Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Luận văn thạc sỹ kinh tế Giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.27 KB, 96 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Phượng


ii

LỜI CẢM ƠN

Tác giả trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, cảm ơn Ủy ban chứng khoán Nhà
nước Việt Nam đã cung cấp số liệu và đặc biệt là TS. Đào Lê Minh đã tận tình giúp
đỡ tác giả trong quá trình hoàn thiện luận văn. Tác giả mong muốn nhận được nhiều
ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các nhà khoa học, các đồng nghiệp và những
người quan tâm đến vấn đề này để luận văn được hoàn thiện hơn, phát huy hiệu quả
trong thực tiễn về giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán Việt Nam.
Trân trọng!


iii

MỤC LỤC


iv



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Mức xếp loại công ty chứng khoán theo tiêu chí CAMEL.......................21
Bảng: 2.2 Thống kê số lượng công ty chứng khoán từ năm 2008-hiện nay.............38
Bảng: 3.1 Tỷ lệ an toàn tài chính (ATTC) thời điểm 30/06/2013 (Đã soát xét).......43
Bảng 3.2 Thị phần môi giới các công ty chứng khoán top 10 năm 2012 .................50
Bảng: 3.3. Hoạt động kinh doanh của CTCK 6 tháng đầu năm 2013 đã soát xét....53
Bảng: 3.4. Thống kê về vi phạm của công ty chứng khoán năm 2012-2013............54
Bảng:3.5Thực hiện tái cấu trúc đối với các công ty chứng khoán của UBCKNN...60
Bảng: 3.6. Biện pháp tái cấu trúc công ty chứng khoán của UBCKNN...................66


v

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 Mô hình cấu trúc giám sát theo đặc điểm thể chế........................................5
Hình: 2.1 Mô hình tổ chức bộ máy của UBCKNN Việt Nam..................................32
Hình 3.1 Số lượng tài khoản nhà nhà đầu tư giai đoạn 2007-2012...........................49


vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

ACBS

Công ty TNHH Chứng khoán ACB


AVS

Công ty chứng khoán Âu Việt

BTC

Bộ tài chính

CK

Chứng khoán

CTCK

Công ty chứng khoán

CT CP

Công ty cổ phần

CT TNHH

Công ty trách nhiệm hữu hạn

CT CKVN

Công ty chứng khoán Việt Nam

DNNN


Doanh nghiệp nhà nước

HOSE

Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

HNX

Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

NĐT

Nhà đầu tư

NHNCK

Người hành nghề chứng khoán

NHTM

Ngân hàng thương mại

QLNN

Quản lý nhà nước

SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán


TTCK

Thị trường chứng khoán

TTCKVN

Thị trường chứng khoán Việt Nam

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TP.HN

Thành phố Hà Nội

UBCK

Ủy ban chứng khoán

UBCKNN

Ủy ban chứng khoán nhà nước

UBCKVN

Ủy ban chứng khoán Việt Nam

VSD


Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu
được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường, là kênh dẫn vốn
vô cùng quan trọng tạo dòng vốn trung và dài hạn, nhất là đối với những nước đang
phát triển như Việt Nam cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
Trong đó, các công ty chứng khoán là chủ thể chính để thúc đẩy thị trường chứng
khoán hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả. Tuy nhiên, sau hơn 10
năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu tố bất định,
rủi ro có thể là nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ hoặc phá vỡ thế ổn định của thị trường.
Để thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển ổn định, bền vững công tác giám sát
tuân thủ thị trường chứng khoán nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng
được Chính phủ hết sức chú trọng triển khai trên thị trường. Tìm ra, phân tích, đánh
giá, tính chính xác các thông tin được công bố, tính minh bạch của nguồn vốn đầu
tư.....Tất cả như thách thức lớn, không những phải giám sát tuân thủ mà còn phải
cưỡng chế thực thi để đưa thị trường chứng khoán tiếp tục vượt qua khó khăn và đạt
được những kết quả tích cực trên mặt pháp lý, thể chế, huy động vốn và tính công

khai minh bạch, đây là lý do chính mà tác giả nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ với
tên gọi: 'Giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán trên thị trường chứng
khoán Việt Nam'
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đến nay đã có khá nhiều các đề tài khoa học, các luận văn thạc sĩ, sách giáo
khoa, các giáo trình viết về lĩnh vực này như: năm 2007 'Xây dựng hệ thống giám
sát thị trường chứng khoán' ; năm 2001 'Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động giám sát thị trường chứng khoán' ; năm 2010 'Nâng cao hiệu quả giám
sát giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt nam giai đoạn 2010 –
2015'; năm 2002 'Giải pháp hoàn thiện hệ thống quản lý chứng khoán tại thị
trường chứng khoán Việt nam' ...và theo nhận định của tác giả các công trình nghiên
cứu trên đây đã có nhiều điểm khác biệt so với đề tài mà tác giả dự kiến tiến hành.


2
Nhóm tài liệu trên trình bày nội dung chủ yếu về giám sát giao dịch, giám sát trên
tổng thể toàn thị trường chứng khoán chung.
Theo các tình hình nghiên cứu trên, có thể đảm bảo rằng luận văn của tác giả
với đề tài: "Giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán trên thị trường
chứng khoán Việt Nam" sẽ không trùng lặp với các đề tài đã công bố, mà phát triển
theo hướng nghiên cứu độc lập.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu về hoạt động giám sát tuân thủ từ các
cơ quan giám sát Nhà nước đối với các công ty chứng khoán trên thị trường chứng
khoán Việt nam.
* Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá về tổ chức bộ máy
giám sát tuân thủ của Nhà nước đối với các công ty chứng khoán Việt Nam.
+Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm về giám sát tuân thủ đối với các
công ty chứng khoán có hiệu quả.
+Đưa ra các những giải pháp hoàn thiện về giám sát tuân thủ đối với các

công ty chứng khoán Việt nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
+Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ đề tài
chỉ nghiên cứu trong phạm vi giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán
đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt nam.
+Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Giai đoạn từ năm 2008 – nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
+Phương pháp thống kê, tổng hợp, và phân tích dựa trên các số liệu thực tế;
+Phương pháp so sánh, đối chiếu dựa trên sự tương đồng về sự phát triển của
từng giai đoạn.
+Phương pháp suy luận logic, đi từ lý thuyết đến khảo nghiệm thực tế, từ đó
rút ra các vấn đề kinh tế nẩy sinh và đặt ra cách thức giải quyết từng vấn đề cho phù
hợp với công ty chứng khoán Việt nam.


3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về mô hình giám sát tuân thủ
đối với các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trên cơ sở
đó phân tích đánh giá thực trạng giám sát của Nhà nước đối với các công ty chứng
khoán cụ thể về:
+Những điểm mạnh cần phát huy và điểm cần khắc phục trong công tác thực
hiện giám sát các công ty chứng khoán của Nhà nước để từ đó, có các đề xuất và
giải pháp cụ thể phát triển hoàn thiện về giám sát đối với các công ty chứng khoán.
+Những kiến nghị cần thiết hoàn thiện về hoạt động giám sát tuân thủ đối các
công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục luận văn còn có
nội dung chính sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về giám sát chứng khoán và giám sát tuân thủ đối
với các công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán
trên thị trường chứng khoán Việt nam.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện giám sát tuân thủ đối với các công ty
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt nam.


4
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CHỨNG KHOÁN VÀ GIÁM SÁT
TUÂN THỦ ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Mô hình các cơ quan giám sát thị trường chứng khoán
1.1.1. Khái quát hệ thống giám sát tài chính
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có nền kinh tế, có lịch sử, chính trị, có đặc
trưng của từng nước và nền văn hóa riêng, đã xây dựng ra những bộ luật riêng điều
chỉnh các hoạt động kinh tế trong từng khu vực tài chính như (luật Ngân hàng,
Chứng khoán, Bảo hiểm) và bộ luật giám sát điều chỉnh hoạt động cơ quan giám sát
trong từng lĩnh vực. Các cơ quan giám sát đều đã xây dựng phù hợp với nền kinh tế
văn hóa sở tại nước đó nhằm: đảm bảo sự ổn định, vận hành thông suốt của hệ
thống tài chính và nền kinh tế; đảm bảo sự lành mạnh và an toàn của các thể chế tài
chính; đảm bảo đạo đức kinh doanh thị trường, tính liêm chính của thị trường và
bảo vệ người tiêu dùng. Vì vậy, các mô hình giám sát thị trường tài chính (TTTC)
của các nước trên thế giới rất đa dạng và phong phú, mỗi quốc gia lựa chọn cho
mình một mô hình thích hợp và đều có sự cải tiến thay đổi riêng khi môi trường
hoàn cảnh biến đổi. Dưới đây, nêu lên một số mô hình giám sát TTTC để thấy được
sự khác biệt giữa các mô hình giám sát.
*Mô hình giám sát theo thể chế
Mô hình giám sát theo thể chế rất đa dạng, tùy thuộc vào đặc điểm cấu trúc

của TTTC từng quốc gia. Tuy nhiên, có một vài điểm chung là luôn tồn tại ba cơ
quan chuyên biệt giám sát ba mảng của thị trường. Mỗi cơ quan này có kỹ thuật,
nghiệp vụ riêng và hoạt động dưới quy định nguyên tắc, chuẩn mực khác nhau
nhưng luôn có tính nhất quán trong hoạt động phối hợp, chia sẻ thông tin.
+Những lợi thế của mô hình giám sát theo thể chế
Nhờ sự chuyên môn hóa nên các cơ quan giám sát nắm bắt sâu sắc các đặc
điểm về hoạt động của đối tượng giám sát; việc giám sát sẽ diễn ra thường xuyên
hơn; cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu, khung pháp lý cho hoạt động giám sát được tổ
chức, quản lý nhất quán.


5
+Những bất lợi của mô hình giám sát theo thể chế

Hình 1.1 Mô hình cấu trúc giám sát theo đặc điểm thể chế
Cơ quan giám sát được thực hiện đồng thời giám sát hoạt động kinh doanh và
các hoạt động khác nên làm giảm tính hiệu quả của hoạt động giám sát; mô hình
này gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý yêu cầu giám sát sản phẩm tài chính phức
tạp, tích hợp nhiều tiện ích; hạn chế trong việc chia sẻ thông tin và sự phối hợp giữa
các cơ quan giám sát thị trường; hệ thống giám sát tài chính theo mô hình thể chế
không tận dụng được hiệu quả theo quy mô trong việc giám sát thị trường; mô hình
giám sát với đa cơ quan sẽ tốn kém hơn so với hệ thống giám sát tài chính hợp nhất
hoặc bán hợp nhất.
Trong mô hình giám sát theo đặc điểm thể chế, cấu trúc giám sát được phân
chia theo mảng thị trường, các cơ quan giám sát thực hiện chức năng giám sát ba
lĩnh vực kinh tế lớn ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm, mô hình này còn gọi là
“ba đỉnh” mỗi đỉnh tượng trưng cho một cơ quan giám sát một lĩnh vực kinh tế.
Việc giám sát được tiến hành trên tất cả các mặt ổn định hệ thống, giám sát thận
trọng, đạo đức thị trường và bảo vệ khách hàng.



6
Dưới đây, là một số hình thức phân phối giữa các chủ thể giám sát chuyên
ngành cơ bản sau: như thành lập nhóm giúp việc chuyên trách mảng thị trường tài
chính của người đứng đầu đất nước; giữa các cơ quan ký kết các bản ghi nhớ song
phương về chia sẻ thông tin và phối hợp hành động theo nguyên tắc tự nguyện; thiết
lập ủy ban ổn định tài chính với vai trò là một chủ thể điều tiết hoạt động phối hợp
giữa các thành viên là các cơ quan giám sát khác nhau; cơ cấu nhân sự chéo trong
đó mỗi cơ quan giám sát sẽ cử đại diện của mình tham gia ban điều hành của các cơ
quan giám sát còn lại.
* Mô hình hệ thống giám sát theo chức năng (sơ đồ thể hiện phụ lục 1)
Đây là mô hình giám sát các tổ chức tài chính được xác định dựa trên hoạt
động kinh doanh mà không quan tâm tới hình thức pháp lý của tổ chức tài chính đó.
Như vậy, nếu một tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ trên nhiều lĩnh vực thì nó sẽ
chịu sự giám sát từ nhiều cơ quan khác nhau. Ở mô hình này, tồn tại ít nhất một cơ
quan giám sát đối với từng hoạt động ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, hưu trí.
Những cơ quan này độc lập với nhau, thực hiện đồng thời nhiệm vụ giám sát và
đảm bảo an toàn trong lĩnh vực phụ trách. Giữa các cơ quan này có mối liên hệ hợp
tác với nhau và chịu sự chỉ đạo chung của cơ quan tư vấn quốc gia.
Về cơ bản, cấu trúc hệ thống luật giám sát trong mô hình giám sát thể chế và
mô hình giám sát theo chức năng không khác nhau. Sự khác nhau chủ yếu là một
định chế có thể chịu sự giám sát của các chủ thể giám sát với các bộ luật khác nhau.
Cơ chế vận hành của hệ thống giám sát theo chức năng của mỗi quốc gia rất đa
dạng, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế cũng như văn hóa, chính trị đặc trưng của nó.
Tuy nhiên, có thể thấy những đặc điểm chung như sau: có sự phân định rõ ràng
trách nhiệm trong việc giám sát của các cơ quan giám sát đối với các hoạt động
ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giám
sát nhằm nâng cao hiệu quả công tác giám sát; có các cơ quan giám sát toàn quyền
trong thực thi giám sát lĩnh vực của mình, từ việc cấp phép tới hoạt động kỷ luật.
+Những lợi thế mà mô hình giám sát theo chức năng mang lại

Tránh được tình trạng các cơ quan giám sát giải thích việc thực hiện một quy
định theo nhiều hướng khác nhau do cơ quan giám sát áp dụng quy tắc thống nhất


7
với cùng một loại hoạt động kinh doanh mà không cần biết đó là hoạt động của thực
thể nào. Mô hình cho phép xác định và giám sát một cách đầy đủ các tổ chức cung
cấp dịch vụ tài chính.
+Những bất lợi mà mô hình giám sát theo chức năng còn tồn tại
Đôi khi khó phân định một hoạt động kinh doanh thuộc về cơ quan giám sát
nào đang giám sát. Mô hình này thường làm mất thời gian của các tổ chức tài chính
do phải chịu sự giám sát của nhiều cơ quan giám sát. Điều này đồng nghĩa với việc
các cơ quan giám sát phải làm việc nỗ lực hơn. Đó là sự “thiếu thốn” thông tin giữa
các cơ quan giám sát. Dẫn đến thực tế rằng không có cơ quan giám sát nào đủ thông
tin liên quan tới tất cả hoạt động của một thực thể để có thể giám sát rủi ro hệ thống.
*Mô hình giám sát tài chính hợp nhất
Là mô hình chỉ tồn tại một cơ quan giám sát duy nhất thực hiện công tác
giám sát toàn bộ ba lĩnh vực của hệ thống dịch vụ và các hoạt động nghiệp vụ là
Ngân hàng, Chứng khoán và Bảo hiểm. Thực tế, đây là mô hình phù hợp trong
giai đoạn đầu của quá trình phát triển hệ thống tài chính với lợi thế chi phí hoạt
động thấp. Mô hình giám sát hợp nhất chia làm hai loại: hợp nhất hoàn toàn và
hợp nhất một phần. Mô hình giám sát hợp nhất chỉ gồm một cơ quan giám sát,
thực hiện giám sát toàn bộ lĩnh vực tài chính và thị trường vốn. Còn trong mô
hình giám sát hợp nhất từng phần, cơ quan giám sát thực hiện giám sát hai trên
ba lĩnh vực.
+Lợi ích của mô hình giám sát tài chính hợp nhất
Ngăn ngừa những mâu thuẫn và khoảng cách trong việc giám sát các ngành
thuộc lĩnh vực tài chính: sẽ tạo ra một “sân chơi” thống nhất cho các ngành thuộc
lĩnh vực tài chính; góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát nhờ quy mô và
phạm vi trong truyền tài, xử lý thông tin sẽ giảm chi phí trong hoạt động giám sát;

việc tách bạch chức năng giám sát ra khỏi đơn vị tổ chức giám sát kinh doanh cũng
như việc tách rời mục tiêu giám sát an toàn hệ thống ra khỏi mục tiêu giám sát an
toàn từng tổ chức và giám sát hoạt động kinh doanh sẽ nâng cao tính khả thi và hiệu
quả của cả ba mục tiêu này.


8
+Bất lợi của mô hình giám sát tài chính hợp nhất
Tính khả thi không cao khi thực hiện giám sát tất cả các cơ quan với cùng
một phương pháp mà không quan tâm tới các tổ chức này thuộc ngành nghề nào:
những mâu thuẫn về quan niệm, về văn hóa trong mô hình giám sát hợp nhất; liệu
cơ quan giám sát hợp nhất có ngày càng trở nên độc quyền và thiếu linh hoạt khi nó
là cơ quan giám sát duy nhất trong lĩnh vực tài chính.
Vì vậy, mỗi mô hình giám sát đều có những ưu, khuyết điểm riêng. Việc lựa
chọn mô hình giám sát nào phụ thuộc đặc điểm chính trị, văn hóa, cũng như đặc
điểm kinh tế từng quốc gia và là vấn đề khó khăn của các nhà tạo lập chính sách.
1.1.2. Mô hình giám sát chứng khoán
Trước hết ta có thể hiểu về giám sát chứng khoán là: "Giám sát chứng khoán
là dựa trên các hoạt động cụ thể, các số liệu, tài liệu, báo cáo để phân tích, đối
chiếu với các quy định trong văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, sớm phát hiện các dấu hiệu thiếu sót hoặc vi phạm của các chủ thể
hoạt động trên thị trường chứng khoán để xử lý vi phạm và buộc các chủ thể đó
điều chỉnh các hoạt động sai phạm theo khung pháp lý đưa hoạt động đó về trạng
thái cân bằng theo thị trường".
Từ khái niệm trên, ta thấy mô hình giám sát chứng khoán là tên gọi tổng hợp
của hệ thống giám sát, cơ cấu giám sát và thể chế giám sát do một quốc gia sử dụng
đối với sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK). Trên thế giới
chưa có quốc gia nào buông lỏng hay thờ ơ với TTCK quốc gia mình song do chế
độ chính trị, thể chế kinh tế, mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, tình hình
phát triển lịch sử, văn hóa, địa lý, các giai đoạn phát triển và mức độ phát triển kinh

tế khác nhau, khiến cho các mô hình giám sát khác nhau. Về cơ bản mô hình giám
sát có thể chia thành ba loại chủ yếu:(1) mô hình giám sát chứng khoán theo quy
định riêng;(2) mô hình giám sát chứng khoán tập trung;(3) mô hình giám sát chứng
khoán hỗn hợp.
*Mô hình giám sát chứng khoán theo quy định riêng
Là mô hình giám sát thông qua việc tự giám sát, tự ràng buộc giữa các chủ
thể hoạt động trong ngành chứng khoán. Các chủ thể tham gia trong ngành cùng


9
soạn thảo ra hệ thống quy tắc, lấy đó ràng buộc hành vi của bản thân, thực hiện tự
quản và giám sát trong nội bộ ngành, bảo vệ lợi ích của mình và tự bảo vệ sự phát
triển mạnh mẽ của ngành chứng khoán. Với mô hình này thì hiệp hội ngành chứng
khoán chịu trách nhiệm, chính phủ rất ít can thiệp vào lĩnh vực này (đại diện là cơ
chế giám sát của nước Anh). Ngoài Anh ra các nước như Hà Lan, Phần Lan, Thụy
Điển, Hồng Kông...đã từng áp dụng nhưng sau đó đã thay đổi mô hình giám sát
chứng khoán theo từng thời kỳ kinh tế, xét ưu điểm và nhược điểm sau:
+Ưu điểm mô hình giám sát chứng khoán theo quy định riêng
Chủ thể giám sát có thể thực thi một cách chuẩn xác và nhanh chóng những
biện pháp giám sát, phản ứng kịp thời với những biến động của thị trường. Xét về
phạm vi, giám sát theo quy định riêng rộng hơn vì liên quan tới lĩnh vực đạo đức và
luân lý mà pháp luật không thể bao trùm được. Xét về trình tự thời gian, giám sát
theo quy định riêng xuất hiện và tồn tại rất lâu trước khi có giám sát bằng pháp luật.
Do đó, hình thức giám sát này có thể căn cứ vào thay đổi và nhu cầu của thị trường
mà đưa ra những điều chỉnh linh hoạt đối với các hành vi thông qua pháp luật.
+Nhược điểm mô hình giám sát chứng khoán theo quy định riêng
Giám sát theo quy định riêng thường đặt trọng tâm vào tính hiệu quả hơn là
tính ổn định của thị trường cũng như việc bảo vệ lợi ích của những đối tượng trong
ngành chứng khoán, việc xử phạt những hành vi vi phạm chưa mang tính nghiêm
minh mà chỉ nhằm mục đích bồi thường và cảnh báo. Vì thế, mà quyền và lợi ích

của các nhà đầu tư chưa được bảo vệ một cách đầy đủ, cản trở sự phát triển của thị
trường. Không có hệ thống pháp luật mang tính chuyên môn thống nhất làm bệ đỡ
nên khó giải quyết các mâu thuẫn trên thị trường phát sinh. Mặt khác, các thành
viên trên thị trường tìm những khe hở trong hệ thống quy định riêng để "luồn lách"
làm lợi cho cá nhân. Do đó, biện pháp giám sát khá yếu, tính quyền uy của cơ cấu
giám quản không đủ mạnh.
*Mô hình giám sát chứng khoán tập trung
Là chế độ giám sát chứng khoán do một hoặc nhiều cơ quan nhà nước đảm
nhiệm, thông qua hệ thống lập pháp mang tính thống nhất toàn quốc. Nhà nước dựa


10
trên pháp luật để điều chỉnh và can thiệp vào những hành vi diễn ra trên TTCK (như
nước Mỹ) ngoài ra còn có Mêhico, Brazil, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, …..
+Ưu điểm mô hình giám sát chứng khoán tập trung
Phát huy chức năng giám sát một cách công bằng, khách quan, hiệu quả,
ngăn chặn một cách hữu hiệu tình trạng náo loạn của TTCK do cạnh tranh quá mức
gây nên. Có hệ thống lập pháp chứng khoán chuyên môn và hệ thống pháp quy
chứng khoán thống nhất, nâng cao hiệu quả và tính quyền uy của cơ cấu giám sát
chứng khoán, chú trọng hơn tới bảo về quyền lợi của nhà đầu tư. Nhà nước có công
cụ đặc trưng là luật pháp mang tính bắt buộc thực thi cao để giám sát và điều tiết thị
trường trong giai đoạn thị trường phát triển phức tạp đòi hỏi phải có một tổ chức đủ
quyền lực mạnh để thực hiện các hoạt động cưỡng chế thực thi.
+Nhược điểm mô hình giám sát chứng khoán tập trung
Do TTCK diễn biến phức tạp, pháp luật thường được ban hành chậm đi sau
thực tiễn, chính vì thế mà đơn vị giám sát chứng khoán khó có thể theo kịp được sự
thay đổi của thị trường, và nhiều khi có sự can thiệp về hành chính quá nhiều. Tri
thức, chuyên môn, đạo đức của đội ngũ giám sát đôi khi không đạt yêu cầu, kèm
theo tiền lương thấp với tư tưởng quan liêu tồn tại phổ biến, các yếu tố khác làm
giảm hiệu suất giám sát thị trường chứng khoán.

*Mô hình giám sát chứng khoán hỗn hợp
Thể chế giám sát chứng khoán theo mô hình hỗn hợp vừa nhấn mạnh tới tính
lập pháp tập trung thống nhất, đồng thời cũng chú trọng tới hệ thống quy định riêng
của ngành. Đây là loại mô hình giám sát có sự lựa chọn, nằm giữa mô hình giám sát
tập trung và mô hình giám sát có quy định riêng, tức là kết hợp giữa chế độ tự quản
của các tổ chức có quy định riêng với sự giám sát ở mức độ cần thiết của chính phủ.
*Ưu điểm mô hình giám sát chứng khoán hỗn hợp
Hỗ trợ khắc phục những điểm yếu của các mô hình kết hợp, từ đó phát huy
và càng tăng thêm ưu thế của từng loại hình giám sát. Hoạt động giám sát chứng
khoán vừa tập trung vừa thống nhất song không bị cứng nhắc mà khá linh hoạt và
hiệu quả (nước Đức là điển hình) ngoài ra còn có Ý, Thái Lan, ...do tình hình các


11
nước khác nhau nên nội dung và trọng điểm khi thực hiện thể chế giám sát theo mô
hình hỗn hợp cũng khác nhau. Hiện nay, các nước trên cũng đã có sự thay đổi.
Rõ ràng, các mô hình giám sát chứng khoán của các nước trên thế giới rất đa
dạng và phong phú, mỗi quốc gia đều lựa chọn cho mình một mô hình thích hợp và
đều có sự cải tiến, thay đổi riêng khi môi trường và hoàn cảnh biến đổi.
1.2. Giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán
1.2.1. Khái niệm giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán
Có nhiều cách hiểu khác nhau về giám sát tuân thủ đối với các công ty
chứng, theo nghĩa rộng, nói chung có thể hiểu là các cơ quan của chính phủ giao
quyền soạn thảo ra các pháp luật, pháp quy, điều lệ và chính sách, dựa theo đó để
tiến hành giám sát, khống chế và chỉ đạo đối với các chủ thể cụ thể là các công ty
chứng khoán (CTCK) và các hoạt động diễn ra trên các TTCK. Còn nếu hiểu theo
nghĩa hẹp, ta có thể hiểu về giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán là sự
theo dõi xem xét, làm đúng hoặc sai những điều đã quy định. Cho thấy rằng, công
ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị
trường chứng khoán vì vậy, giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán là

chỉ việc Nhà nước căn cứ vào qui phạm và pháp luật có các hành vi can thiệp vào
các hoạt động của công ty chứng khoán đạt mục đích hướng các công ty chứng
khoán hoạt động theo định hướng và phát triển của Nhà nước.
Trong phạm vi chuyên đề này, nội hàm của giám sát các công ty chứng khoán
được hiểu như sau: "Giám sát công ty chứng khoán là việc tổ chức giám sát vận dụng
pháp luật, biện pháp kinh tế và các biện pháp hành chính cần thiết để tiến hành giám
sát đối với các hành vi giao dịch chứng khoán, cung cấp các dịch vụ và hoạt động của
các công ty chứng khoán nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của những chủ thể tham gia thị
trường chứng khoán, thúc đẩy ngành chứng khoán phát triển lành mạnh, bảo đảm cho
thị trường chứng khoán vận hành bình thường và có trật tự".
Căn cứ vào cách hiểu này, cần phải làm rõ một số hàm ý dưới đây:
Thứ nhất, chủ thể giám sát các công ty chứng khoán là người chấp pháp và là
'trọng tài' của ngành chứng khoán. Đơn vị giám sát không nhất thiết phải là Nhà


12
nước, mà có thể là một tổ chức khác do Nhà nước giao quyền. Việc xác định chủ
thể giám sát các công ty chứng khoán của một quốc gia phải dựa vào những quy
định pháp luật có liên quan.
Thứ hai, mục đích của việc giám sát các công ty chứng khoán là thông qua
việc bảo vệ thị trường công bằng đúng đắn và công khai để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của những nhà đầu tư, đồng thời lấy đó để thúc đẩy ngành chứng khoán duy trì
và phát triển lành mạnh.
Thứ ba, giám sát các công ty chứng khoán phải căn cứ vào pháp luật, pháp
quy có liên quan và các biện pháp giám sát và cần thiết phải cưỡng chế thực thi để
giám sát các công ty chứng khoán nói riêng và thị trường nói chung.
Thứ tư, phạm vi là các công ty chứng khoán, về căn bản cơ quan giám sát nhà
nước cần thực hiện những nội dung như: ban hành các văn bản qui phạm pháp luật
điều chỉnh lĩnh vực hoạt động các công ty chứng khoán; giám sát việc tuân thủ pháp
luật của các công ty chứng khoán; điều tiết thị trường thông qua các hoạt động liên

quan như cấp phép, phê duyệt cho các công ty chứng khoán,... xử lý và cưỡng chế
những hành vi vi phạm.
1.2.2. Phân loại giám sát
Cho đến nay, phân loại để giám sát có nhiều tranh cãi, phân loại chi tiết để
giám sát đạt hiệu quả tối ưu nhất, nhưng để đơn giản hóa theo cách hiểu và cách
tiếp cận của hệ thống giám sát thị trường chứng khoán ta có thể chia làm hai loại:
(1) giám sát tuân thủ; (2) giám sát giao dịch.
1.2.2.1. Giám sát tuân thủ
Trước hết ta có thể hiểu về giám sát tuân thủ là" Để chỉ một hoạt động xem
xét có tính bao quát của cơ quan giám sát đối với cơ quan chịu sự giám sát, các
phương pháp, cách thức mà loại hình giám sát này áp dụng luôn luôn mang tính
chất quyền lực và nó trực tiếp mang lại những kết quả có tính pháp lý và thực thi".
+Thực tế, giám sát tuân thủ các công ty chứng khoán là việc giám sát các
hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán như: về chỉ tiêu an toàn tài chính;
về nhân sự hành nghề chứng khoán; về quản trị công ty chứng khoán; về cơ sở vật


13
chất công ty chứng khoán....xem đã làm đúng và có tuân thủ theo đúng các qui
phạm pháp luật.
+Là cơ quan giám sát kiểm tra, xem xét tính tuân thủ của các công ty chứng
khoán đối với hoạt động cung cấp các dịch vụ có liên quan đến giao dịch chứng
khoán trên thị trường có tổ chức như về hoạt động lưu ký, thực hiện quyền mua,
chuyển nhượng chứng khoán, ..... nếu có các sai phạm cơ quan giám sát yêu cầu
công ty chứng khoán điều chỉnh theo thị trường và yêu cầu này là mệnh lệnh buộc
các công ty chứng khoán phải thực hiện theo đúng luật pháp.
1.2.2.2 Giám sát giao dịch
Là giám sát việc thực hiện mua bán chứng khoán được niêm yết, đăng ký
giao dịch trên thị trường chứng khoán có tổ chức. Vậy việc giám sát giao dịch
chứng khoán là:"Cơ quan giám sát Nhà nước kiểm tra, xem xét các hoạt động giao

dịch chứng khoán nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý những hành vi giao dịch nội
bộ, thao túng thị trường và hành vi vi phạm các quy định luật pháp về giao dịch
chứng khoán và thị trường chứng khoán".
Từ khái niệm trên ta thấy Nhà nước cần giám sát các giao dịch chứng khoán sau:
+Giám sát các diễn biến giao dịch trong ngày, nhiều ngày, định kỳ; phân tích,
đánh giá và chịu trách nhiệm xác định rõ dấu hiệu vi phạm pháp luật đối với các
giao dịch bất thường .
+Giám sát về công bố thông tin và chế độ báo cáo theo quy định hiện hành
liên quan đến các giao dịch chứng khoán của công ty chứng khoán.
*Giống nhau của giám sát giao dịch và giám sát tuân thủ
Cùng chỉ những hoạt động giám sát, thực thi, cưỡng chế của Nhà nước đối
với các công ty chứng khoán để đảm bảo sự công bằng, công khai và minh bạch
trên thị trường chứng khoán, làm trong sạch, lành mạnh và giữ tính ổn định của thị
trường tài chính.
*Khác nhau của giám sát giao dịch và giám sát tuân thủ
Sự khác nhau giữa giám sát tuân thủ và giám sát giao dịch cho ta thấy rõ nhất
là giám sát tuân thủ sử dụng pháp luật, pháp quy, về giá trị (về chất) để giám sát các


14
công ty chứng khoán. Còn giám sát giao dịch thì giám sát về mua bán sản phẩm (là
chứng khoán) về khối lượng về số lượng về đo lường giá (về lượng).
*Đặc trưng của giám sát chứng khoán
Trước hết ta có thể hiểu các sản phẩm chứng khoán thực chất là một loại hình
chi trả trong tương lai. Giá trị của việc nhận chi trả này dựa vào tình hình tài chính
của người chi trả. Ví dụ, như giá của cổ phiếu đó được quyết định bởi việc dự báo
lợi nhuận thu được của tổ chức phát hành chứng khoán. Do đó, giám sát chứng
khoán có các đặc điểm khác biệt so với các loại hình giám sát khác với sản xuất và
các sản phẩm khác, do đó cho thấy tính đầu cơ của thị trường chứng khoán rất
mạnh, càng dễ bị thao túng và có tính rủi ro cao. Sự biến động của TTCK có ảnh

hưởng vô cùng mạnh mẽ đến hệ thống tài chính và kinh tế vĩ mô, mà công ty chứng
khoán là nơi trực tiếp kết nối giao dịch chứng khoán và các dịch vụ của sản phẩm
về chứng khoán từ các SGDCK và Trung tâm lưu ký chứng khoán tới các nhà đầu
tư trên thị trường . Vì vậy, Nhà nước không giám sát chặt chẽ và cưỡng chế thực thi
thì không đủ tính răn đe của pháp luật làm cho các công ty chứng khoán coi thường
luật pháp, từ đó bê trễ việc giám sát rủi ro làm mất tính thanh khoản và tính tuân thủ
của thị trường ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn thị trường và các nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoán.
Tóm lại, giám sát các công ty chứng khoán nói riêng và thị trường chứng
khoán nói chung là nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với Nhà nước và cần có hệ
thống giám sát chuyên biệt mang đầy đủ tính răn đe của luật pháp để thị trường hoạt
động một cách công bằng hiệu quả và ổn định.
1.2.3. Vai trò của giám sát tuân thủ
Vai trò của giám sát tuân thủ là để thực thi giám sát chứng khoán, vai trò
khác nhau có thể sinh ra những biện pháp giám sát chứng khoán khác nhau. Nói
chung, vai trò của giám sát chứng khoán đều là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
những người tham gia vào TTCK, thúc đẩy ngành chứng khoán liên tục phát triển
lành mạnh. Các cơ quan giám sát chứng khoán căn cứ vào pháp luật và quy phạm
pháp luật tương ứng với từng vai trò để tiến hành giám sát đối với những hoạt động
của các công ty chứng khoán, có thể liệt kê về vai trò khác nhau sau đây:


15
Một là, giám sát việc thực thi pháp luật chứng khoán không phải là để xóa bỏ
hết được các rủi ro trên TTCK; mà phải khẳng định rằng rủi ro luôn tồn tại ngay cả
trong một thị trường hoạt động công bằng, công khai. TTCK của các nước trên thế
giới đều quan tâm đến rủi ro, và nghiên cứu những ra những phương pháp tốt nhất
để ngăn chặn rủi ro thấp nhất, rủi ro chủ yếu có thể phá vỡ thị trường trên tổng thể,
do làm mất lòng tin của công chúng đầu tư trên thị trường.
Hai là, công tác giám sát việc thực thi luật pháp chứng khoán có vai trò quan

trọng bậc nhất của cơ quan giám sát Nhà nước đối với các công ty chứng khoán.
Vai trò của giám sát các công ty chứng khoán để góp phần tạo môi trường kinh
doanh công bằng, công khai, đạt hiệu quả và bảo vệ nhà đầu tư.
Ba là, giám sát sẽ tạo ra một 'sân chơi' công bằng cho các công ty chứng
khoán hoạt động trên thị trường chứng khoán. Sự nhất quán trong các quy định và
trong giám sát sẽ đảm bảo các hoạt động kinh doanh của chủ thể minh bạch, ngăn
chặn việc tận dụng các lợi thế về chính sách để kiếm lợi nhuận.
Bốn là, giám sát các công ty chứng khoán nhằm giám thiểu những loại rủi ro,
phòng ngừa những tình huống không mong đợi để thị trường có thể phát triển mang
tính ổn định và bền vững.
Ngoài các vai trò chủ đạo trên giám sát tuân thủ còn có các vai trò quan trọng sau:
*Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính
TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ
chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp một, do thực hiện các hoạt động
như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không những huy động một
lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính
thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì chứng khoán qua đợt phát hành
sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp hai, điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm
lý yên tâm cho người đầu tư. Trên thị trường cấp hai, do thực hiện các giao dịch
mua và bán các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và
ngược lại, những hoạt động đó làm tăng tính thanh khoản của tài sản tài chính.


16
*Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường (thông qua hoạt động tự doanh
hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường).
Chúng ta thấy, giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để
đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua công ty chứng
khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán và CTCK là

những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường
thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà phát hành
đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch
đều có sự tham gia định giá của công ty chứng khoán.
CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo
vệ những khoản đầu tư của khách hàng và lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã
giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
1.2.4. Đặc điểm của giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán
Thị trường chứng khoán luân tiềm ẩn những rủi ro gắn liền với biến động của
nền kinh tế lẫn sự lưu động khó lường của luồng vốn trên phạm vi ngày càng rộng,
sự khó lường trong hành vi ứng xử của các thành viên thị trường, hoạt động của các
CTCK là một điển hình.Vì vậy, giám sát công ty chứng khoán là nhằm giám sát rủi
ro, phòng ngừa những tình huống không mong đợi để thị trường phát triển một cách
lành mạnh.
Vì lý do đó, nên có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, sản phẩm chứng khoán là vốn hư không, bản thân chứng khoán
không có giá trị nội tại, mà chỉ đại diện cho quyền chiếm hữu đối với số lượng vốn
đóng góp nhất định. Ta xét thấy vì, chứng khoán dùng để mua bán nên với có giá trị
trao đổi. Như vậy, khác với các sản phẩm thông thường khác, chứng khoán có thể
phát hành với số lượng vô hạn tương đối mà gần như không cần tới giá thành.
Thứ hai, sản phẩm chứng khoán còn là một sản phẩm "niềm tin", là sản phẩm
thông tin người mua và người bán dựa vào các thông tin có liên quan tới sản phẩm
chứng khoán của tổ chức phát hành đó để mà phán đoán, dự báo giá của nó tăng hay
giảm trong tương lai. Trên thực tế các nhà đầu tư trên thị trường thường ở vị trí yếu
thế về tiệp cận thông tin của đơn vị phát hành.


17
Thứ ba, tính hư không của sản phẩm chứng khoán cũng đã quyết định việc
mua và bán chứng khoán chứ không phải để tiêu dùng và sử dụng, mà là đầu tư dài

hạn hoặc ngắn hạn hoặc (đầu cơ) để thu lợi nhuận từ việc bán kênh giá chứng
khoán. Sự thay đổi giá chứng khoán ngoài việc thể hiện biến động giá trị đầu tư do
những biến động thông thường của thị trường thực tế, đôi khi còn phản ánh những
biến động bất thường không có liên quan đến trạng thái vận động của nguồn vốn
thực tế, khiến giá cả sản phẩm chứng khoán không xác định và có tính dự đoán.
1.2.5. Nội dung giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán
Trải qua nhiều giai đoạn đến nay, nội dung giám sát các công ty chứng khoán
không còn là vấn đề tranh cãi, song giám sát với nội dung như thế nào? Có thể liệt
kê về nội dung giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán sau đây:
*Nội dung thứ nhất, tuân thủ quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của
các công ty chứng khoán. Ngày thành lập công ty chứng khoán, quyết định thành
lập, giấy phép hoạt động công ty, nơi đặt trụ sở, ngày khai trương, ngày hoạt động
chính thức của CTCK. Giám sát về ngày thành lập đối chiếu với thực tế có những
công ty hoạt động trước nhiều ngày so với ngày thực tế cấp giấy phép thành lập,
quyết định thành lập và nơi đặt trụ sở chính theo quy định, bổ sung giấy phép thành
lập và hoạt động, công bố thông tin khi hoạt động, công ty có cố ý làm sai sự thật
hoặc trái quy định của pháp luật không?
+Về những lĩnh vực kinh doanh được cấp phép của các công ty chứng khoán
Lĩnh vực môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính, những lĩnh
vực này đã đủ điều kiện hoạt động như: về nhân sự, vốn theo quy định, tuân thủ về
quản trị công ty; ban giám đốc và cán bộ nhân viên (theo dõi chi tiết từng cá nhân,
theo mẫu lý lịch trích ngang, ngày quyết định bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ); các
chi nhánh, điểm giao dịch với khách hàng, các vấn đề khác liên quan.
+Về giám sát theo dõi những thay đổi hoạt động của công ty chứng khoán
CTCK có thay đổi như: mục đích kinh doanh; đại diện tại sàn giao dịch, hoặc
các thiết bi công nghệ thông tin quy định đã đáp ứng đủ chưa; bổ sung hoặc sửa đổi:
điều lệ công ty, ban giám đốc, thay đổi bổ sung quy chế hoạt động kinh doanh của


18

công ty, thay đổi trụ sở thay đổi vốn điều lệ, thay đổi cổ đông lớn của công ty; giám
sát theo dõi các vi phạm và hình thức xử phạt: cảnh báo, phạt tiền, hạn chế giao
dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán, đình chỉ giao dịch tại trung tâm giao dịch
chứng khoán, đình chỉ tư cách thành viên, khai trừ tư cách thành viên.
*Nội dung thứ hai, tuân thủ quy định pháp luật về tình hình tài chính của các
công ty chứng khoán. Công ty có thực hiện tuân thủ đúng qui phạm, khuân khổ
pháp luật, quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý. Công ty chứng
khoán đang có những sai phạm gì; phân tích tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh, khả năng thu nhập từng hoạt động nghiệp vụ: tự doanh, môi giới, bảo lãnh
phát hành, tư vấn đầu tư; phân tích chất lượng tài sản có; phân tích về vốn, thanh
khoản ròng. Từ kết quả phân tích này chọn lọc ra những công ty chứng khoán đang
hoạt động bình thường hay rơi vào diện bị cảnh báo, kiểm soát.
Vậy, việc tuân thủ về tình hình tài chính và các chỉ tiêu an toàn tài chính tại
công ty chứng khoán vô cùng quan trọng trong nội dung giám sát của Nhà nước
*Nội dung thứ ba, giám sát rủi ro đối với các CTCK trên thị trường. Rủi ro là yếu
tố vô cùng quan trọng đối với thực hiện giám sát công ty chứng khoán trên thị
trường. CTCK muốn hoạt động phải thiết lập hệ thống rủi ro có đầy đủ ban bệ và
các quy trình chi tiết ban hành tùy theo từng hoạt động kinh doanh của CTCK. Yếu
tố cơ bản của quy định mới về vốn là phương pháp giám sát an toàn vĩ mô đề cập
tới rủi ro hệ thống, là mối quan hệ phụ thuộc vào những rủi ro chung của các công
ty chứng khoán, đề cập tới các thước đo giám sát an toàn vĩ mô được sử dụng để bổ
sung cho phương pháp giám sát an toàn vi mô tới chi tiết từng CTCK. Thể hiện qua
quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với công ty chứng khoán tỉ lệ thanh khoản,
giúp công ty chứng khoán có khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với những căng
thẳng thanh khoản. Quy định này yêu cầu các công ty chứng khoán nắm giữ những
mã chứng khoán có tính thanh khoản cao và có chất lượng đảm bảo đáp ứng nhu
cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn. Cơ quan giám sát buộc phải sử dụng
nhiều quy trình báo cáo để theo dõi các tỉ lệ trong quá trình chuyển đổi đảm bảo các
tiêu chuẩn được tính toán như dự kiến.



19
1.2.6. Phương pháp giám sát tuân thủ đối với các công ty chứng khoán
Một là, việc giám sát công ty chứng khoán được thực hiện thông qua báo cáo
định kỳ và báo cáo bất thường của CTCK hoặc thông qua các kênh thông tin khác:
+ Giám sát thường xuyên, thu thập thông tin, hàng ngày, thông qua “điểm
báo” do bộ phận phụ trách của ban quản lý kinh doanh cung cấp hoặc thông tin có
được từ các nguồn khác nhau như: phương tiện thông tin đại chúng, website của
CTCK, diễn đàn, từ các nguồn thông tin khác, nếu phát hiện có dấu hiệu bất thường,
các chuyên viên có trách nhiệm tìm hiểu rõ về thông tin đó để báo cáo lãnh đạo ban.
+ Theo dõi, kiểm tra các báo cáo bất thường hoặc báo cáo theo yêu cầu của
Ủy ban xử lý thông tin, trong vòng từ một đến ba ngày làm việc tùy theo tính chất
thông tin, chuyên viên phải tìm hiểu, đề xuất phương án xử lý và soạn tờ trình. Lãnh
đạo Ủy ban, xin ý kiến chỉ đạo xử lý đối với từng sự vụ nhất định. Trường hợp lãnh
đạo yêu cầu đi kiểm tra bất thường, chuyên viên cần xử lý theo công việc.
Hai là, giám sát định kỳ đối với công ty chứng khoán được thực hiện định kỳ
hàng tháng, quý, năm theo quy định hiện hành.
+Giám sát trực tiếp, việc giám sát trực tiếp được thực hiện thông qua hình thức
kiểm tra tại chỗ đối với CTCK, theo yêu cầu của lãnh đạo (kiểm tra bất thường) hoặc
theo chương trình kế hoạch đã được lãnh đạo phê duyệt (kiểm tra định kỳ).
+Mục đích của việc kiểm tra: nhằm kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, nắm
tình hình hoạt động thực tế của công ty chứng khoán; qua kiểm tra đánh giá tính
hiệu quả, hiệu lực trong việc thực thi các quy định hiện hành và đề xuất giải pháp
hoàn thiện.
* Kiểm tra bất thường, ban quản lý kinh doanh lên kế hoạch, chủ trì hoặc
phối hợp với các đơn vị có liên quan trong Uỷ ban để thực hiện kiểm tra bất thường
đối với CTCK dựa trên: nguồn tin từ các phương tiện thông tin đại chúng; phản ánh,
tố cáo, khiếu nại từ các cá nhân, tổ chức; theo yêu cầu giám sát; theo chỉ đạo của
lãnh đạo
* Kiểm tra định kỳ, hàng năm căn cứ vào số lượng CTCK và yêu cầu giám

sát, trên cơ sở báo cáo giám sát tháng, quý, năm, ban quản lý kinh doanh sẽ lựa


×