Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Luận văn thạc sỹ Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra tại Cục Thuế tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.66 KB, 84 trang )

i

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU,SƠ ĐỒ


ii

DANH TỪ VIẾT TẮT

CBCC

Cán bộ, công chức

CCTTT

Công chức thanh tra thuế

NNT

Người nộp thuế

TKTN

Tự khai, tự nộp

ĐTNT

Đối tượng nộp thuế



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã ý thức rõ việc
dùng người là quốc sách. Nó không phải là nguyên nhân duy nhất nhưng có tác
dụng trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Phát huy truyền thống và phương sách dùng người của ông cha ta để lại, từ khi ra
đời đến nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, coi cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày
công đào tạo, huấn luyện xây dựng được một đội ngũ cán bộ trung thành với Tổ
quốc và dân tộc, tận tuỵ kiên cường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”. Tư tưởng của Người về cán bộ và sử dụng cán bộ là
những di sản vô giá. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một khi đã có đường lối cách
mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định Người viết: “Muốn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Cán
bộ là những người đem đường lối, chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
lại cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng.
Là một tổ chức trong hệ thống tổ chức của thanh tra nhà nước, đồng thời là tổ
chức cấu thành trong bộ máy quản lý của ngành Tài chính, thanh tra thuế là một
công cụ quản lý tài chính có hiệu lực, đảm bảo cho pháp Luật, các chính sách chế
độ và kế hoạch ngân sách nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh. Hiệu lực, hiệu
quả của Thanh tra thuế phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ cán bộ làm công
tác thanh tra Thuế. Vì vậy, có thể nói, phẩm chất, kỹ năng công tác của người cán
bộ thanh tra thuế là yếu tố quan trọng, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà
nước.
Như chúng ta đã biết cơ quan Thuế là bộ phận cấu thành của bộ máy Nhà
nước có tư cách pháp nhân thay mặt Nhà nước đảm nhiệm nhiệm vụ quản lý Thuế



2

bằng các hình thức và phương pháp hoạt động nhất định. Hoạt động của cơ quan
Thuế mang tính quyền lực và được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, hoạt động
đó được tuân theo thủ tục do Pháp Luật quy định. Cơ quan Thuế bao gồm Tổng cục
Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế, được tổ chức theo địa giới hành chính. Vì thay mặt
Nhà nước đảm nhiệm nhiệm vụ quản lý Thuế, do cơ quan thuế thường xuyên tiếp
xúc với nhân dân (người nộp thuế) do đó việc xây dựng nâng cao chất lượng nguồn
đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành thuế đặc biệt là nâng cao chất lượng của đội
ngũ làm công tác thanh tra Thuế là việc làm hết sức có ý nghĩa mang tính cấp thiết
& liên tục, bởi vì: Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội
chủ nghĩa cán bộ, công chức ngành Thuế cả nước nói chung và Sơn La nói riêng đã
luôn giữ vững và phát huy truyền thống của ngành, đoàn kết và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước giao, thu đúng, thu đủ tiền thuế vào Ngân
sách Nhà nước, đảm bảo an toàn tài sản, tiền bạc của Nhà nước. Thời gian vừa qua,
cùng với việc chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ, lãnh đạo cơ quan
thuế các cấp đã gương mẫu chấp hành, đồng thời quan tâm chỉ đạo, kiểm tra cán bộ,
công chức trong đơn vị chấp hành tốt 10 điều kỷ luật của ngành, những tiêu chuẩn
cần “xây” và những điều cần “chống”, Tiêu chuẩn văn hoá công sở và đạo đức
công chức, viên chức ngành Thuế. Do vậy, ý thức tổ chức kỷ luật và phẩm chất đạo
đức của đội ngũ cán bộ, công chức thuế đã được nâng cao rõ rệt, góp phần đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý thuế, tạo dựng hình ảnh tốt của ngành
Thuế với xã hội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do tác động của các yếu tố
khách quan, chủ quan đã phát sinh những hành vi tiêu cực trong cán bộ, công chức.
Qua phản ánh dư luận xã hội, phản ánh của các cơ quan chức năng và qua công tác
kiểm tra nội bộ, trong ngành Thuế vẫn còn một số cán bộ, công chức chưa chấp
hành nghiêm quy định về Tiêu chuẩn văn hoá công sở và đạo đức công chức, viên
chức ngành Thuế, vi phạm các quy định về kỷ cương, kỷ luật của ngành như vi

phạm kỷ luật giờ giấc làm việc, bị xử lý hình sự ...Một số trường hợp cán bộ, công
chức chưa có tác phong, thái độ đúng mực khi tiếp xúc với Người nộp thuế, có thái
độ cửa quyền, vòi vĩnh gây khó khăn, chậm giải quyết yêu cầu của Người nộp thuế,


3

nghiêm trọng hơn là cán bộ công chức trực tiếp làm công tác thanh, kiểm tra thông
đồng với NNT để trốn thuế... gây thất thoát cho NSNN. Những việc đó ảnh hưởng
không tốt tới hình ảnh của ngành Thuế và cán bộ, công chức Thuế.
Nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế yếu kém đó là: Công tác quản lý cán bộ,
quản lý thời gian, chất lượng hiệu quả công việc có lúc có nơi còn lỏng lẻo. Ý thức
tự học tập chưa cao, năng lực trình độ của nhiều cán bộ làm công tác thanh kiểm tra
nói riêng còn yếu, thực thi công vụ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, khó bố
trí công việc. Ý thức chấp hành kỷ cương, kỷ luật của một số cán bộ, Công chức
thanh tra Thuế (CCTTT) có lúc, có nơi chưa nghiêm túc.
Nghiên cứu về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh kiểm
tra tại cơ quan hành chính nhà nước nói chung và Cục Thuế tỉnh Sơn La nói riêng
đã trở thành vấn đề cấp thiết không chỉ được thực hiện bởi tại Cục Thuế mà còn là
đề tài của các bài báo, các cuộc khảo sát, các luận án và luận văn hay các công trình
nghiên cứu khoa học khác ở trong và ngoài nước mà còn giúp ích phục vụ cho mục
tiêu chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 của ngành Thuế đã được
Bộ Tài chính phê duyệt tại Quyết định số 2162/QĐ-BTC ngày 08/9/2011. Nhận
thức được rõ tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức tại Cục Thuế Sơn La trong đó có công chức thanh tra thuế là một việc làm hết
sức khó khăn, gian nan, vất vả nhưng lại mang ý nghĩa hết sức quan trọng và là cơ
sở để thực hiện chiến lược phát triển lâu dài của ngành thuế Sơn La nói riêng và
ngành thuế cả nước nói chung. Em quyết định lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra tại Cục Thuế tỉnh Sơn La”
làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình để tiếp tục khẳng định những giá trị lý

luận, thực tiễn về công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra trong các cơ quan hành chính nhà
nước hiện nay.


4

2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích sau:
2.1. Hệ thống hóa lý luận về đội ngũ cán bộ, công chức và chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức làm công tác thanh tra Thuế.
2.2. Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra tại
Cục Thuế Sơn La trong thời gian qua (giai đoạn 2009-2013).
2.3. Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, CCTTT tại
Cục Thuế tỉnh Sơn La trong thời gian tới (2014-2020).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: chất lượng cán bộ, công chức thanh tra Cục Thuế tỉnh
Sơn La.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Chất lượng cán bộ, công chức thanh tra trong phạm vi toàn
ngành thuế Sơn La bao gồm Cục Thuế và các Chi cục Thuế.
+ Về thời gian: Thực hiện nghiên cứu, phân tích, đánh giá chất lượng cán bộ,
công chức Thanh tra của Cục Thuế tỉnh Sơn La giai đoạn 2009 - 2013 và đề ra giải
pháp cho giai đoạn từ năm 2014- 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin: Các số liệu thống kê được thu thập thông
qua các tài liệu thống kê, báo cáo đã được công bố của Cục Thuế tỉnh Sơn La.
- Điều tra mẫu bằng câu hỏi và phỏng vấn trực tiếp: Các số liệu khảo sát được
thu thập thông qua điều tra chọn mẫu bằng phương pháp câu hỏi và phỏng vấn đối
với một số cán bộ, công chức thanh tra và khách hàng (người nộp thuế) và cán bộ

quản lý đối với chất lượng đào tạo, chất lượng công việc được giao, chất lượng
phục vụ của cơ quan thuế.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Thông qua các số liệu thu thập được từ
công chức thuế và điều tra phỏng vấn tổng hợp để phân tích đánh giá thực trạng
chất lượng cán bộ, công chức thanh tra của Cục Thuế tỉnh Sơn La.


5

- Phương pháp phân tích so sách định tính và định lượng: Trên cơ sở các số
liệu đã phân tích để so sánh đánh giá và đưa ra các nhận xét. Trong đó có sử dụng
các công cụ phần mền tính toán thống kê, các sơ đồ mô hình thống kê học để mô
phỏng.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục viết tắt,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu gồm 03
chương:
- CHƯƠNG 1: Một số vấn đề lý luận về chất lượng đội ngũ công chức thanh
tra thuế.
- CHƯƠNG 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra tại
Cục Thuế tỉnh Sơn La.
- CHƯƠNG 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức Thanh tra tại Cục Thuế tỉnh Sơn La.


6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THANH TRA THUẾ

1.1. Một số khái niệm và lý luận cơ bản
1.1.1. Thuế và quản lý nhà nước về thuế.
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội
do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai
cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó
không chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh
tế - xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho
hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà nước tồn
tại, duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Trong điều
kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với phạm vi hoạt động của Nhà
nước ngày càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phương thức tự nguyện của dân
cư trong chế độ cộng sản nguyên thủy không còn phù hợp nữa. Ðể có được lượng
của cải cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp luật, ấn
định bắt buộc các thể nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nước một phần của
cải mà họ làm ra và hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những
của cải vật chất này được thu nộp dưới hình thức hiện vật, dần dần thuế được
chuyển sang hình thức tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp của cải
vật chất đối với dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng bộ
máy cuỡng chế của Nhà nước.


7

Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế tồn tại

và phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách
quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước và sự tồn
tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.
Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy
ngân sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội
nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp.
Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các nước. Chẳng hạn ở
nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế để dùng
vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp thuận. ở Pháp, Quốc
hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận
thì không được áp dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định
Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có
nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình
thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể
nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu hiệu
và điều kiện được quy định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện đối với Nhà
nước và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới hình
thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với các thể
nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân phối này là của cải vật
chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị.



8

Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm
của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ thống
pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung, cải tiến và
đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn. Ðồng
thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật
về thuế đã được Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không chỉ nhìn một cách phiến
diện vào số lượng các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần là động viên
tài chính vào ngân sách Nhà nước mà phải được phân tích một cách toàn diện, chặt
chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội, không đối lập với quyền lợi
và khả năng đóng góp của nhân dân.
Theo quy định tại Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg ngày 28 tháng 9 năm
2009 của Thủ tướng Chính phủ thì nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức quản lí nhà nước về
Thuế như sau:
* Cơ cấu tổ chức Tổng cục Thuế được tổ chức thành hệ thống dọc từ
Trung ương đến địa phương theo đơn vị hành chính, bảo đảm nguyên tắc tập
trung thống nhất.
1. Cơ quan Tổng cục Thuế ở Trung ương:
a) Vụ Chính sách;
b) Vụ Pháp chế;
c) Vụ Dự toán thu thuế;
d) Vụ Kê khai và Kế toán thuế;
đ) Vụ Quản lý nợ và Cưỡng chế nợ thuế;
e) Vụ Quản lý thuế thu nhập cá nhân;
g) Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn;
h) Vụ Tuyên truyền – Hỗ trợ người nộp thuế;
i) Vụ Hợp tác quốc tế;

k) Vụ Kiểm tra nội bộ;


9

l) Vụ Tổ chức cán bộ;
m) Vụ Tài vụ - Quản trị;
n) Văn phòng (có đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh);
o) Thanh tra;
p) Cục Công nghệ thông tin;
q) Trường Nghiệp vụ thuế;
r) Tạp chí Thuế.
Các tổ chức quy định từ điểm a đến điểm p, khoản 1, Điều này là các tổ chức
hành chính giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các tổ
chức quy định tại điểm q và điểm r là tổ chức sự nghiệp.
2. Cơ quan Thuế ở địa phương:
a) Cục Thuế ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Cục
Thuế cấp tỉnh) trực thuộc Tổng cục Thuế;
b) Chi cục Thuế ở các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
Chi cục Thuế cấp huyện) trực thuộc Cục Thuế cấp tỉnh.
Cục Thuế cấp tỉnh, Chi cục Thuế cấp huyện có tư cách pháp nhân, con dấu
riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của các đơn vị thuộc Tổng cục Thuế.
1.1.2 Thanh tra thuế & vị trí, mối quan hệ trong Quản lý thuế.
Thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động,
giao dịch liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT, tình hình áp dụng, thực hiện các
thủ tục hành chánh thuế, việc chấp hành nghĩa vụ thuế của NNT, nhằm bảo đảm
luật thuế được thi hành một cách nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.
Thanh tra (tiếng Anh là Inspect) xuất phát từ nguồn gốc La tinh (Inspectare)

có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với
hoạt động của một số đối tượng nhất định. Theo Từ điển pháp luật Anh-Việt, thanh
tra “là sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra”.Từ điển Luật học
(tiếng Đức) giải thích thanh tra “là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và


10

đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định -sự tác
động có tính trực thuộc”. Theo Từ điển tiếng Việt “ thanh tra là kiểm soát, xem xét
tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, Thanh tra bao
hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “ xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái với quy
định”. Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: “ người làm nhiệm vụ
thanh tra”, “đoàn thanh tra Thuế” và “đặt trong phạm vi quyền hạn của chủ thể
nhất định”.
Như vậy Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt
động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường
được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định, nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích
cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”. [23] –
Từ phân tích trên ta có khái niệm thanh tra thuế: là một chức năng thiết yếu
trong quản lý thuế, kiểm tra, xem xét việc tuân thủ pháp luật thuế của người nộp
thuế được cơ quan thuế thực hiện theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định nhằm
kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật về thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế,
chính sách thuế, pháp luật thuế, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế
Trong cơ cấu tổ chức bộ máy của ngành thuế bao gồm thanh tra người nộp

thuế (thanh tra chuyên ngành) và thanh tra (Kiểm tra) nội bộ ngành Thuế (thanh tra
hành chính). Hoạt động thanh tra thuế làm cho NNT và cho cả cán bộ thuế luôn ý
thức rằng có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại, từ đó thúc đẩy họ tự giác tuân
thủ pháp luật thuế.
Trong công cuộc đổi mới đồng bộ và toàn diện ở nước ta hiện nay, đòi hỏi
chúng ta phải đẩy mạnh việc chuyển đổi nền kinh tế và hoàn thiện cơ chế quản lý
Nhà nước. Trong đó thanh tra thuế với tư cách là một phương thức bảo đảm pháp


11

chế, tăng cường kỷ luật Nhà nước về thuế, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước
cần phải được xác định như một nhân tố tất yếu của công tác quản lý.
Khi tiến hành thanh tra thuế, cơ quan thuế phải tiến hành nhiều hoạt động
kiểm tra, ngược lại đôi khi tiến hành kiểm tra là để làm rõ vụ việc và từ đó chọn lựa
nội dung thanh tra.
Trong hoạt động quản lý nói chung & quản lý thuế nói riêng muốn đảm bảo
cho những mục tiêu đề ra đạt được hiệu quả tốt nhất, thì nhất thiết phải tiến hành
công tác kiểm tra, thanh tra và nó là một trong những chức năng hoạt động quản lý.
Nếu không có kiểm tra, thanh tra thì không có quản lý tốt, hay nói một cách khác
quản lý sẽ mất đi một chức năng thiết yếu và không thể mang lại hiệu quả. Kiểm
tra, thanh tra là sự xem xét để làm rõ những hiện tượng, những vụ việc đúng, sai
trong quá trình quản lý, trong những vụ việc, hành vi của người thừa hành nhiệm vụ
trong công tác quản lý.
Thanh tra là một hoạt động không thể thiếu, nhằm phản hồi nhu cầu thông tin
của công tác quản lý, đồng thời uốn nắn kịp thời và điều chỉnh chính sách, pháp luật
chưa hợp lý, tránh xơ cứng rập khuôn, máy móc, dẫn đến sự quản lý trì trệ, góp
phần làm bộ máy trong sạch, đơn vị vững mạnh và phát triển.
1.1.3 Công chức Thanh tra thuế.
Theo điều 4, Luật công chức năm 2008 quy định “Công chức là công dân Việt

Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương


12

được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật” {28, Tr 2}- Luật CBCC
Để làm rõ và hiểu được CCTTT trước hết phải hiểu rõ khái niệm “công chức
thanh tra”. Hiện nay, đang có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Có
quan niệm cho rằng, công chức thanh tra phải là công chức theo quy định của Luật
cán bộ, công chức và đang làm việc trong các cơ quan thanh tra nhà nước hay trong
các cơ quan có các phòng ban thanh tra. Có quan điểm lại cho rằng cán bộ thanh tra
phải là công chức ngạch thanh tra…
Theo quy định của pháp luật và thực tế hoạt động thanh tra cho thấy, trong các
cơ quan thanh tra nhà nước có nhiều cán bộ, công chức thực hiện những nhiệm vụ
không liên quan trực tiếp đến công tác thanh tra (ví dụ như cán bộ văn thư, lưu trữ,
kế toán…). Mặt khác , có những người không là công chức ngạch thanh tra nhà
nước nhưng vẫn thường xuyên tham gia các đoàn thanh tra (ví dụ như chuyên viên
ở các bộ, các sở được cử vào đoàn thanh tra liên ngành). Trong Đoàn thanh tra,
quyền, trách nhiệm, yêu cầu về phẩm chất, kỹ năng công tác của những cán bộ này
cũng tương đương với công chức ngạch thanh tra.
Bên cạnh đó, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng tổ chức thanh tra của mình

(không phải là thanh tra nhà nước). Cán bộ trong các tổ chức thanh tra đó cũng
được giao những nhiệm vụ, quyền hạn và đòi hỏi phải có những phẩm chất, kỹ năng
tương tự như công chức thanh tra trong các cơ quan thanh tra nhà nước.
Như vậy, xét trên phương diện quản lý nói chung thì có thể hiểu “cán bộ
thanh tra” theo nghĩa rộng là những người thực hiện chức năng thanh tra trong chu
trình quản lý một tổ chức nào đó. Còn xét trên phương diện của quản lý nhà nước
thì “cán bộ thanh tra” là những người thực hiện chức năng thanh tra trong hoạt
động quản lý nhà nước.
Hiện nay, chưa có tài liệu nào có khái niệm chuẩn về công chức thanh tra thuế.
Tuy nhiên, từ quan điểm & nhận thức trên có thể khái quát “Công chức thanh tra
thuế” là những công chức được phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra của cơ


13

quan thuế được giao thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành thuộc phạm vi ngành thuế quản lý.
Chức danh cán bộ, công chức là thuật ngữ để chỉ tên chức vụ hoặc chức trách
của những người do bầu cử, bổ nhiệm hay được tuyển dụng, có vị trí công tác
thường xuyên, ổn định trong bộ máy các cơ quan thuộc hệ thống chính trị nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm chức danh gốc (chung cho nhiều
chức danh cùng loại) và chức danh đầy đủ.
Cán bộ, công chức được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: Theo tính
chất công việc mà họ đảm nhận, theo ngạch bậc, công chức, cụ thể:
- Phân loại cán bộ công chức theo tính chất công việc được chia thành 4
nhóm:
+ Công chức lãnh đạo
+ Công chức chuyên gia
+ Công chức thi hành công vụ nhân danh quyền lực nhà nước
+ Nhân viên hành chính

- Phân loại cán bộ công chức theo ngạch bậc, công chức:
+ Ngạch cán bộ công chức: Ngạch là một khái niệm chỉ trình độ năng lực,
năng lực, khả năng chuyên môn và ngành nghề của cán bộ công chức. Bất cứ một
người CBCC nào sau khi được chính thức tuyển dụng, đều được xét vào một ngạch
nhất định. Cơ quan tuyển dụng sẽ căn cứ vào quá trình đào tạo, khả năng chuyên
môn nghiệp vụ để phân loại CBCC theo các ngạch khác nhau và có chức danh tiêu
chuẩn riêng.
+ Bậc: mỗi ngạch lại chia làm nhiều bậc. Bậc là các thứ hạng trong một ngạch,
nếu chuyển ngạch phải được đào tạo, phải qua thi tuyển thì việc nâng bậc trong
phạm vi ngạch chỉ phụ thuộc vào thâm niên công tác, chất lượng công tác và kỷ luật
của CBCC.
Ngày 11 tháng 9 năm 2010 Bộ nội vụ đã ban hành thông tư số
Số: 09/2010/TT-BNV Ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên
ngành trong đó có chuyên ngành thuế cụ thể:


14

* Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước (bao gồm
cả CBCC thanh tra thuế):
Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia. Tôn trọng nhân dân,
tận tụy phục vụ nhân dân. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự giám sát của nhân dân. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách
nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ
quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm
pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước. Chủ động và phối
hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn

vị. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là
trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường
hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người
thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi
hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết
định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Thực hiện các
nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị ngoài việc thực
hiện tốt các yêu cầu trên còn phải thực hiện các yêu cầu sau đây:
Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức;
Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;


15

Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công
sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;
Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan
có thẩm
Ngoài ra, yêu cầu đối với các chức danh công chức thanh tra thuế còn thể
hiện:
- Trường hợp cán bộ, công chức xem xét bổ nhiệm ở các chức vụ cao hơn hiện
đang nắm giữ phải đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chức danh tương ứng với
chức vụ dự kiến bổ nhiệm.
+ Tuổi bổ nhiệm lần đầu không quá 55 tuổi đối với nam và không quá 50 tuổi
đối với nữ trong trường hợp đặc biệt, thực sự cần thiết và có quy định cụ thể của
Đảng, Nhà nước, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế thì thực hiện theo quy định cụ thể
của Đảng, Nhà nước, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế.
+ Không xem xét bổ nhiệm chức vụ cao hơn đối với cán bộ, công chức trong
thời gian xem xét, xử lý kỷ luật hoặc trong thời gian thi hành kỷ luật.
Bổ nhiệm đối các chức danh Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Thanh, kiểm
tra và chức vụ tương đương thuộc cơ quan Cục Thuế phải có 3 năm công tác trở lên
trong ngành tài chính, trong đó có ít nhất 2 năm công tác thuộc lĩnh vực chuyên
môn quản lý.
+ Bổ nhiệm đối các chức danh Đội trưởng, Phó Đội trưởng thanh kiểm tra tại
Chi cục Thuế phải có 2 năm công tác trở lên trong ngành tài chính, trong đó có ít
nhất 1 năm công tác thuộc lĩnh vực chuyên môn quản lý.
1.1.4. Đội ngũ công chức thanh tra thuế
Trên cơ sở chức năng của ngành thuế đã được xác định, hoạt động công tác
thanh tra nhằm phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo ngành, góp phần bảo đảm
chấp hành chủ chương, chính sách của đảng pháp luật của nhà nước với phương


16

hướng, nhiệm vụ công tác của ngành đề ra. Những kết quả trong hoạt động thanh tra
toàn ngành đạt được trong thời gian vừa qua càng khẳng định công tác thanh tra có
vai trò hết sức quan trọng không thể thiếu được trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp;
lực lượng cán bộ công chức thanh tra thuế cũng đang ngày càng trưởng thành và lớn
mạnh cả về chất lượng và số lượng, góp phần không nhỏ trong việc thực hiện có
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước công tác thuế trong phạm vi cả nước. Tuy
nhiên, trước những đòi hỏi ngày càng nặng lề về chức năng, nhiệm vụ của ngành

thuế hiện nay, thực trạng về đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra thuế cũng còn
nhiều tồn tại và bất cập.
Trong đề tài này đội ngũ công chức thanh tra thuế của địa phương được hiểu
là tập hợp các công chức được cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh từ
thanh tra viên, thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp chuyên trách công tác
thanh tra Thuế tại một đơn vị tổ chức quản lí nhà nước Ngành Thuế địa phương xác
định (các Cục và Chi cục thuế địa phương). Với khái niệm trên, đội ngũ công chức
thanh tra Thuế tương đồng với khái niệm nguồn nhân lực (NNL) công chức thanh
tra Thuế.
Để đánh giá đội ngũ Công chức thanh tra Thuế của một địa phương xác định
theo tiếp cận quản lí nhân lực, thường được xác lập qua 3 thông số:
- Quy mô (số lượng) đội ngũ: Phản ánh số lượng Công chức thanh tra Thuế
của tổ chức
- Cơ cấu đội ngũ: Phản ánh cấu trúc bậc công chức, Cục – Chi cục, trình độ
chuyên môn, tuổi…
- Chất lượng đội ngũ: Phản ánh mức độ đáp ứng nhiệm vụ của các bộ phận
thanh tra góp phần cùng cán bộ thu thuế, người nộp thuế thực hiện đúng, đủ, kịp
thời nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật thuế quy định.
1.2. Phân định nội dung nghiên cứu chất lượng đội ngũ công chức thanh
tra thuế ở Cục thuế địa phương.
Công tác xây dựng đội ngũ CCTTT của ngành thuế từ ngày thành lập
(10/9/1945) đến nay đã có những chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm


17

tư tưởng, được thể hiện trong cơ chế, chính sách, pháp luật từ khâu tuyển dụng, đào
tạo và quản lý sử dụng đã từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ đáp ứng được yêu
cầu đặt ra trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay.
1.2.1- Khái niệm:

Như trên đã nêu, chất lượng đội ngũ công chức thanh tra Thuế của một địa
phương được xác lập qua mức độ đáp ứng (thỏa mãn) các nhiệm vụ đặt ra với bộ
phận thanh tra thuế của một Cục/Chi cục thuế địa phương và cách hiểu chung này
tương đồng với khái niệm hiệu suất năng lực nguồn nhân lực công chức thanh tra
thuế của địa phương và được hiểu là tổng hợp các kiến thức (ngầm và lộ), các kỹ
năng (skills), các kĩ xảo (knowhows), và các trải nghiệm mà khi tích hợp chúng với
các quá trình hoạt động thanh tra thuế và sử dụng các nguồn nhân lực cho phép đạt
được tối đa hiệu quả mục tiêu thực hiện các quá trình/nhiệm vụ đó. Từ đây có thể
rút ra một số kết luận sau:
- Chất lượng đội ngũ công chức thanh tra thuế là một thông số đánh giá tổng
hợp của đội ngũ - của một tập hợp các công chức thanh tra thuế. Như vậy nó được
cấu thành từ chất lượng/năng lực của từng công chức thanh tra thuế nhưng không
phải là một phép cộng số học của chúng ta mà là chất lượng bình quân và độ lệch
chuẩn quanh vị trí số bình quân này của tập hợp đó.
- Giữa chất lượng đội ngũ với số lượng và cơ cấu đội ngũ có mối quan hệ biện
chứng với nhau, bản thân số lượng và cơ cấu đội ngũ không phải là yếu tố chất
lượng nhưng tỉ lệ số lượng đội ngũ/quy mô và phạm vi thanh tra và kiểm tra thuế;
Số lượng đội ngũ kế cận và thay thế đủ và phù hợp là yếu tố có tính chất lượng đội
ngũ. Tương tự cơ cấu bậc công chức thanh tra, cơ cấu thâm niên công tác thanh tra,
cơ cấu tuổi/thế hệ, cơ cấu thành phần và công chức nòng cốt các nhóm thanh tra, cơ
cấu tổ chức lao động khoa học đội ngũ công chức thanh tra thuế cũng là những yếu
tố chất lượng đội ngũ.
- Về nội hàm, chất lượng đội ngũ CCTTT đặt cao độ quan trọng của các yếu tố
chất lượng hành vi bởi đây là yếu tố có tính quyết định đến ngăn ngừa các tiêu cực
có thể và bệnh thành tích hoặc ỷ lại khó khăn khách quảntong ngành thuế, bởi nó


18

cũng là yếu tố có tác động lớn đến mục tiêu cuối cùng cao nhất là thực thi đúng,

hiện thực và sáng tạo pháp luật thuế của nhà nước.
- Trong khái niệm trên, chất lượng tri thức có vai trò quan trọng nhất tới hiệu
suất thực hiện nhiệm vụ. Ở đây tri thức được hiểu là tổng hợp kiến thức, kĩ năng, bí
quyết nghề nghiệp hay còn gọi là kĩ xảo (knowhows) và các trải nghiệm thực tế,
thực hành, được CCTTT vận dụng để thực thi nhiệm vụ có hiệu suất cao. Nếu kiến
thức tạo nên phần cứng của chất lượng tri thức thì các kĩ năng, bí quyết và kinh
nghiệm nghề nghiệp tạo nên phần mềm của chất lượng tri thức, tạo nên những sắc
tố chất của một CCTTT.
1.2.2- Các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ CCTTT ở Cục Thuế địa
phương
Từ khái niệm trên có thể rút ra các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ sau:
i. Về phẩm chất chính trị và hành vi đội ngũ:
Nói đến phẩm chất của một người là nói đến tư cách đạo đức và khả năng của
người đó ứng dụng tri thức khoa học vào hoạt động thực tiễn. Còn nói đến phẩm
chất của người cán bộ thanh tra nói chung và thanh tra thuế nói riêng thì phải hiểu
là những tiêu chuẩn, nguyên tắc mà nhà nước và xã hội thừa nhận, qui định hành vi,
xử sự của người cán bộ, công chức thanh tra thuế trong quan hệ công tác, quan hệ
xã hội. Còn kỹ năng của CCTTTchính là khả năng vận dụng những kinh nghiệm,
kiến thức của bản thân vào thực tiễn công tác thanh, kiểm tra trong ngành thuế.
Nhìn chung, yêu cầu về phẩm chất của người cán bộ, CCTTT không có sự
khác biệt lớn giữa các vị trí công tác thanh tra nhưng yêu cầu về kỹ năng lại có thể
có sự khác biệt tùy theo tính chất công việc. Ví dụ như những cán bộ thanh tra
thường xuyên phải tiếp xúc với người dân, doanh nghiệp thì đòi hỏi phải có kỹ năng
giao tiếp, ứng xử tốt; những cán bộ thanh tra thuế tham gia các đoàn thanh tra thì
phải có kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá sâu sắc…
Có thể đề cập, phân tích phẩm chất của người cán bộ thanh tra trên nhiều khía
cạnh nhưng trong hoạt động quản lý thuế nói chung thì có những nội dung sau đây
có tính bao quát toàn bộ:



19

Một là: CCTTT phải thấm nhuần và luôn trung thành với mục tiêu của tổ
chức, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn đặt lợi ích tổ chức, của tập thể lên
trên hết.
Thanh tra thuế chủ yếu nhằm xem xét, đánh giá việc thực hiện mục tiêu quản
lý thuế, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai lệch để hướng việc thực hiện đến
đạt mục tiêu đó. Do đó CCTTT phải thấm nhuần và phải luôn trung thành với mục
tiêu để ra. Thấm nhuần mục tiêu quản lý, giúp người cán bộ, CCTTT thấy được
những biểu hiện sai lệch để có những nhận xét, đánh giá, kiến nghị chấn chỉnh kịp
thời. Mặt khác, thấm nhuần mục tiêu quản lý cũng giúp CCTTT có thể phát hiện,
kiến nghị được những nhân tố, hướng đi mới có hiệu quả hướng đến mục tiêu.
Trong quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý nhà nước về lĩnh vực thuế người
cán bộ CCTTT phải luôn đối mặt với rất nhiều khó khăn. Có sự khó khăn do nội
dung, tính chất công việc cụ thể mà mình phải tiến hành thanh tra, đòi hỏi CCTTT
phải nỗ lực, không quản ngại, tìm mọi biện pháp để vượt qua khó khăn, tranh tình
trạng dễ thì làm, khó thì bỏ. Có những khó khăn đến từ các đối tượng liên quan như
đối tượng thanh tra mua chuộc, dụ dỗ, dọa nạt, đòi hỏi người CBCC thanh tra thuế
phải có bản lĩnh, dũng cảm vượt qua. Lại cũng có sự khó khăn xuất phát từ chính
bản thân người CCTTT như những tác động từ cuộc sống hằng ngày, gia đình, bạn
bè, khiến sự xuất hiện những tư tưởng về lợi ích cá nhân, có sự suy bì với những
người khác trong cùng điều kiện làm việc.
Thực tiễn cho thấy, nhiều trường hợp CBCC thanh tra thuế đã không giữ vững
được bản lĩnh chính trị, bị mua chuộc hoặc vì lợi ích cá nhân mà đánh mất đi phẩm
chất của mình. Chính vì vậy mà bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn đặt lợi ích tổ
chức, tập thể lên trên hết là những phẩm chất không thể thiếu của những người làm
công tác thanh tra.
Hai là: Người CBCC thanh tra thuế phải có phong cách làm việc tốt, phải coi
trọng và luôn ứng xử theo những tiêu chuẩn, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của
nghề thanh tra. Phong cách làm việc tốt của người cán bộ thanh tra trước hết là tinh



20

thần trách nhiệm cao trong công việc. Có trách nhiệm cao thì mới có khả năng tạo
ra hiệu quả công tác tốt.
CCTTT luôn là những người có chức vụ, quyền hạn, do đó phong cách làm
việc tốt của người cán bộ thanh tra trước hết là phải biết dựa vào quần chúng, gần
gũi quần chúng. Mặt khác, người cán bộ thanh tra phải biết phòng, chống các biểu
hiện chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái, phô trương, quan cách; phải biết sắp
xếp công việc một cách khoa học, phải tỉ mỉ, sâu sát; luôn có ý thức học tập nâng
cao trình độ, thường xuyên tổng kết công tác, đúc rút kinh nghiệm, sáng kiến để đổi
mới phong cách làm việc ngày càng hiệu quả.
Người cán bộ, CCTTT nhất thiết phải coi trọng và ứng xử theo những tiêu
chuẩn, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của mình. Trong thực hiện
nhiệm vụ, nếu người cán bộ thanh tra dễ dàng bỏ qua thậm chí ứng xử trái với
những tiêu chuẩn, nguyên tắc, chuẩn mức đạo đức nghề nghiệp thì bên cạnh việc
làm ảnh hưởng đến hình ảnh của người cán bộ thanh tra, làm giảm hiệu lực của
thanh tra còn có thể dẫn đến tình trang xê xoa, dễ dãi trong xem xét, đánh giá, kết
luận, thậm chí không dám nhắc nhở, phê bình, yêu cầu chấn chỉnh những biểu hiện
sai trái vì chính bản thân mình cũng là người vi phạm…
Ba là: CCTTT phải có lối sống lành mạnh, tư tưởng trong sáng, thực sự là tấm
gương trong công tác và trong cuộc sống.
Hồ Chủ tịch đã dạy rằng “Cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi
mặt, gương mờ thì không thể soi được”. Nếu người cán bộ thanh tra không có lối
sống lành mạnh, tư cách đạo đức trong sáng thì không thể vận động thuyết phục
được quần chúng. Khi xem xét, đánh giá người khác và nhất là hướng dẫn cho họ
thực hiện chính sách, pháp luật, các quy định của tổ chức mà bản thân người cán bộ
thanh tra lại là người vi phạm hoặc có vấn đề về tư cách đạo đức thì tính thuyết
phục không cao, công tác quản lý không thể đạt được hiệu lực, hiệu quả.

Tóm lại, phẩm chất chính trị và hành vi của người CCTTT không tự nhiên mà
có. Mỗi người CCTTT lại không dễ để có thể hội tụ đầy đủ những phẩm chất đó.
Cho dù các chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, giáo


21

dục tư cách đạo đức có chất lượng và được thực hiện thường xuyên; các quy định
về tiêu chuẩn ngạch, bậc, cơ chế thi cử có được đề ra và thực thi một cách chặt chẽ
thì quan trọng nhất, để trở thành người CCTTT hoặc làm tốt vai trò, trách nhiệm
của người công chức thanh tra thuế, chúng ta phải không ngừng học tập, tu dưỡng,
giữ gìn phẩm chất, rèn luyện kỹ năng công tác, vừa nghiên cứu tài liệu, sách vở, học
ở trường, ở lớp, vừa phải học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp và nhất là phải tự
rút ra cho mình những bài học, kinh nghiệm qua thực tiễn để có thể ứng dụng tri
thức của mình vào công tác thanh tra thuế ngày càng hiệu quả chuyên nghiệp hơn.
ii. Về chất lượng tri thức (nền cơ bản và chuyên ngành):
Chất lượng tri thức của đội ngũ là mức độ năng lực vận dụng những kiến thức
kĩ năng, kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ trong thực tiễn hoạt động thanh tra
thuế.
Hoạt động thanh tra nói chung & thanh tra thuế nói riêng rất đa dạng nên
những kinh nghiệm, kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ có thể ứng dụng trong
công tác thanh tra cũng rất đa dạng. Ví dụ như một cuộc thanh tra hành chính về
quản lý tài chính nội bộ, hay cuộc thanh tra đối với đối tượng nộp thuế phức tạp có
hoạt động kinh doanh trong nhiều lĩnh vực & phạm vi rộng không những trên địa
bàn một tỉnh, huyện mà trên toàn quốc… thì ngoài những kỹ năng chung về thanh
tra thuế, đòi hỏi người công chức thanh tra thuế phải có kinh nghiệm, kiến thức
chuyên sâu về tài chính và các lĩnh vực mà đối tượng thanh tra có hoạt động Sản
xuất kinh doanh. Hay là tham gia đoàn thanh tra liên ngành đối với lĩnh vực đất đai
thì ngoài nghiệp vụ chuyên môn về thuế cán bộ CCTTT còn phải biết và nắm vững
được kiến thức về quản lý tài chính, đất đai…

Từ những yêu cầu về kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ và tính chất công việc
mà người quản lý có thể đặt ra những tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với
CCTTT theo từng cấp, từng chuyên ngành hoặc từng vị trí công tác nhất định. Ví dụ
như để có thể trở thành Thanh tra viên thuế thì người cán bộ thanh tra phải được bồi
dưỡng về nghiệp vụ chuyên sâu về thuế và thanh tra cơ bản. Điều đó có nghĩa là khi
thực hiện nhiệm vụ, người thanh tra viên đó sẽ có khả năng ứng dụng những kinh


22

nghiệm, kiến thức được trang bị về thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố
cáo…vào thực tiễn công tác.
Từ những nội dung nêu trên, có thể rút ra những yêu cầu về kỹ năng chuyên
môn, nghiệp vụ của người CCTTT như sau:
Một là: Người CCTTT phải được đào tạo và có những kiến thức, kỹ năng cơ
bản để tham gia vào hoạt động quản lý, đồng thời phải có kỹ năng chuyên sâu về
chuyên ngành thuế & lĩnh vực phù hợp với vị trí công tác. CCTTT đặc biệt phải am
hiểu chính sách pháp luật thuế, về kế toán, tài chính, kinh tế. Phải là người được đào
tạo chuyên ngành tài chính, kế toán, kinh tế quản trị kinh doanh hoặc luật kinh tế.
Ngoài ra đối với cán bộ, công chức liên quan đến công nghệ thông tin, văn thư lưu
trữ thì cần được đào tạo quan các lĩnh vực liên quan, bằng cấp phải được đào tạo từ
trung cấp đến đại học trên đại học trở lên.
- Đối với CCTTT phải có được những kiến thức về thế giới quan, nhân sinh
quan, phương pháp luận…; phải có trình độ lý luận, tư duy logic, am hiểu kinh tế,
chính trị, lịch sử đặc biệt bắt buộc phải sử dụng thành thạo máy vi tính và các trang
thiết bị văn phòng để phục vụ cho công tác và yêu cầu hiện đại hoá của ngành; phải
có khả năng phân tích báo cáo tài chính, hồ sơ khai thuế, kỹ năng tổng hợp, quan hệ
phối hợp chia sẻ, thu hút động viên … do đó, nhất thiết phải được đào tạo cơ bản ở
trình độ đại học trở lên về một chuyên ngành nào đó. Chuyên ngành đào tạo đó phải
phù hợp với yêu cầu, vị trí công tác của người công chức thanh tra thuế. Trường

hợp do khách quan mà việc bố trí của tổ chức không phù hợp với chuyên ngành
được đào tạo, thì người CCTTT phải có biện pháp bổ túc, tăng cường những kỹ
năng chuyên ngành để đáp ứng yêu cầu công việc.
Hai là: Người CCTTT phải có kiến thức và kỹ năng pháp lý, am hiểu pháp luật
về thuế nói riêng, pháp luật nói chung và biết khai thác, sử dụng pháp luật trong
công tác.
Pháp luật thuế là một trong những công cụ quan trọng để quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Bất kỳ một tổ chức nào cũng phải có những nguyên tắc, quy định,
quy chế làm cơ sở hoạt động của tổ chức đó. Vì vậy, để có thể xem xét, đánh giá


23

việc thực hiện của một đối tượng nào đó thì người CCTTT nhất thiết phải có kỹ
năng về pháp lý văn bản pháp luật liên quan đến thuế để không những thấy được
việc thực hiện đó là đúng hay sai so với quy định mà còn phải vượt lên, thấy được
sự hợp lý hay bất hợp lý của quy định đó trong thực tiễn để từ đó có thể chấn chỉnh
việc thực hiện theo đúng quy định đã đề ra hoặc đưa ra những căn cứ kiến nghị sửa
đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp.
Do vậy về trình độ chuyên môn đối với đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra
thuế được quy định các tiêu chí chuyên môn, lý luận và quản lý nhà nước như sau:
* Tiêu chí chung: Cán bộ, công chức lãnh đạo ở các cấp đơn vị của Tổng cục
Thuế phải có bằng tốt nghiệp đại học; đối với cán bộ dưới 45 tuổi khi bổ nhiệm vào
các chức danh quản lý phải có bằng tốt nghiệp đại học hệ chính quy hoặc có bằng
thạc sỹ, tiến sỹ phù hợp với yêu cầu chuyên ngành của vị trí công tác, có trình độ lý
luận từ cao cấp trở lên, trình độ quản lý Nhà nước được đào tạo từ chuyên viên
chính trở lên.
* Tiêu chí cụ thể đối với một số loại chức danh và địa bàn:
- Các vị trí sau đây: CBCC thanh tra thuế phải có bằng tốt nghiệp đại học hệ
chính quy hoặc có bằng thạc sỹ, tiến sỹ phù hợp với yêu cầu chuyên ngành của vị trí

công tác (không phân biệt về độ tuổi); có trình độ lý luận từ cao cấp trở lên, trình độ
quản lý Nhà nước được đào tạo từ chuyên viên chính trở lên; Có trình độ B trở lên
theo tiêu chuẩn trong nước hoặc trình độ tương đương theo tiêu chuẩn quốc tế của
một trong các ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc.
+ Lãnh đạo từ cấp Phó Trưởng phòng thanh tra, kiểm tra nội bộ và tương
đương trở lên của Vụ, Cục và tương đương thuộc cơ quan Tổng cục Thuế (bao gồm
cả cấp Trưởng, cấp Phó của các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục và tương đương).
- Ở các địa phương miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì có thể xem xét
từng trường hợp cụ thể để bổ nhiệm vào chức danh quản lý.
- Đối với cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, trường hợp không đủ tiêu
chuẩn về trình độ chuyên môn đào tạo nhưng có năng lực nổi trội trong chỉ đạo thực


×