện công tác QLNN về phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện
Thạch Thất nhằm góp phần thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển bền
vững, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới hiện nay.
Để giải quyết được mục tiêu nghiên cứu nói trên, đề tài cần phải thực
hiện được 3 nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về QLNN về phát triển làng
nghề truyền thống trên địa bàn huyện.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng QLNN về phát triển triển làng nghề
truyền thống những năm qua; từ đó nhận định những thành công, hạn chế
đồng thời xác định nguyên nhân của những thành công, hạn chế trong công
tác QLNN đối với phát triển làng nghề truyền thống;
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị thiết thực, có tính khả thi nhằm
hoàn thiện QLNN về phát triển làng nghề truyền thống thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là QLNN về phát triển làng nghề truyền
thống trên địa bàn huyện Thạch Thất.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu trên địa bàn huyện Thạch
Thất.
- Về thời gian: Đề tài giới hạn sử dụng dữ liệu thứ cấp nghiên cứu thực
trạng trong 5 năm gần đây (2010-2015). Đề tài định hướng đề xuất giải
pháp và kiến nghị hoàn thiện QLNN về phát triển làng nghề truyền thống
đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng những phương pháp khác
nhau, bổ sung cho nhau để giải quyết mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt
ra. Cụ thể, đề tài sử dụng hai nhóm phương pháp là phương pháp thu thập dữ
liệu và phương pháp phân tích dữ liệu như sau:
Nhóm phương pháp thu thập dữ liệu
- Thu thập, tìm kiếm các dữ liệu liên quan đến cơ sở lý luận của đề tài ở
các sách, giáo trình, luận án, luận văn, bài báo khoa học,… DLTC này sẽ
được dùng để làm cơ sở lý luận về QLNN về phát triển làng nghề truyền
thống của địa phương như là khái niệm về nghề và làng nghề; phát triển của
làng nghề; nội dung, vai trò và sự cần thiết của QLNN về phát triển làng nghề
truyền thống…
- Thu thập, nghiên cứu văn bản pháp luật về làng nghề, báo cáo tổng
kết, các số liệu thống kê có liên quan… để làm cơ sở đánh giá thực trạng vấn
đề nghiên cứu. Các văn bản pháp luật nhằm nghiên cứu thực trạng, ban hành
và tổ chức thực hiện pháp luật liên quan.
Tổng hợp số liệu thu thập được và xử lý chúng thành các số liệu cần
thiết như kết quả thực hiện các chỉ tiêu để đánh giá đúng thực trạng QLNN về
phát triển làng nghề truyền thống huyện những năm qua.
5
Đề tài cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan
đồng thời dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà
nước về phát triển làng nghề truyền thống.
Nhóm phương pháp phân tích dữ liệu:
Phương pháp thống kê: được sử dụng để thống kê số liệu thu thập được
nhằm đánh giá thực trạng công tác QLNN đối với sự phát triển làng nghề
truyền thống trên địa bàn huyện.
Phương pháp tổng hợp: tổng hợp các số liệu về số lượng làng nghề, số
lượng lao động trong làng nghề truyền thống, kết quả các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các làng nghề truyền thống.
Phương pháp so sánh: Dùng để so sánh kết quả của các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của làng nghề qua các năm, tỷ trọng sản xuất công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã góp phần hệ thống hóa và sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận
cơ bản về phát triển làng nghề, QLNN về phát triển làng nghề các nhân tố môi
trường ảnh hưởng đến phát triển làng nghề của địa phương; kinh nghiệm
QLNN về phát triển làng nghề của một số địa phương trong cả nước và bài
học kinh nghiệm cho huyện Thạch Thất.
Đề tài có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác giảng dạy, học
tập của khối đại học kinh tế. Những kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài
liệu tham khảo cho các cơ quan QLNN trong việc nghiên cứu hoạch định
chính sách phát triển kinh tế nói chung và của huyện nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài Lời cảm ơn, Lời cam đoan, Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Mở
đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề và làng nghề
truyền thống.
6
Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước về phát triển làng nghề truyền
thống trên địa bàn huyện Thạch Thất.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước về
phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Thạch Thất.
7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG
1.1MỘT SỐ KHÁI NIỆM.
1.1.1 Làng nghề truyền thống
1.1.1.1 Khái niệm làng nghề
Làng, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là một khối người quây
quần ở một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào của xã hội của
người Việt, là một tập hợp dân cư chủ yếu theo hệ láng giềng. Đó là một
không gian lãnh thôi nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại
cùng sinh sống và sản xuất.
Các làng ở nước ta được chia làm 4 loại chính:
- Làng thuần nông hay còn gọi là làng nông nghiệp, là những làng nghề
nông một cách thuần túy.
- Làng buôn bán, là làng làm nghề nông có thêm nghề buôn bná của một
số thương nhân chuyện nghiệp và bán chuyên nghiệp.
- Làng nghề là làng làm nghề nông nghiệp nhưng có thêm một số nghề
thủ công.
Sự xuất hiện của các nghề thủ công ở các làng quê lúc đầu chỉ là nghành
nghề phụ, chủ yếu được nông dân tiến hành trong lúc nông nhàn. Về sau, do
quá trình phân công lao động, các ngành nghề thủ công tách dần khỏi nông
nghiệp nhưng lại phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, khi đó người thợ thủ
công có thể không còn sản xuất nông nghiệp nhưng họ vẫn gắn chặt với làng
quê mình. Khi nghề thủ công phát triển, số người chuyên làm nghề thủ công
và sống được bằng nghề này tăng lên, điều này diễn ra ngay trong các làng
quê và đó là cơ sở cho sự tồn tại của làng nghề ở nông thôn.
Từ những luận điểm và lý luận trên đã có nhiều định nghĩa về làng nghề
được đưa ra. Theo Thông tư 116/2006/TT- BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn: “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản,
8
làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị
trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại
sản phẩm khác nhau”.
Thực tế cho thấy “Làng nghề” là một tập hợp từ thể hiện một không gian
vùng quê nông thôn, ở đó có những hộ thuộc một số dòng tộc nhất định sinh
sống. Ngoài sản xuất nông nghiệp, họ còn có một số nghề sản xuất phi nông
nghiệp. Trong các làng nghề này tồn tại đan xen nhiều mối quan hệ kinh tế, xã
hội phong phú và phức tạp. Làng nghề là những làng ở nông thôn có những
nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và thu nhập so với
nghề nông.
Như vậy Làng nghề là một thiết chế KT-XH ở nông thôn, được cấu
thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lí nhất
định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là
chính, giữa họ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế - xã hội và văn hóa.
Ngày nay, làng nghề được hiểu theo nghĩa rộng, không bó hẹp trong
phạm vi hành chính của một làng mà gồm một hoặc một số làng cùng một
tiểu vùng, cùng địa lí kinh tế, cùng sản xuất một chủng loại hàng hóa truyền
thống hoặc cùng kinh doanh liên quan đến một nghề phi nông nghiệp và có
quan hệ mật thiết với nhau về KT-XH.
Mặt khác, có những địa phương tất cả các làng trong xã đều là làng nghề,
trong trường hợp này, người ta gọi là “Xã nghề”. Ngành nghề phi nông
nghiệp ở các làng nghề cũng được mở rộng, bao gồm các hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các dịch vụ phục vụ
sản xuất và đời sống có quy mô vừa và nhỏ, với các thành phần kinh tế và các
tổ chức kinh doanh như: hộ sản xuất, tổ hợp, hợp tác xã, doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần...
1.1.1.2 Khái niệm làng nghề truyền thống
Khái niệm làng nghề truyền thống (LNTT) được khái quát dựa trên hai
khái niệm nghề truyền thống và làng nghề nêu trên. Theo Thông tư
9
116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề
truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời”.
Như vậy có thể hiểu về LNTT, trước hết nó được tồn tại và phát triển lâu
đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền
thống, là nơi hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều
hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ
trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt
các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Làng
nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian
vẫn duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các
làng nghề truyền thống thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc
một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc
dạy nghề được thực hiện bằng phương pháp truyền nghề.
Tiêu chí đánh giá làng nghề truyền thống
Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 11 tháng 12 năm 2006 của Bộ
Nông Nghiệp và phát triển nông thôn, các tiêu chí công nhận làng nghề truyền
thống bao gồm:
Thứ nhất: Nghề được công nhận là “Nghề truyền thống” phải đạt 3
tiêu chí sau:
+ Nghề đã xuất hiện từ địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận.
+ Nghề tạo ra sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của
làng nghề.
Thứ hai: Làng nghề được công nhận làng nghề truyền thống phải đạt
tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định của
thông tư này, tức:
10
+ Số hộ và số lao động trong làng nghề truyền thống đạt từ 50% trở lên
so với tổng số lao động của làng.
+ Giá trị sản xuất và thu nhập từ làng nghề truyền thống đạt từ 50% tổng
giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
+ Sản phẩm làm ra có tính thẩm mỹ mang đạm nét yếu tố và bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam.
+ Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định được truyền từ đời này
sang đời khác.
+ Thu nhập bình quân trên một người và tổng nguồn vốn để giành được
cao hơn so với hộ chỉ làm nghề nông nghiệp
- Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường theo
quy định thì vẫn được xét công nhận làng nghề truyền thống khi đã có đề án,
dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi trường và đề ra các biện pháp xử lý
khắc phục ô nhiễm môi trường.
1.1.1.3 Đặc điểm của làng nghề truyền thống
Thứ nhất, việc sản xuất kinh doanh của các làng nghề truyền thống gắn
liền với hộ gia đình và nông nghiệp nông thôn.
Như chúng ta đã biết, các làng nghề truyền thống làm nghề thủ công, các
nguyên liệu đầu vào phục vụ quá trình sản xuất đều bắt đầu từ nông nghiệp,
nông thôn. Lao động trong các làng nghề truyền thống là các nông dân,
nguyên liệu họ làm ra sản phẩm chính là các sản phẩm từ nông nghiệp. Họ
tiến hành sản xuất theo các hộ gia đình, mỗi người trong gia đình là một lao
động làm một công đoạn nhất định để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Việc quản
lý sản xuất, phân công lao động, sắp xếp thời gian do họ tự thực hiện sao cho
phù hợp với sản xuất nông nghiệp và tận dụng khoảng thời gian nhàn rỗi của
mùa vụ. Do sản xuất nông nghiệp có tính vụ mà nên khoảng thời gian còn lại
các hộ gia đình tiếp tục sản xuất các sản phẩm thủ công, trước tiên là để phục
vụ nhu cầu sinh hoạt của chính bản thân gia đình họ. Sau này, các sản phẩm
11
làm ra cũng như trao đổi sản phẩm giữa các làng nghề tăng lên, các sản phẩm
làm ra được các hộ giao bán tạo thêm thu nhập cho gia đình. Thị trường tiêu
thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống chính là khu vực nông thôn, ngày
nay các sản phẩm làng nghề truyền thống với sự đa dạng và phong phú chủng
loại cùng với nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, các sản phẩm của
làng nghề truyền thống được xuất khẩu, tiêu dùng rộng khắp trên thị trường
trong và ngoài nước.
Thứ hai, sản phẩm của làng nghề truyền thống mang đậm yếu tố văn hóa
truyền thống của dân tộc
Các sản phẩm của làng nghề truyền thống được tạo ra nhờ bàn tay, trí óc
của các nghệ nhân, người lao động làm nghề truyền thống. Trước đây sản
phẩm hoàn toàn làm bằng phương pháp thủ công truyền thống và mục đích là
nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt hang ngày. Sản phẩm làng nghề truyền
thống thể hiện nét văn hóa, độ tinh xảo của nghệ nhân làm ra nó, nhìn vào nó
có thể biết xuất xứ của sản phẩm thậm chí qua đó có thể biết được hộ gia đình
nào làm ra nó.
Các sản phẩm làng nghề truyền thống gắn liền với văn hóa vùng miền,
tập quán, phong tục của địa phương. Bởi sản phẩm làm ra từ nguyên liệu
ngành nông nghiệp, do có lao động, gia đình làng nghề tự tay làm nên sản
phẩm. Cũng chính vì thế mà các sản phẩm làng nghề truyền thống mang tính
chủ quan sáng tạo, hoàn toàn phụ thuộc vào bàn tay người thợ, chất lượng, độ
tinh xảo của sản phẩm phụ thuộc trình độ của người thợ, phụ thuộc thị hiếu
người sử dụng. Do đặc điểm điều kiện sản xuất kinh doanh, sản phẩm làng
nghề truyền thống in đậm dấu ấn người thợ nên khó sản xuất đại trà, mà chỉ
sản xuất đơn chiếc. Đây là một trong những nhược điểm khiến sản phẩm làng
nghề truyền thống khó đáp ứng được nhu cầu đơn hàng lớn và chất lượng sản
phẩm không đồng đều.
12
Khi nền kinh tế phát triển, quan hệ giao lưu thương mại ngày càng mở
rộng thỉ sản phẩm làng nghề truyền thống có sự hỗ trợ của yếu tố công nghệ.
Sản phẩm làm ra đồng đều hơn, số lượng lớn hơn đáp ứng nhu cầu đa dạng,
phong phú của người mua. Tuy nhiên tùy theo từng loại sản phẩm để đổi mới
công nghệ, có những loại sản phẩm vẫn cần phải đảm bảo quy trình sản xuất
theo công nghệ truyền thống. Nhờ đó giữ được yếu tố truyền thống, bản sắc
văn hóa dân tộc, vùng miền không hề mất đi, nó vẫn mang đạm nét văn hóa,
tinh thần dân tộc và sự sáng tạo không ngừng của nghệ nhân làng nghề.
Thứ ba, việc tổ chức sản xuất kinh doanh tại các làng nghề truyền thống
nhỏ lẻ, manh mún.
Ngay từ khi hình thanh, quy mô sản xuất trong các làng nghề truyền
thống chủ yếu là hộ gia đình huyết thống gắn với các phường nghề, hội nghề.
Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quy mô sản xuất làng nghề
truyền thống được thể hiện thành các Đội ngành nghề dưới sự quản lý của
Hợp tác xã (đội chuyên làm gốm, làm mộc, làm sơn mài, khảm trai…), đối
với những đội có đông thợ thủ công thì thành lập HTX thủ công nghiệp. Tuy
vậy HTX hay Đội ngành nghề thì quy mô hoạt động vẫn chưa lớn, chất lượng
hiệu quả còn thấp và cho tới nay các mô hình này không còn tồn tại.
Trong thời kỳ hiện nay, dưới tác động của cơ chế thị trường hoạt động
sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống trở về với mô hình truyền
thống là hộ gia đình, đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, các công
ty cổ phần kinh doanh xuất nhập khẩu sản phẩm làng nghề truyền thống. Các
công ty, doanh nghiệp này tìm kiếm khách hàng nước ngoài có nhu cầu sản
phẩm làng nghề, thông qua các cơ sở đặt hàng trong khu vực dân cư, các cơ
sở này giao đơn hàng nhỏ lẻ tới các hộ dân. Sau khi sản phẩm thô được thu
gom về, tiếp đó chuyển đến các xưởng để tiếp tục gia công, hoàn thiện sản
phẩm và tiến hành đóng gói, tem, mác. Mô hình này đem lại hiệu quả kinh tế
cao hơn so với trước xong do trong quá trình vận động để phát triển, các hộ
13
gia đình vân còn gặp nhiều khó khăn bất cập như: quy mô sản xuất không
được mở rộng, không có đủ vốn để đầu tư sản xuất lớn, các doanh nghiệp
kinh doanh sản phẩm làng nghề thì vẫn bế tắc trong khâu tìm kiếm đầu ra cho
sản phẩm. Chính vì vậy so với các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế khác thì sản
xuất kinh doanh tại các làng nghề nói chung, và làng nghề truyền thống nói
riêng còn manh mún, nhỏ lẻ.
Thứ tư, đặc điểm về kỹ thuật sản xuất.
Kỹ thuật sản xuất đặc trung trong sản xuất kinh doanh làng nghề truyền
thống là công cụ thủ công (dao, kéo, tiện, kim thêu…), phương pháp, công
nghệ mang tính cổ truyền do lịch sử để lại và do chính người lao động trong
làng nghề tạo ra. Kỹ thuật đặc biệt nhất của làng nghề truyền thống là đôi bàn
tay của nghệ nhân, của người thợ được tích lũy qua nhiều thế hệ, giữ được
tính chất bí truyền của nghề. Chính được điểm kỹ thuật này quyết định chất
lượng sản phẩm. Đôi bàn tay của người thợ thủ công tạo ra tính khác biệt của
sản phẩm mà không có máy móc nào có thể thay thế. Nó tạo ra tính độc đáo,
đặc sắc cho sản phẩm làng nghề truyền thống. Điều này thể hiện rõ nét ở các
sản phẩm thêu, chạm khắc, nghề đan lát từ mây tre đan…Ngoài ra, một số
nghề thủ công có những công đoạn sản xuất đặc biệt, phụ thuộc vào thời tiết
như nghề sơn mài, nghề mây tre đan (thời tiết ẩm ướt khiến sản phẩm bị mốc,
mối mọt không thể đóng gói được), nghề dệt…
Như vậy, công nghệ sản xuất sản phẩm làng nghề truyền thống không
giống với các sản phẩm công nghiệp khác, nó được sản xuất đơn chiếc dưới
bàn tay con người, phụ thuộc lớn vào thời tiết. Nó không được sản xuất đồng
loạt theo dây chuyền công nghẹ, mỗi sản phẩm của làng nghề truyền thống
được coi là một tác phẩm nghệ thuật chứa đựng phong cách rieng, nét sáng
tạo riêng của con người.
1.1.2 Phát triển làng nghề truyền thống.
1.1.2.1 Khái niệm
Phát triển là việc nâng cao phúc lợi nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn
sống, cải thiện giáo dục, sức khỏe và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền
14
công dân. Phát triển còn được được định nghĩa là sự tăng trưởng bền vững về
các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng, vật chất, giáo dục, sức khỏe và bảo vệ
môi trường.
Như vậy, phát triển làng nghề truyền thống là sự tăng lên về quy mô và
phải đảm bảo hiệu quả sản xuất của các làng nghề truyền thống. Sự tăng lên
về quy mô được hiểu là sự mở rộng về sản xuất của từng làng nghề và số
lượng làng nghề được tăng lên theo thời gian và không gian (làng nghề mới),
trong đó có làng nghề cũ được củng cố, làng nghề mới được hình thành. Từ
đó giá trị sản lượng của làng nghề không ngừng được tăng lên, nó sẽ thể hiện
sự tăng trưởng của làng nghề. Sự phát triển làng nghề truyền thống phải đảm
bảo hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.
Bên cạnh đó, phát triển làng nghề truyền thống phải có kế hoạch, quy
hoạch, sử dụng các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn,
nguyên liệu cho sản xuất…đảm bảo hợp lý có hiệu quả, nâng cao mức sống
người lao động, không gây ô nhiễm môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc.
1.1.2.2 Vai trò phát triển làng nghề truyền thống
- Các làng nghề truyền thống với đặc trưng là sản xuất tiểu thủ công
nghiệp tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú với giá thành rẻ. Các nghề
truyền thống chủ yếu sử dụng các nguyên liệu từ trong nước, vốn là các
tài nguyên thiên nhiên, các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, các vật liệu
xây dựng…
- Sản phẩm từ các làng nghề không chỉ đáp ứng thị trường trong nước
với các mức độ nhu cầu khác nhau mà còn xuất khẩu sang thị trường nước
ngoài với nhiều mặt hàng phong phú có giá trị cao. Điển hình là các mặt hàng
thủ công mỹ nghệ, giá trị hàng hóa từ các làng nghề hàng năm đóng góp cho
nền kinh tế quốc dân từ 40- 50 nghìn tỷ đồng. Góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Phát
triển làng nghề truyền thống đang góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
hàng triệu lao động chuyên và hàng nghìn lao động nông nhàn ở nông thôn,
15
góp phần nâng cao thu nhập cho người dân và giải quyết các vấn đề an sinh
xã hội.
- Phát triển làng nghề truyền thống góp phần thúc đẩy gia tăng thu nhập,
cải thiện đời sống dân cư ở nông thôn, tăng tích lũy, giảm di dân tự do.
- Phát triển làng nghề truyền thống sẽ chuẩn bị cho đội ngũ lao động có
khả năng thích ứng với lĩnh vực công nghệ và tạo cơ sở vệ tinh cho các doanh
nghiệp hiện đại.
- Phát triển làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn và gìn giữ giá trị
văn hóa dân tộc.
- Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay có xu hướng phát triển theo
hướng phục vụ các dịch vụ du lịch. Đây là hướng đi mới, nhiều sáng tạo phù
hợp với thời đại hiện nay và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng tời có thể
giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
1.1.3 Quản lý Nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống
1.1.3.1 Khái niệm Quản lý Nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống
Quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống là việc áp
dụng hệ thống các công cụ quản lý bao gồm pháp luật, chính sách, quy hoạch,
kế hoạch tác động vào đối tượng quản lý để hướng dẫn các làng nghề truyền
thống của địa phương phát triển đúng theo định hướng đã đặt ra trên cơ sở sử
dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế.
1.1.3.2 Vai trò của Quản lý Nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống
Quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống có vai trò sau:
Thứ nhất, QLNN đối với phát triển làng nghề truyền thống sẽ định
hướng cho các hoạt động sản xuất sản phẩm làng nghề của địa phương phát
triển theo đúng mục tiêu của địa phương đã đề ra trên cơ sở tạo lập môi
trường thuận lợi cho các làng nghề tại địa phương tiếp cận với các yếu tố tài
nguyên, nguồn nhân lực.
Thứ hai, QLNN đối với phát triển làng nghề truyền thống có vai trò điều
tiết các nguồn lực, phân bổ hợp lý nguồn tài nguyên phù hợp với đặc điểm
từng ngành nghề của địa phương. Bằng công cụ quản lý, cơ quan QLNN sẽ
16
giám sát các hoạt động kinh doanh của các làng nghề và có những biện pháp
thích hợp để xử lý nếu có vi phạm xảy ra.
Thứ ba, QLNN đối với phát triển làng nghề truyền thống có vai trò giám
sát, đảm bảo phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các làng nghề nhằm đảm bảo tính công bằng, đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của các cơ sở sản xuất kinh doanh, từ đó bảo tồn giá trị văn
hóa truyền thống của làng nghề.
1.1.3.3 Phương pháp và công cụ quản lý Nhà nước đối với phát triển làng
nghề truyền thống
a. Phương pháp quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền
thống.
Để quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống sử dụng
các phương pháp như: phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính và
phương pháp giáo dục. Tùy vào từng đối tượng và tình huống cụ thể mà có
thể dùng một hoặc kết hợp nhiều phương pháp với nhau để đạt được mục tiêu
đề ra trong từng giai đoạn, thời kỳ khác nhau.
Phương pháp kinh tế: Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián
tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối
tượng quản lý, nhằm làm cho đối tượng quản lý tự giác, chủ động hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao. Phương pháp kinh tế là phương pháp quan trọng để
Nhà nước cũng như địa phương thực hiện quản lý đối với phát triển làng nghề
truyền thống. Phương pháp này được thể chế thông qua chính sách kinh tế
như sử dụng đất, thuế, các hoạt động hỗ trợ…
Phương pháp hành chính: là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước
thông qua các quyết định dứt và có tính bắt buộc trong khuôn khổ pháp luật
lên các chủ thể kinh tế, nhằm thực hiện các mục tiêu của nhà nước trong
những tình huống nhất định. Tác động điều chỉnh hành động, hành vi của các
chủ thể kinh tế là những tác động bắt buộc của nhà nước lên quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế, nhằm đảm bảo thực hiện
17
mục tiêu quản lý nhà nước. Một mặt, phương pháp hành chính được thực hiện
căn cứ chủ yếu vào hệ thống pháp luật về phát triển làng nghề truyền thống,
kiểm soát bằng luật pháp và kịp thời ngăn chặn xử lý những vi phạm, tiêu
chuẩn hóa làm trong sạch đội ngũ cán bộ QLNN về phát triển làng nghề
truyền thống. Mặt khác, phương pháp này được thực hiện trên cơ sở xây
dựng, ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, định hướng cho các
làng nghề truyền thống thực hiện theo đúng chủ trương và chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Phương pháp giáo dục, là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận
thức và tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt
tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Để góp
phần thực hiện tốt các nội dung QLNN về phát triển làng nghề truyền thống,
thông qua các phương tiện có thể tuyên truyền, giáo dục người dân trong các
làng nghề nâng cao ý thức, trách nhiệm, bảo tồn các giá trị văn hóa của dân
tộc, làm giàu cho bản thân và đất nước.
b. Công cụ QLNN đối với phát triển làng nghề truyền thống.
Để thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước có thể sử dụng các
công cụ bao gồm: Kế hoạch, chính sách và pháp luật
Công cụ kế hoạch: Nhà nước có những định hướng về phát triển làng
nghề truyền thống theo mục tiêu đã đề ra. Chính quyền địa phương xây dựng
và triển khai kịp thời các chiến lược nhằm phát triển làng nghề truyền thống,
quy hoạch và đưa ra các kế hoạch cụ thể hướng các làng nghề truyền thống
của địa phương phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương và quy hoạch tổng
thể các nguồn lực được sử dụng tối ưu. Nhờ đó mà các cơ quan QLNN có cơ
sở để kiểm tra, đánh giá các hoạt động đúng định hướng hay không. Quy
hoạch làng nghề phù hợp với tính phát triển đặc thù của các ngành nghề.
Công cụ pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc chung có tính bắt
buộc thể hiện ý chí của Nhà nước và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra,
thực thi và bảo vệ nhằm phát triển xã hội theo tính đặc trưng đã định. Trong
18
phát triển làng nghề truyền thống Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật để
quản lý và phát triển làng nghề truyền thống nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc
xác lập kỷ cương cho việc sản xuất kinh doanh sản phẩm làng nghề truyền
thống. Từ đó sẽ phát hiện và ngăn chặn các hành vi trái với pháp luật gây tổn
hại cho nền kinh tế và xã hội.
Công cụ chính sách: là một trong những công cụ chủ yếu của Nhà nước
để quản lý nền kinh tế, nó tập trung các giải pháp nhất định để thực hiện các
mục tiêu bộ phận nhằm hướng tới mục tiêu chung của phát triển kinh tế xã
hội. Đây là công cụ để nhà nước thực hiện toàn bộ các quan điểm, các nguyên
tắc, qua đó thể hiện quyết tam và phương hướng xây dựng các phương thức,
biện pháp của nhà nước trong việc điều chỉnh một loạt các quan hệ kinh tế
phát sinh nhằm đưa ra các chiến lược, kế hoạch cụ thể vào thực tiễn, các
chính sách ra đời như một công cụ hữu hiệu nhằm phát triển xa hơn.
1.2 NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN LÀNG
NGHỀ TRYỀN THỐNG.
1.2.1 Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật trong hoạt động phát triển làng nghề truyền thống.
Để quản lý các làng nghề truyền thống Nhà nước địa phương cần chỉ
đạo thực hiện các luật lệ, chính sách của trung ương ban hành có hiệu quả ở
địa phương mình. (ra các văn bản hướng dẫn thực, tổ chức thực thi, kiểm tra,
đánh giá). Việc ban hành các văn bản hướng dẫn ở địa phương xuất phát từ
yêu cầu thực tế của địa phương và yêu cầu quản lý ngành nhưng không trái
với pháp luật của Nhà nước. Mục đích của ban hành các văn bản pháp luật
nhằm tạo điều kiện cho các làng nghề truyền thống phát triển một cách thuận
lợi, đưa các sản phẩm làng nghề truyền thống ra thị trường thế giới.
Trong QLNN về phát triển làng nghề truyền thống quy định về điều kiện
nghề, làng nghề truyền thống, điều kiện thành lập doanh nghiệp, các hình thức
19
kinh doanh của doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh.Bên cạnh việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật, Nhà nước cũng thực hiện việc chỉ đạo,
hướng dẫn tổ chức thực hiện tới các đối tượng chịu ảnh hưởng.
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật còn có sự tham gia phối
hợp của các ngành, các đơn vị có liên quan. Với chức trách và nhiệm vụ được
giao, các cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm xây dựng hệ thống thông
tin đầy đủ, kịp thời.
Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo
điều kiện thúc đẩy phát triển làng nghề truyền thống như:
- Chương trình 05-CTr/TU ngày 10/5/2006 của Thành Ủy Hà Nội về
phát triển kinh tế ngoại thành và lộ trình thực hiện để phát triển kinh tế
ngoại thành.
- Kế hoạch số 86/KH-UBND ngày 04/7/2011 của UBND Thành phố Hà
Nội về việc thực hiện triển khai “Đề án bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề
Hà Nội giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020” giai đoạn 2011-2015.
- Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 của Chính phủ Về phát
triển ngành nghề nông thôn tập trung vào một số nội dung cụ thể như bảo tồn
và phát triển làng nghề, tạo mặt bằng sản xuất, ưu đãi về đầu tư tín dụng, xúc
tiến thương mại, hỗ trợ về khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực
- Nghị quyết số 26 NQ/TU ngày 29/6/2007 của Tỉnh ủy Hà Tây về phát
triển kinh tế làng nghề đến năm 2015 và những năm tiếp theo
- Quyết định số 14/QĐ – UBND ngày 02/01/2013 của UBND thành phố
Hà Nội Ban hành về việc phê duyệt quy hoạch phát triển làng nghề thành phố
Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
- Quyết định số 22/2008/QĐ-UBND ngày 02/5/2008 của UBND thành
phố Hà Nội Ban hành “Quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển nghề và
làng nghề Hà Nội”.
20
- Quyết định số 9849/QĐ-UB ngày 31/12/2004 của UBND Thành phố
Hà nội Về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nghề và làng nghề trên địa bàn đến
năm 2015.
1.2.2. Xây dựng và thực hiện kế hoạch, chính sách phát triển làng nghề
truyền thống.
Chính sách và kế hoạch là phương tiện để quản lý việc phát triển làng
nghề. Đây là tập hợp những kế hoạch được thiết lập hoặc những hành động
được thực hiện nhằm mục đích phát triển làng nghề theo mục tiêu đã đề ra.
Kế hoạch phát triển làng nghề truyền thống là toàn bộ những công việc
được vạch ra một cách có hệ thống trong một thời gian nhất định, với mục
đích nhất định nhằm đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả bằng những
hành động cụ thể.
Chính sách là tập hợp những chủ trương và hành động của cơ quan Nhà
nước nhằm tạo cơ chế cho các làng nghề truyền thống phát triển bằng việc tác
động nhằm khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu tiềm
năng, thế mạnh của địa phương trong việc phát triển làng nghề truyền thống
theo mục tiêu đã đề ra.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch, chính sách giúp cho các cá nhân, hộ
kinh doanh và các nghề nhân thấy rõ được định hướng, mục tiêu phát triển,
lĩnh vực phát triển các ngành nghề của địa phương từ đó có hướng phát triển.
Tuy nhiên để kế hoạch và chính sách về phát triển làng nghề truyền thống
thực sự có hiệu quả và có ý nghĩa thì phải đảm bảo kế hoạch và chính sách
phải nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, phải được
cụ thể hóa và mang tính đồng bộ. Vì vậy việc xây dựng phải được thực hiện
bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và dưới sự chỉ đạo và phê duyệt của
UBND huyện..