Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Luận văn thạc sỹ Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện thái thụy, tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.8 KB, 84 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan bài luận văn “Quản lý nhà nước về Vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình” là công trình khoa học
nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Tất cả các nội dung của công trình nghiên cứu này
hoàn toàn được hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi.
Các số liệu và kết quả được nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết.
Tác giả

Ngô Thị Xuân


ii
LỜI CẢM ƠN
Trong khoảng thời gian thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế,
tác giả đã gặp nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị tài liệu, thu thập dữ liệu sơ cấp và
thứ cấp. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ tận tình các thầy cô giáo
trường Đại học Thương mại, các cán bộ quản lý Khoa sau Đại học, cô giáo hướng
dẫn, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt quá trình học tập và công tác.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Ban Giám hiệu trường Đại
học Thương mại, Khoa sau Đại học đã động viên và tạo mọi điều kiện để tác giả có
thể yên tâm với công việc nghiên cứu.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn cô giáo PGS.TS Đỗ Thị Ngọc - người đã
hướng dẫn chỉ bảo tận tình, động viên tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ công nhân viên các Bộ, Ban
ngành gồm: Bộ Công thương, Bộ Y tế, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Sở Công
thương tỉnh Thái Bình, Trung tâm Y tế huyện Thái Thụy, Ủy ban Nhân dân huyện
Thái Thụy đã hỗ trợ cung cấp tài liệu để tác giả có cơ sở thực tiễn hoàn thành luận
văn.


Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu bằng tất cả
năng lực và sự nhiệt tình của bản thân, tuy nhiên luận văn này không thể tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy, cô và đồng nghiệp để hoàn thiện hơn nữa nhận thức của mình.
Xin chân thành cảm ơn!


iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM...........................................................10
0.1 Khái niệm, phương pháp và sự cần thiết phải tăng cường Quản lý nhà nước về
Vệ sinh an toàn thực phẩm................................................................................................10
0.1.1 Khái niệm Quản lý nhà nước về Vệ sinh an toàn thực phẩm.........................................10

Bản đồ 2.1. Bản đồ hành chính huyện Thái Thụy – tỉnh Thái Bình.................25
Bảng 2.1: Thể hiện các tiêu chí về thông tin VSATTP mà người sản xuất, tiêu
dùng và người bán hàng nhận được.....................................................................32
Biểu đồ 2.5: Đánh giá hiệu quả sử dụng các phương pháp QLNN về VSATTP
34
Bảng 2.2: Số lần đi tuyên truyền của cơ quan quản lý nhà nước về VSATTP
trên địa huyện Thái Thụy.....................................................................................35
Bảng 2.3: Kết quả điều tra và xử lý vi phạm VSATTP ....................................36
trên địa bàn huyện Thái Thụy.............................................................................36
Bảng 2.4: Cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP.................36
Sơ đồ 2.1: Hệ thống QLNN về VSATTP theo chiều dọc....................................39

DANH MỤC VIẾT TẮT
VSATTP


Vệ sinh an toàn thực phẩm

ATTP

An toàn thực phẩm

NĐTP

Ngộ độc thực phẩm

QLNN

Quản lý nhà nước

CSKDDVAU

Cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống

TP

Thực phẩm

BYT

Bộ Y tế

TCQG

Tiêu chuẩn Quốc gia



iv

UBND

Ủy ban nhân dân

TAĐP

Thức ăn đường phố

NTD

Người tiêu dùng

CLVSATTP

Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm

BCĐ

Ban chỉ đạo

NN&PTNN

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

DANH MỤC BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ, BẢNG
Bản đồ 2.1. Bản đồ hành chính huyện Thái Thụy – tỉnh Thái Bình..........Error:

Reference source not found
Bảng 2.1: Thể hiện các tiêu chí về thông tin VSATTP mà người sản xuất, tiêu
dùng và người bán hàng nhận được..............Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.5: Đánh giá hiệu quả sử dụng các phương pháp QLNN về VSATTP...
.................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 2.2: Số lần đi tuyên truyền của cơ quan quản lý nhà nước về VSATTP
trên địa huyện Thái Thụy............................... Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Kết quả điều tra và xử lý vi phạm VSATTP Error: Reference source
not found


v
trên địa bàn huyện Thái Thụy........................ Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP..........Error:
Reference source not found
Sơ đồ 2.1: Hệ thống QLNN về VSATTP theo chiều dọc Error: Reference source
not found


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) giữ vị trí rất quan trọng công tác bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; góp phần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh,
duy trì và phát triển nòi giống; tăng cường sức khỏe để lao động học tập, thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế – văn hóa – xã hội, thể hiện nếp sống văn minh của dân tộc,
nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân.
Những năm gần đây, công tác bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm
(ATTP), phòng chống ngộ độc thực phẩm (NĐTP) và các bệnh truyền qua thực
phẩm ngày càng được các tầng lớp trong xã hội quan tâm. Sự vào cuộc quyết liệt

của các cơ quan quản lý, của các ngành chức năng và ý thức, trách nhiệm của người
sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng đã khiến cho công tác này đạt được những
tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, trong thời gian qua trên địa bàn cả nước vẫn xảy ra một số
vụ NĐTP ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Ngày 13/8/2012, tại Hội thảo “ Ngộ
độc bếp ăn tập thể khu công nghiệp – Thực trạng và giải pháp”, TS. Trần Quang
Trung - Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm cho biết, trong 5 năm gần đây, toàn
quốc đã ghi nhận 927 vụ NĐTP với 30.733 người bị ngộ độc, trong đó có 229 người
tử vong. Tính trung bình mỗi năm xảy ra 185 vụ NĐTP với 6.147 người mắc và 46
người chết/năm. Tại Hội nghị giao ban toàn quốc về đảm bảo ATTP năm 2012, báo
cáo của Bộ Y tế so với năm 2011, trong năm 2012 số vụ NĐTP tăng 15 vụ, số
người mắc tăng 643 người, số đi viện tăng 308 người và số tử vong tăng 3 trường
hợp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngộ độc trên, một trong những
nguyên nhân là do kiến thức, thực hành về ATTP của người trực tiếp chế biến
không tốt, điều kiện vệ sinh cơ sở không đảm bảo, nguyên liệu thực phẩm không an
toàn, phương pháp chế biến, bảo quản không đúng quy định. Đây là vấn đề rất quan
tâm của chính quyền và ngành Y tế trong công tác bảo đảm ATTP. Chính vì vậy,
công tác phòng chống NĐTP và các bệnh truyền qua thực phẩm là một trong 5
nhiệm vụ cấp bách được Thủ tướng Chính phủ quy định tại Chỉ thị số 06/2007/CT-


2
TTg. Vấn đề ATTP tại các bếp ăn là một trong những nội dung trọng tâm được quy
định trong Luật ATTP được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày
17/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01/7/2011.
Thái Thụy là một huyện ven biển giáp với Hải Phòng và có cảng biển Diêm
Điền, đang trên đà phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề VSATTP trên địa bàn huyện
Thái Thụy cũng đặt ra cho các cơ quan quản lý Huyện Thái Thụy nhiều thách thức:
Những yếu kém trong công tác quản lý, thực thi và thi hành; sự bất cập trong các
văn bản quản lý nhà nước; sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản
lý nhà nước; tồn tại nhiều bất cập trong công tác tuyên truyền, giáo dục về

VSATTP. Vì vậy, quản lý nhà nước về VSATTP cũng được xem là vấn đề nổi cộm
cần giải quyết hiện nay.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm là vấn đề rất cần thiết. Vì vậy, luận văn tiến hành nghiên cứu đề tài “Quản lý
nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái
Bình”.
2. Tổng quan khách thể nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam và nước ngoài có rất nhiều công trình nghiên cứu đề tài về
QLNN đối với các đối tượng khác nhau. Với cách tiếp cận cũng như phương pháp
nghiên cứu khác nhau, mỗi tác giả đã tìm ra cho mình những hướng đi phù hợp để
đạt được hiệu quả cao.
An toàn vệ sinh thực phẩm đã và đang là một vấn đề được toàn xã hội quan
tâm. Trong những năm gần đây, nền kinh tế của nước ta chuyển sang cơ chế thị
trường. Các loại thực phẩm được sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập
vào Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản
xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong
pha chế nước giải khác, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò
chả, … Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình
sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành
phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý.


3
Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra. Vì vậy, QLNN về
VSATTP đang được các cơ quan chức năng tập trung nghiên cứu một cách nghiêm
túc.
Trong nghiên cứu về: “Quản lý nhà nước về chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm” của GS. TS Nguyễn Đình Phan đã chỉ ra được những tồn tại trong quản lý
chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm như: Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước còn
yếu, phân tán và thiếu sự đồng bộ. Chưa quan tâm đến việc đầu tư xây dưng các cơ

sở giết mổ gia súc, gia cầm, chế biến thực phẩm theo công tác công nghiệp. Các văn
bản phục vụ cho công tác quản lý nhà nước còn chậm, thiếu đồng bộ, nhiều quy
định lạc hậu, đặc biệt là các văn bản kỹ thuật. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ
ra những tác động tích cực trong quản lý nhà nước như: Đã có nhiều cố gắng trong
việc sửa và ban hành luật thủy sản, pháp lệnh về chất lượng hàng hóa, thú y.
Trong nghiên cứu về: “Kiểm soát an toàn thực phẩm và nâng cao chất
lượng thực phẩm” của giáo sư Hà Duyên Tư. Tác giả đã phân tích rằng: Kiểm soát
chất lượng VSATTP bao gồm các yếu tố: vật lý, hoá học và vi sinh. Nghiên cứu các
giải pháp mới cho kiểm soát chất lượng thực phẩm: đề xuất các giải pháp công
nghệ, phát triển các phương pháp thử nhanh. Xây dựng qui trình kiểm soát chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và hướng tới xây dựng hệ thống chất lượng. Hoàn
thiện và nâng cao chất lượng thực phẩm dựa trên các nghiên cứu về thị hiếu người
tiêu dùng và chất lượng an toàn thực phẩm. Trong đề tài nghiên cứu này tác giả đặc
biệt chú trọng đến vai trò kiểm soát an toàn thực phẩm của nhà nước.
Trong nghiên cứu của tác giả Chu Thế Vinh về đề tài: “Thực trạng An toàn
vệ sinh thực phẩm ở các cơ sở ăn uống và công tác quản lý tại Thành phố Đà Lạt,
tỉnh Lâm Đồng năm 2012 - 2013” , tác giả đã có nhìn nhận sâu sắc về thực trạng
VSATTP tại thành phố Đà Lạt. Nghiên cứu đã đánh giá thực trạng điều kiện vệ
sinh ATTP tại cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống (CSKDDVAU) tại Thành phố Đà
Lạt, tỉnh Lâm Đồng sẽ phần nào giúp cho ngành Y tế và các ngành liên quan trong
việc phối hợp thực hiện tốt hơn công tác bảo đảm ATTP trong thời gian tới, hướng
đến mục tiêu bảo đảm 100% CSKDDVAU đạt tiêu chuẩn ATTP theo quy định của


4
Bộ Y tế. Đồng thời, đưa ra khuyến nghị đối với các nhà làm chính sách cần phải có
lộ trình thích hợp cho việc xây dựng và thực thi chính sách về ATTP, nhằm đảm
bảo công tác phòng ngừa NĐTP và các bệnh truyền qua thực phẩm, góp phần nâng
cao tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe cho nhân dân Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm
Đồng. Nghiên cứu này đã khắc phục được một số hạn chế của các nghiên cứu trước

là xác định được mối liên quan giữa kiến thức với thực hành của người chế biến
thực phẩm ; đồng thời nghiên cứu này cũng tìm thấy rõ hơn sự cần thiết và tầm
quan trọng đặc biệt về tính chuyên nghiệp của người CBTP làm việc tại
CSKDDVAU tại Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng trong việc thực hiện các quy
định về bảo đảm ATTP; Ngoài ra, nghiên cứu còn thực hiện xét nghiệm vi sinh với
03 chỉ tiêu/mẫu đối với một số mẫu dụng cụ thớt dùng riêng cho thực phẩm chín,
tay người phục vụ, thức ăn chín để xác định tỷ lệ ô nhiễm thực phẩm đã qua chế
biến. Tuy nhiên, do điều kiện về nguồn lực và thời gian có hạn, nên nghiên cứu chỉ
được tiến hành tại 369 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Thành phố Đà Lạt. Do
đó, kết quả của nghiên cứu không suy rộng ra địa phương khác, nghiên cứu này có
thể là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên, từ trước tới nay chưa có một công trình nghiên cứu tổng hợp độc
lập nào về quản lý Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình. Đây là một khoảng trống trong nghiên cứu cần khắc phục,
xuất phát từ tầm quan trọng của các chính sách QLNN cũng như thực tế đòi hỏi.
Vì vậy, đề tài: ”Quản lý Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình” là một công trình nghiên cứu tiếp theo gắn với
địa bàn huyện Thái Thụy trong thời gian hiện nay. Qua đó, hy vọng có thể bổ sung,
hoàn thiện hơn những kết luận nghiên cứu trước đây nhằm góp phần hoàn thiện
việc QLNN về VSATTP ở các địa phương trong cả nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Với những lý do trên, luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
Một là, hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận đối với QLNN về VSATTP
trên địa bàn huyện Thái Thụy.


5
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng Vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Ba là, đề xuất một số giải pháp tăng cường Quản lý nhà nước về Vệ sinh an

toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Thái Thụy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu QLNN đối với VSATTP trên địa bàn huyện Thái Thụy,
trong đó tập trung vào hoạt động QLNN đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm thuộc thị trấn Diêm Điền huyện Thái Thụy gồm cơ sở sản xuất, chế biến thực
phẩm (81 cơ sở) và cơ sở kinh doanh thực phẩm (30 cơ sở).
b. Phạm vi nghiên cứu
Để phù hợp với yêu cầu của luận văn cũng như điều kiện cho phép về thời
gian, kinh phí và năng lực của bản thân, phạm vi nghiên cứu được giới hạn như sau:
Nội dung nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, đánh giá nội dung quản lý nhà nước về VSATTP trên
địa bàn huyện Thái Thụy. Trong đó, chú trọng vào 4 nội dung chủ yếu là: Hoạch
định, ban hành chính sách về VSATTP trên địa bàn huyện; tổ chức thực hiện chiến
lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch vệ sinh an toàn thực phẩm; thanh tra, kiểm
tra về VSATTP; xử lý, khắc phục các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm. Trên
cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện QLNN đối với VSATTP trên địa bàn huyện.
Không gian nghiên cứu
Luận văn thu thập số liệu thứ cấp về thực trạng QLNN về VSATTP trên
phạm vi toàn huyện; tuy nhiên luận văn giới hạn điều tra khảo sát đối với các cơ sở
sản xuất, chế biến kinh doanh thực phẩm trên đia bàn thị trấn Diêm Điền.
Thời gian nghiên cứu
Luận văn xem xét, đánh giá chính sách quản lý nhà nước về VSATTP trên
địa bàn huyện Thái Thụy trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2014. Đề xuất giải pháp
kế hoạch giai đoạn 2015-2020.


6
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thấy rõ được thực trạng Quản lý nhà nước về VSATTP trên địa bàn

huyện diễn ra như thế nào và đưa ra các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước trên
địa bàn huyện, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
a. Phương pháp thu thập dữ liệu: gồm phương pháp thu thập dữ liệu thứ
cấp và phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Luận văn thu thập, phân loại tài liệu đã được công bố đã được công bố về
thực trạng và chính sách nhà nước nhằm quản lý VSATTP như: các đề án, đề tài,
sách tham khảo, các bài báo khoa học chuyên ngành, các luận văn tiến sỹ, đồng thời
thu thập, phân loại các văn bản nhà nước về VSATTP nói chung và những văn bản
nhà nước được huyện Thái Thụy áp dụng nói riêng đã ban hành như: Luật, Nghị
định, Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tư, liên quan đến VSATTP và quản lý
nhà nước về VSATTP.
Luận văn còn khai thác và sử dụng các số liệu trực tuyến trên Internet của
Tổng cục thống kê, Bộ Y tế, các tổ chức Chính phủ, đồng thời sử dụng các quan
điểm, đánh giá, nhận định của các chuyên gia về chính sách quản lý nhà nước về
VSATTP đã công bố.
Sau khi có các dữ liệu thứ cấp, tiến hành đánh giá, lựa chọn, sử dụng dữ liệu
phù hợp, kết hợp với phỏng vấn, hình thành nên khung lý thuyết nghiên cứu đồng
thời đánh giá thực trạng và tác động của chính sách nhà nước nhằm quản lý
VSATTP giai đoạn từ năm 2012 đến 2014.
 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp: Gồm phương pháp phỏng vấn,
phương pháp điều tra và phương pháp quan sát
+ Phương pháp phỏng vấn
Luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn nhằm thu thập thông tin dựa trên
cơ sở quá trình giao tiếp bằng lời nói có tính đến mục đích đặt ra. Có 2 loại phỏng
vấn bao gồm: Phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm. Mỗi một loại đều có những


7
ưu nhược điểm riêng. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn sử dụng phương pháp phỏng

vấn cá nhân như sau:
Đối tượng: lãnh đạo, cán bộ quản lý, nhân viên phụ trách công tác quản lý
nhà nước về VSATTP trên địa bàn huyện
Số lượng dự kiến phỏng vấn là từ 7 đến 10 người
Cách thức phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp
Để kết quả thu được cao nhất, người nghiên cứu chuẩn bị trước những câu
hỏi sẽ phỏng vấn đối tượng phỏng vấn, bảng hướng dẫn phỏng vấn sâu đối với cán
bộ phụ trách ATTP của Trung tâm Y tế, Phòng Y tế và Phiếu phỏng vấn cán bộ
thuộc Ban chỉ đạo ATTP
+ Phương pháp điều tra
Đây là phương pháp thông dụng nhằm thu thập dữ liệu phục vụ cho mục
đích nghiên cứu bằng việc xây dựng bảng hỏi. Luận văn tập trung vào 2 đối tượng
chủ yếu đó là:
Thứ nhất: người chủ cơ sở sản xuất kinh, doanh thực phẩm. Số lượng dự
kiến 108 người.
Thứ hai: cán bộ phụ trách ATTP của Trung tâm Y tế, Phòng Y tế thành phố;
cán bộ quản lý trong Ban chỉ đạo ATTP.
Chọn mẫu là toàn bộ cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm và kinh doanh thực
phẩm trên địa bàn thị trấn Diêm Điền:
+ Đối tượng trực tiếp tham gia sản xuất chế biến: 50 người
+ Cỡ mẫu về cửa hàng kinh doanh thực phẩm: 30 cơ sở.
Trên cơ sở điều tra, người nghiên cứu phân tích kết quả thu được để đưa ra
những kết luận, nhận định chính xác nhất về vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin trong đó nhà nghiên cứu tiến hành quan
sát đối tượng nghiên cứu. Đây là một phương pháp thu thập dữ liệu đơn giản, dễ
thực hiện nhưng rất hữu ích, đầy đủ. Người quan sát có thể sử dụng trực tiếp tai,
mắt, để nghe, nhìn bằng phương tiện cơ giới.



8
Luận văn sẽ tập trung quan sát trực tiếp điều kiện, dụng cụ sản xuất, chế biến
thực phẩm, địa điểm kinh doanh thực phẩm và cách thức quản lý của các cơ quan
chức năng trong địa bàn Huyện về ATVSTP.
b. Phương pháp phân tích dữ liệu
 Phương pháp xử lý dự liệu sơ cấp
Để phân tích dữ liệu thu thập trên luận văn tập trung vào phương pháp
phân tích thống kê truyền thống, bảng excel. Khi sử dụng phương pháp này, các dữ
liệu xử lý bằng phần mềm excel, phần mềm SPSS và tổng hợp phân tích dựa trên
các phương pháp thống kê truyền thống, sử dụng bảng tính để so sánh, khái quát
hóa số liệu từ đồ đưa ra kết luận chung nhất về vấn đề cần nghiên cứu. Kết quả điều
tra có tổng số 200 phiếu phát ra và có 180 phiếu thu về hợp lệ, đạt tỷ lệ chung là
90%. Tỷ lệ phiếu phát ra và thu về, mẫu phiếu điều tra và kết quả cụ thể được trình
bày phần lục lục.
 Phương pháp xử lý dữ liệu thứ cấp
Sau khi tổng hợp các dữ liệu thứ cấp, luận văn sẽ sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chung trong khoa học kinh tế như: phương pháp phân tích định lượng,
so sánh, tổng hợp, phương pháp thống kê mô tả... từ đó đưa ra kết luận chung nhất.
c. Phương pháp khác
Ngoài ra, trong quá trình hoàn thành luận văn còn sử dụng các phương pháp
khác như phương pháp đồ thị, biểu đồ, hình vẽ hoặc mô hình. Từ các bảng số liệu,
lập ra biểu đồ để thông qua đó quan sát và rút ra những đánh giá tổng quát QLNN
về VSATTP trên địa bàn huyện Thái Thụy.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Quản lý nhà nước về VSATTP có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nghiên
cứu đề tài này để thấy được thực tiễn vấn đề VSATTP đang diễn ra hết sức phức tạp
tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, các chợ trên địa bàn toàn huyện.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng thể hiện những mặt hạn chế trong công tác QLNN về
VSATTP.



9
Đối với đề tài: Việc nghiên cứu vấn đề này làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn.
Đối với đối tượng được chọn để nghiên cứu: Việc QLNN đối với các cơ sở
chế biến, sản xuất, kinh doanh thực phẩm tốt sẽ giúp phần cải thiện chất lượng sản
phẩm bán ra, giảm thiểu số vụ ngộ độc thực phẩm, giúp các cơ sở này kinh doanh
lành mạnh hơn.
Đối với vấn đề quản lý: Nghiên cứu những về VSATTP trên địa bàn huyện
Thái Thụy mang lại một cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng quản lý nhà nước về
VSATTP trên địa bàn huyện, từ đó đưa ra được giải pháp tăng cường quản lý nhà
nước nhằm thay đổi được hành vi con người, giảm thiểu số tai nạn về VSATTP nói
chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, lời cảm ơn, mục lục và các danh mục, đề tài còn bao
gồm có 3 chương cơ bản sau:
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VỆ SINH AN
TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI
BÌNH
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH


10
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
0.1 Khái niệm, phương pháp và sự cần thiết phải tăng cường Quản lý nhà

nước về Vệ sinh an toàn thực phẩm
0.1.1 Khái niệm Quản lý nhà nước về Vệ sinh an toàn thực phẩm


Thực phẩm (TP)

Theo tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế (Codex): "Thực phẩm là tất cả các chất
đã hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho con người bao gồm đồ ăn, uống, nhai,
ngậm, hút và các chất được sử dụng để sản xuất, chế biến hoặc xử lý thực phẩm,
nhưng không bao gồm mỹ phẩm và những chất chỉ được dùng như dược phẩm”
Theo Quyết định số 4196/1999/QĐ - BYT trong đó định nghĩa “ Thực phẩm
là những đồ ăn, uống của con người ở dạng tươi, sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến
bao gồm cả đồ uống, nhai, ngậm và các chất được sử dụng trong sản xuất, chế biến
thực phẩm". Phạm vi thực phẩm ở đây lại hẹp hơn vì khái niệm này phục vụ cho
việc quản lý nhà nước của Bộ Y tế, thuốc lá được quản lý riêng.
Hai khái niệm trên có ý nghĩa trong từng thời kỳ khác nhau và ngày càng đầy
đủ hơn về chuyên môn. Hiện nay, một khái niệm được nhiều người công nhận hơn
cả là: "Thực phẩm là những sản phẩm dùng cho việc ăn, uống của con người ở dạng
nguyên liệu tươi, sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến và các chất được sử dụng trong
sản xuất, chế biến thực phẩm".
 An toàn thực phẩm (ATTP)
ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng
con người; thực phẩm không bị hư hỏng, biến chất, bị giảm chất lượng hoặc chất
lượng kém; thực phẩm không chứa các tác nhân hóa học, sinh học hoặc vật lý quá
giới hạn cho phép; không phải là sản phẩm của động vật bị bệnh có thể gây hại cho
người sử dụng .
Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2012, công tác xây dựng và ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về ATTP là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, được các Bộ ngành ưu tiên hàng đầu để sớm đưa Luật an toàn thực phẩm vào



11
cuộc sống. Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm; Nghị định số
91/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP.
Trong phạm vi quyền hạn, các Bộ đã ban hành 57 Thông tư hướng dẫn, 29 Quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia, 67 tiêu chuẩn Quốc gia (TCQG) về ATTP.
Về hệ thống kiểm nghiệm ATTP, hiện nay các Phòng kiểm nghiệm của 6
trung tâm vùng thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 3 trung tâm kỹ thuật
của Bộ Khoa học và công nghệ, 4 Viện trực thuộc Bộ Y tế và 17 tỉnh, thành phố có
Phòng kiểm nghiệm được công nhận ISO/IEC/17025. Việc kiểm nghiệm ATTP
thường xuyên được tiến hành định kỳ và đột xuất qua các đợt thanh tra, kiểm tra.
Kết quả xét nghiệm vi sinh thực phẩm là chỉ số có độ chính xác trong việc
xác định chất lượng VSATTP chế biến bảo quản ngắn ngày và ăn ngay bày bán tại
cơ sở thực phẩm. Một số chỉ tiêu vi sinh thực phẩm đơn vị thực hiện được bao gồm:
Tổng số vi khuẩn hiếu khí, Coliforms, E.coli, Cl.Perfringens.
 Quản lý nhà nước về Vệ sinh an toàn thực phẩm
Để hiểu được khái niệm QLNNN về VSATTP, trước hết cần tìm hiểu thế nào
là quản lý.
Theo cách tiếp cận thứ nhất: Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản
lý tổ chức, điều hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa học và
nghệ thuật vào khách thể quản lý nhằm đạt được kết quả tối ưu theo mục tiêu đã đề
ra thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ thích hợp.
Theo cách tiếp cận thứ hai: Quản lý còn được hiểu là một hệ thống, bao gồm
các thành tố: Đầu ra, đầu vào, quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra, môi trường
và mục tiêu. Các yếu tố trên luôn tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, chúng đặt ra
các yêu cầu, những vấn đề quản phải giải quyết. Mặt khác, chúng ảnh hưởng tới
hiệu lực và hiệu quả của quản lý.
Quản lý là một hiện tượng khách quan trong mọi hình thái kinh tế - xã hội.
Nó là sự tất yếu của lao động tập thể và các hoạt động mang tính cộng đồng, xã hội.

Ngày nay, nhận thức của con người về lợi ích và hiệu quả to lớn của quản lý trong


12
nền kinh tế nói chung, cũng như trong thương mại nói riêng ngày càng cao. Quản lý
trở thành vấn đề trọng tâm trong cải cách kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Ở
nước ta trong suốt 20 năm đổi mới vừa qua cũng là thời kỳ tiến hành cải cách kinh
tế và thay đổi cơ chế quản lý trên cả tầm vĩ mô và doanh nghiệp. [4]
Dựa vào khái niệm trên, có thể định nghĩa: Quản lý Nhà nước là dạng quản
lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển
các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước...
Quản lý nhà nước, hiểu theo nghĩa rộng được thực hiện bởi tất cả các cơ
quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều
hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức, được thực hiện trên cơ sở để thi
hành pháp luật, được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ
quản lý nhà nước). Quản lý nhà nước cũng là sản phẩm của việc phân công lao
động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng bị quản lý [3].
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều hành và quản lý kinh
doanh thông qua ban hành và sử dụng các công cụ kế hoạch hóa, chính sách, luật
pháp và các quy định khác về kinh doanh để tác động tới các chủ thể người bán,
người mua trên thị trường. Sự tác động của hệ thống quản lý nhà nước về kinh
doanh đến đối tượng trao đổi luôn đặt trong mối quan hệ với môi trường cụ thể, xác
định trong từng thời kỳ. [4]
Quản lý nhà nước về VSATTP là hoạt động có tổ chức của nhà nước thông
qua các văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách của nhà nước sẽ tác động đến
tình hình thực hiện VSATTP của đơn vị sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng
trên cả nước nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể này thực hiện tốt các vấn đề về

VSATTP. QLNN về VSATTP bao gồm một số các hoạt động chủ yếu: Công tác
hoạch định và ban hành các văn bản, chính sách, các chiến lược, kế hoạch có liên
quan đến vấn đề VSATTP và công tác tổ chức thực thi các văn bản gồm một số


13
công việc cụ thể: Tổ chức giáo dục tuyên truyền, công tác thanh tra và xử lý vi
phạm, công tác phối hợp liên ngành trong quản lý…[2].
1.1.2. Phương pháp QLNN về Vệ sinh an toàn thực phẩm
Phương pháp quản lý VSATTP của nhà nước là tổng thể những cách thức tác
động có chủ đích và có thể của Nhà nước lên hệ thống quản lý nhằm thực hiện các
mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Trong thực tế tổ chức và quản lý đối với nền kinh tế nói chung và quản lý
VSATTP nói riêng, Nhà nước có thể và cần phải thực hiện các biện pháp chủ yếu,
đó là: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục thuyết
phục.
 Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông
qua các quyết định dứt khoát và có tính bắt buộc trong khuôn khổ luật pháp lên các
chủ thể sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm, nhằm thực hiện các
mục tiêu của Nhà nước trong những tình huống nhất định.
Phương pháp này mang tính bắt buộc và tính quyền lực. Tính bắt buộc đòi
hỏi các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tác động hành chính,
nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời, thích đáng. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan
quản lý nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng thẩm quyền
của mình.
Thực chất của phương pháp này là sử dụng quyền lực nhà nước để tạo sự
phục tùng của các chủ cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trong hoạt
động quản lý của nhà nước.
Phương pháp hành chính được dùng để điều chỉnh các hành vi mà hậu quả

của nó có thể gây ra thiệt hại cho cộng đồng, cho Nhà nước. Trong trường hợp
những hành vi này diễn ra khác với ý muốn của Nhà nước, có thể gây ra những
nguy hại nghiêm trọng cho xã hội thì Nhà nước phải sử dụng phương pháp cưỡng
chế để ngay lập tức đưa hành vi đó tuân theo một chiều hường nhất định, trong
khuôn khổ chính sách, pháp luật về kinh tế. Chẳng hạn, những đơn vị nào kinh


14
doanh hàng nhái, hàng giả bị Nhà nước phát hiện sẽ phải chịu xử phạt hành chính
như: đình chỉ kinh doanh, nộp phạt, tịch thu tài sản…
 Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của Nhà nước, dựa trên
những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên các chủ thể là chủ các cơ sở sản xuất,
chế biến, kinh doanh thực phẩm thậm chí là người tiêu dùng thực phẩm, nhằm làm
cho đối tượng này tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động không bằng cưỡng chế hành
chính mà bằng lợi ích, tức là Nhà nước chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt, đặt ra
những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử
dụng để họ tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ. Có thể thấy đây là phương pháp
quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Phương pháp kinh tế đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội qui định
nhiệm vụ mục tiêu phù hợp với thực tế. Sử dụng các định mức kinh tế (mức thuế,
lãi suất…), sử dụng các chính sách ưu đãi kinh tế, các biện pháp đòn bảy kích thích
kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các chủ thể phát triển theo hướng ích
nước, lợi nhà.
Phương pháp kinh tế được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi không có
nguy cơ gây hậu quả xấu cho cộng đồng, cho Nhà nước hoặc chưa đủ điều kiện để
áp dụng phương pháp hành chính cưỡng chế. Trên thực tế, có những hành vi mà
nếu không có sự điều chỉnh của Nhà nước, sẽ không diễn ra theo chiều hướng có lợi
cho Nhà nước và cho cộng đồng, nhưng cũng không có nghĩa là nó gây ra những

thiệt hại cần phải điều chỉnh tức thời. Nhà nước phải chia sẻ lợi ích kinh tế với họ
bằng các hình thức như: giảm thuế, miễn thuế thu nhập, cho vay vốn với lãi suất ưu
đãi, hỗ trợ về kĩ thuật.
 Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và
tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động
của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.


15
Phương pháp giáo dục mang tính thuyết phục cao, không dùng sự cưỡng chế,
không dùng lợi ích vật chất mà là tạo ra sự nhận thức về tính tất yếu khách quan để
chủ thể tự giác thi hành nhiệm vụ. Phương pháp giáo dục sử dụng giáo dục đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Giáo dục ý thức lao động sáng
tạo, hiệu quả. Xây dựng tác phong lao động trong thời đại công nghiệp hóa – hiện
đại hóa.
Phương pháp giáo dục cần được áp dụng trong mọi trường hợp và phải được
kết hợp với hai phương pháp trên để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Sở dĩ
như vậy là do, việc sử dụng phương pháp hành chính hay kinh tế để điều chỉnh các
hành vi của chủ các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm và cả người
tiêu dùng suy cho cùng vẫn là tác động bên ngoài, và do đó không triệt để, toàn
diện. Một khi không có những ngoại lực này nữa, đối tượng rất có thể lại có nguy
cơ không tuân thủ người quản lý. Hơn nữa, bản thân phương pháp hành chính hay
kinh tế cũng phải qua hoạt động thuyết phục, giáo dục thì mới truyền tới được các
doanh nghiệp, giúp họ cảm nhận được áp lực hoặc động lực, biết sợ thiệt hại hoặc
muốn có lợi ích, từ đó tuân theo những mục tiêu quản lý do Nhà nước đề ra.
1.1.3. Sự cần thiết phải tăng cường Quản lý nhà nước về Vệ sinh an toàn thực
phẩm
Trong những năm gần đây vấn đề VSATTP đang diễn ra ngày càng trầm
trọng, nhiều vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra liên tiếp, gây thiệt hại đến tính mạng con

người và tiền của. Trước những diễn biến đó thì vai trò của nhà nước đặc biệt quan
trọng.
Trước hết, nhà nước thông qua việc hoạch định và ban hành các văn bản
pháp luật có liên quan đến VSATTP để hướng dẫn người tiêu dùng và các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh có định hướng để sản xuất thực phẩm sạch. Ngoài ra,
thông qua các văn bản, chính sách nhà nước cũng quy định rõ nhiệm vụ quản lý của
từng bộ, ngành và các cấp để thay mặt nhà nước quản lý chặt chẽ vấn đề VSATTP.
Thứ hai, thông qua việc tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật,
các chương trình kế hoạch có liên quan đến VSATTP nhà nước sẽ trực tiếp quản lý


16
vấn đề VSATTP. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát, kiểm tra
cũng như công tác quản lý tại các địa điểm, các trung tâm diễn ra các hoạt động
buôn bán, tiêu dùng thực phẩm. Kiểm soát về sản xuất, chế biến cũng như tiêu dùng
của tất cả các mặt hàng thực phẩm.
Thứ ba, nhà nước sử dụng công cụ pháp luật cũng như đội ngũ thanh tra, Ủy
ban nhân dân ( UBND) các cấp để quản lý vấn đề VSATTP. Các bộ phận này có
trách nhiệm riêng biệt để thanh tra, kiểm tra lập lại trật tự sản xuất, kinh doanh theo
đúng yêu cầu, tiêu chuẩn VSATTP của nhà nước. Đồng thời các bộ, ban, ngành có
liên quan phối hợp với Bộ Y Tế để cùng quản lý các vấn đề liên quan đến thực
phẩm và VSATTP.
Thứ tư, nhà nước tổ chức, tuyên truyền giáo dục về VSATTP cho nhân dân
để nâng cao ý thức và hiểu biết về vấn đề này. Tổ chức các tháng hành động về
VSATTP để đẩy mạnh công tác phòng chống, công tác tuyên truyền giáo dục đạt
hiệu quả.
Như vậy, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề VSATTP.
Nhà nước đóng vai trò quyết định trong mọi lĩnh vực có liên quan đến thực phẩm,
từ khâu sản xuất, chế biến, đến tiêu dung.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm

1.2.1. Hoạch định chính sách về vệ sinh an toàn thực phẩm
Nhà nước hoạch định chính sách thông qua việc ban hành văn bản. Việc xây
dựng và ban hành các văn bản pháp luật về quản lý VSATTP sẽ tạo ra môi trường
pháp thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở chế biến và kinh doanh thực
phẩm. Đồng thời cũng giúp nhà nước có thể quản lý dễ dàng hơn, giảm thiểu rủi ro
trong quá trình chế biến và tiêu dùng thực phẩm.
Nhà nước thu thập dữ liệu, kết quả về VSATTP trên cả nước, sau đó phân
tích, nghiên cứu tiến hành xây dựng các chính sách phù hợp. Trong quá trình làm,
có sự tham gia của các cơ quan ban ngành, sự bàn bạc kỹ lưỡng để đưa ra chính
sách dự thảo tốt nhât về VSATTP. Sau đó tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện những
chính sách dự thảo đó để ban hành chính sách về VSATTP đến khắp các tổ chức, cá


17
nhân trong cả nước. Đối tượng chủ yếu của chính sách này hướng tới đó là các cơ
quan, tổ chức, cá nhân sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, nguyên liệu thực
phẩm, cũng như nâng cao ý thức cho người tiêu dùng. Phải đảm bảo các nội dung
sau:
- Tính thống nhất: Tăng cường quyền quản lý tập trung thống nhất của trung
ương, kết hợp chặt chẽ việc phân công, phân cấp hợp lý và quy định phối hợp chặt
chẽ để tăng cường QLNN về VSATTP. Các văn bản quản lý liên quan đến VSATTP
không được mâu thuẫn với nhau. Cần được rà soát văn bản thường xuyên nhằm chỉnh
sửa bổ sung phù hợp với thực tế và thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế đất
nước trong các giai đoạn.
- Yêu cầu tính minh bạch của các văn bản quản lý: Tất cả văn bản điều chỉnh
về hàng thực phẩm tới các đối tượng liên quan đều được công bố rộng rãi. Thông
qua các tuyên truyền, vận động thì các văn bản này được truyền tải một cách chi
tiết, cụ thể tới các đối tượng chịu trách nhiệm liên quan đến các tổ chức cá nhân sản
xuất, kinh doanh, người tiêu dùng thực phẩm và các cơ quan QLNN có liên quan.
Điều này đảm bảo trong quá trình thực hiện sẽ mang tính hiệu quả cao, hạn chế các

vi phạm gây thiệt hại cho xã hội.
- Yêu cầu tính rõ ràng: Các văn bản quản lý nhà nước về VSATTP được quy
định cụ thể, dễ hiểu, không mâu thuẫn với nhau. Các điều kiện quy định xuất phát
từ thực tế giảm thiểu thiệt hại người và của trong quá trình thực hiện, giữ gìn vệ
sinh an toàn thực phẩm.
- Tính phổ thông, đại chúng: Các quy định nằm trong các văn bản quản lý
khác nhau nhưng được liên hệ chặt chẽ với nhau, tránh tình trạng tạo ra các khe hở
lớn tạo điều kiện cho các hình thức kinh doanh gian lận. Các văn bản phải có hệ
thống theo chiều dọc hoặc chiều ngang, tránh tình trạnh lách luật của các doanh
nghiệp, cá nhân. Mặt khác, tính đồng bộ của các văn bản sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp, cá nhân thực hiện đúng và đủ các quy định về VSATTP.
Chất lượng của công cụ kế hoạch hóa, chính sách và bộ máy tổ chức trong
quản lý nhà nước về VSATTP sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân sản xuất, chế biến, tiêu dùng thực phẩm phát triển đồng thời giảm thiểu ngộ
độc thực phẩm, nâng cao sức khỏe giống nòi.


18
1.2.2. Tổ chức thực hiện
Tổ chức thực hiện là bước tiếp theo trong nội dung quản lý nhà nước về
VSATTP. Các văn bản quản lý được xây dựng và ban hành sẽ được đưa vào thực
tế. Bản chất của việc tổ chức và quản lý hoạt động của cơ quan QLNN về VSATTP
các cấp là tuyên truyền phổ biến các văn bản luật này đến các doanh nghiệp, người
tiêu dùng để hướng dẫn họ thực hiện đúng quy định. Hơn nữa bước này thực hiện
còn nhằm mục đích đảm bảo thống nhất và phù hợp với hệ thống chính sách và cơ
chế phát triển thương mại, phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập với kinh tế thế
giới và khu vực. Cần có sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước để
các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân dẽ dàng tiếp cận các thông tin về chiến lược,
chính sách, quy hoạch, dự án và thông hiểu các quyết định của nhà nước. Trong
bước này, thực hiện một số nội dung chủ yếu như: xây dựng kế hoạch triển khai

thực hiện chính sách về VSATTP, phổ biến tuyên truyền chính sách, phân công
phối hợp thực hiện chính sách.
Để thực hiện được điều đó nhà nước thiết lập các cơ quan và hệ thống tổ
chức quản lý, sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, chính
sách, các văn bản pháp quy khác về VSATTP. Đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ
máy tổ chức để triển khai thực hiện những công việc thuộc về chức năng QLNN,
nhằm đưa chính sách pháp luật vào thực tiễn, biến chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
tăng cường QLNN về VSATTP.
Quản lý nhà nước về VSATTP được thực hiện dựa trên nguyên tắc phân cấp
quản lý, quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp quản lý như
sau:
Một là, chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Hai là, các Bộ, ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Y tế thực hiện quản lý nhà nước về VSATTP trong lĩnh vực
được phân công phụ trách theo nguyên tắc: Trong quá trình sản xuất do Bộ ngành


19
quản lý chuyên ngành chủ trì phối hợp với bộ Y tế các Bộ có liên quan thực hiện;
trong quá trình lưu thông, do Bộ Y tế phối hợp với các ban ngành liên quan.
Ba là, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp. Trách nhiệm của Ủy ban
nhân dân các cấp được quy định như sau:
Thứ nhất, chịu trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm (ATTP) trên địa bàn;
quản lý điều kiện bảo đảm ATTP đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm
(TP) nhỏ lẻ, thức ăn đường phố (TAĐP), cơ sở kinh doanh, dịch vụ ăn uống, ATTP
tại các chợ trên địa bàn và các đối tượng theo phân cấp quản lý.
Thứ hai, báo cáo định kỳ, đột xuất về công tác quản lý ATTP trên địa bàn.
Thứ ba, bố trí nguồn lực, tổ chức bồi dưỡng nâng cao chất lượng nhân lực

cho công tác bảo đảm an toàn thực phẩm trên địa bàn.
Thứ tư, tổ chức tuyên truyền, giáo dục, truyền thông, nâng cao nhận thức về
ATTP ý thức chấp hành pháp luật về quản lý ATTP, ý thức trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh TP đối với cộng đồng, ý thức của người tiêu
dùng TP.
Thứ năm, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về ATTP trên địa bàn
quản lý.
Ngoài tra, nhà nước còn kết hợp hài hòa, đúng đắn các phương pháp kinh tế,
hành chính, giáo dục, tuyên truyền, động viên. Trong đó phương pháp kinh tế tạo
động lực trực tiếp đối với cả bên mua và bên bán, nhà kinh doanh và khách hàng,
nhà sản xuất đóng gói thực phẩm và cộng đồng người tiêu dùng. Phương pháp giáo
dục là tác động tích cực vào nhận thức và hành động của các chủ thể kinh doanh
thực phẩm cả về vấn đề kinh tế và pháp luật.
1.2.3. Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật
Ngoài việc tổ chức thực hiện quy định pháp luật thì các cơ quan QLNN cần
phải thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi các chính
sách và pháp luật của nhà nước đối với ATVSTP. Quy định rõ quyền hạn của các tổ
chức, cơ quan thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về sản xuất,
chế biến, kinh doanh thực phẩm trên thị trường nước ta. Thực hiện đúng quy định


20
về thủ tục, thời gian kiểm tra, thanh tra nhằm kịp thời phát hiện sai phạm để xử lý
nghiêm các vi phạm.
Công tác kiểm tra, thanh tra về VSATTP luôn được coi là một hoạt động
quan trọng và ưu tiên của công tác quản lý nhà nước về VSATTP. Hoạt động thanh
tra, kiểm tra được tiến hành đồng loạt ở cấp Trung ương và địa phương, tiến hành
định kỳ vào các đợt cao điểm như mùa lễ hội, bão lụt.. hay đột xuất như dịch bệnh,
các sự cố đặc biệt như sữa nhiễm melamine... Với Nhà nước, kiểm tra là nội dung
không thể thiếu của công tác quản lý. Thông qua kiểm tra, các chủ thể quản lý tự

điều chỉnh hành vi của mình theo mục tiêu, nhiệm vụ quản lý Nhà nước, cơ quan
quản lý cấp trên có thể thường xuyên xem xét tình hình triển khai, thực hiện nhiệm
vụ cơ quan cấp dưới.
Việc kiểm tra, kiểm soát thực hiện về VSATTP phải có một hệ thống pháp
luật đầy đủ và thực hiện được các yêu cầu như: đảm bảo sức khỏe nhân dân và phát
triển giống nòi; cải tiến phù hợp với xu thế thế giới; đáp ứng được yêu cầu hội nhập
hiện nay; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ Bộ, ngành tránh chồng chéo hoặc bỏ
trống; đảm bảo phát hiện sai phạm, có biện pháp điều chỉnh kiểm soát bền vững các
yếu tố nguy cơ VSATTP…
Nghị định số 79/2008/NĐ – CP quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra
và kiểm nghiệm VSATTP. Nghị định này quy định rõ trách nhiệm của từng bộ, ban
ngành trong việc quản lý nhà nước về VSATTP, bên cạnh đó còn quy định rõ nhiệm
vụ và chức năng của bộ phận thanh tra về việc đảm bảo VSATTP.
Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về VSATTP đòi hỏi phải có sự
phối hợp giữa các cấp, ngành, giữa trung ương và địa phương, nhất là trong lĩnh
vực QLNN về VSATTP. Để công tác kiểm tra của nhà nước đối với việc thực hiện
các mục tiêu phát triển thương mại, đòi hỏi bộ máy tổ chức và nhân sự phải phù
hợp, kỹ thuật trang bị, thiết bị phục vụ nhiệm vụ kiểm soát phải được tăng cường.
Đồng thời, phải kết hợp với hệ thống kiểm soát khác của QLNN như thông tin,
hoạch định, kiểm soát, thanh tra.
1.2.4. Xử lý vi phạm pháp luật và cải tiến thực hiện
Khi phát hiện vi phạm trong quá trình thực hiện, thì việc xử lý, điều chỉnh
chính sách sao cho khắc phục được tình trạng hiện tại, cải tiến công tác thực hiện là


×