Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Luận văn thạc sỹ Quản lý nhà nước đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.88 KB, 114 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan bài luận văn “Quản lý nhà nước đối với các cơ sở bán lẻ hàng
hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” là công trình khoa học
nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Tất cả các nội dung của công trình nghiên cứu này
hoàn toàn được hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi. Các
số liệu và kết quả được nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết.
Tác giả

Nguyễn Thị Giang

LỜI CẢM ƠN


ii

Trong khoảng thời gian thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế, tác
giả đã gặp nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị tài liệu, thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ
cấp. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ tận tình các thầy cô giáo
trường Đại học Thương mại, các cán bộ quản lý Khoa sau Đại học, thầy giáo hướng
dẫn, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt quá trình học tập và công tác.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Ban Giám hiệu trường Đại học
Thương mại, Khoa sau Đại học đã động viên và tạo mọi điều kiện để tác giả có thể
yên tâm với công việc nghiên cứu.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn thầy giáo TS Phạm Xuân Hậu - người đã
hướng dẫn chỉ bảo tận tình, động viên tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ công nhân viên các Bộ, Ban
ngành gồm: Bộ Công thương, Bộ Y tế, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Sở Công
thương tỉnh Vĩnh Phúc, Cục Quản lý thị trường, Tổng Cục Hải quan đã hỗ trợ cung


cấp tài liệu để tác giả có cơ sở thực tiễn hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu bằng tất cả năng
lực và sự nhiệt tình của bản thân, tuy nhiên luận văn này không thể tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy, cô và đồng nghiệp để hoàn thiện hơn nữa nhận thức của mình.
Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC


iii

b. Tổ chức và quản lý hoạt động của cơ quan QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng
hóa........................................................................................................................................21
c. Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật của các cơ sở bán lẻ hàng hóa...................22
d. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật trong QLNN đối với các cơ
sở bán lẻ hàng hóa................................................................................................................22
b. Tổ chức và quản lý hoạt động của cơ quan QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng
hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.................................................54
g. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật trong QLNN đối với các cơ
sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.........................66
3.3. Những hạn chế và vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu.....................................................94
KẾT LUẬN..........................................................................................................................96


iv
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Các kênh lưu thông hàng hoá và các cấp trung gian thương mại trong
nền kinh tế thị trường..............................................Error: Reference source not found
Sơ đồ 1.2: Phân loại cơ sở bán lẻ hàng hoá trên thị trường trong nước theo phương

thức phục vụ............................................................Error: Reference source not found
Sơ đồ 1.3: Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với cơ sở bán lẻ hàng hóa.....Error:
Reference source not found
Bảng 2.1: Số lượng và quy mô các doanh nghiệp bán lẻ hàng hóa (cơ sở bán lẻ hàng
hóa) năm 2013.........................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.2. Danh sách các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động bán lẻ
hàng hóa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.....................Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.1. Tỷ trọng các ngành hàng trong cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.................Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Kết quả hoạt động kinh doanh của các cơ sở bán lẻ có vốn đầu tư nước
ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (năm 2011 – 2013).....Error: Reference source not
found
Bảng 2.5: Tỷ trọng doanh thu của các thành phần bán lẻ hàng hóa trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc (năm 2011 - 2013)................................Error: Reference source not found
Bảng 2.6: Tỷ trọng tiêu thụ hàng hóa ở thành thị, nông thôn và miền núi..........Error:
Reference source not found
Bảng 2.7: Đơn vị hành chính cấp huyện thuộc Vĩnh Phúc.....Error: Reference source
not found
Bảng 2.8: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc 2011 - 2013....Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.2: Mức độ cần thiết QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu
tư nước ngoài...........................................................Error: Reference source not found
Bảng 2. 9: Kết quả đánh giá mức độ phù hợp của QLNN đối với các cơ sở bán lẻ
hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài tại Vĩnh Phúc.Error: Reference source not found


v
Bảng 2.10 : Kết quả đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến
thực trạng QLNN đối với cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài.......Error:
Reference source not found



vi
DANH MỤC VIẾT TẮT

BMI

Body Mass Index

BVNTD

Bảo vệ người tiêu dùng

KH & ĐT

Kế hoạch và đầu tư

KH-CN

Khoa học - công nghệ

KT-XH

Kinh tế - xã hội

NTD

Người tiêu dùng

QLNN


Quản lý nhà nước

QLTT

Quản lý thị trường

SLTT

Sản lượng tiêu thụ

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

VND

Việt Nam đồng

VSATP

Vệ sinh an toàn thực phẩm

WTO

World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới)



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Bán lẻ háng hóa là hoạt động kinh tế quan trọng, là cầu nối giữa sản xuất và
tiêu dùng, là kênh phân phối hàng hóa từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng ở khắp
nơi trên thế giới. Vì thế, hoạt động kinh doanh này có vai trò rất quan trọng đối với
kinh tế của các quốc gia. Do đó, cần đặt ra hệ thông các tiêu chuẩn quản lý đối với
các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ hàng hóa. Tuy nhiên từ năm 1997, trên
thị trường Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư
nước ngoài. Thực tế chứng minh có rất nhiều các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới đã
xây dựng kế hoạch, đưa Việt Nam vào thị trường phát triển của mình. Và trong
những năm qua Việt Nam đã có sự xuất hiện của một số tập đoàn bán lẻ với thương
hiệu lớn như: Metro, Parkson, BigC…
Phát triển và hoàn thiện cơ chế chính sách đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa
có vốn đầu tư nước ngoài đã được Bộ Công Thương đặc biệt quan tâm trú trọng,
được thể hiện qua các Nghị định và Thông tư. Ngày 22 tháng 04 năm 2013, Bộ
Công Thương đã ban hành Thông tư số 08/2013/TT-BCT, thông tư này có hiệu lực
thực hiện kể từ ngày 07 tháng 6 năm 2013, trong đó quy định chi tiết về hoạt động
mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thông tư số 08/2013/TTBCT được ban hành trong bối cảnh sau hơn 5 năm Việt Nam gia nhập WTO với
nhiều thực tiễn phong phú của quá trình mở cửa thị trường và thực thi các cam kết
với WTO về thương mại, dịch vụ.
Tuy nhiên, việc hoàn thiện công tác QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa
có vốn đầu tư nước ngoài gặp phải những khó khăn nhất định như: .
Thứ nhất, từ việc đưa các quy phạm pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn
vẫn còn có khoảng cách. Có những văn bản pháp luật đưa ra thực hiện lại không
hiệu quả, còn nhiều vấn đề bất cập, cũng có những chính sách thể hiện chưa đầy đủ
rõ ràng và đồng bộ.



2
Thứ hai, các chính sách QLNN về phát triển thương mại hàng hóa chưa đầy
đủ và chưa thay đổi kịp được với sự thay đổi của KT - XH. Quá trình thực thi các
chính sách cũng còn nhiều điều bất cập, yếu kém.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ sở bán lẻ hàng hóa
có vốn đầu tư nước ngoài còn chưa hiệu quả. Do tình trạng buôn bán hàng giả, hàng
nhái, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, gian lận thương mại vẫn còn diễn ra. Trong khi
đó quá trình xử lý vi phạm cũng chưa thật sự được quan tâm, mới chỉ dừng lại ở thu
giữ hàng hóa và phạt hành chính không thỏa đáng.
Thứ tư, việc phối hợp giữa các bộ ngành với nhau trong việc quản lý hoạt
động của các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài tuy đã có tăng
cường nhưng còn chưa có sự kết hợp chặt chẽ, các văn bản pháp luật cũng còn
chưa hoàn chỉnh và chồng chéo. Đơn vị quản lý trực tiếp các cơ sở bán lẻ hàng
hóa có vốn đầu tư nước ngoài cũng chưa có các chính sách quản lý phù hợp.
Bên cạnh đó là cơ quan quản lý nhà nước chưa tạo ra được một hành lang pháp
lý đầy đủ và rõ ràng cho hoạt động mua bán hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng. Ngay từ khi
tái lập tỉnh – năm 1997, xác định rõ vai trò của nguồn lực ĐTNN, Vĩnh Phúc đã thực
hiện nhiều chính sách, biện pháp để đẩy mạnh thu hút nguồn lực này nhằm phát triển
KT – XH của tỉnh, nhờ đó trong những năm qua KT- XH tỉnh Vĩnh Phúc đã có
những bước phát triển không ngừng, đời sống nhân dân trong tỉnh ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên ĐTNN vào Vĩnh Phúc vẫn chủ yếu tập trung vào lĩnh vực Công
nghiệp, việc đầu tư vào khu vực bán lẻ hàng hóa còn rất hạn chế trong khi kết cấu hạ
tầng thương mại đặc biệt là khu vực thương mại bán lẻ của tỉnh vẫn còn ở mức thấp,
các loại hình kinh doanh bán lẻ hàng hóa vẫn chủ yếu thông qua các kênh bán lẻ
truyền thống như mạng lưới chợ và các cửa hàng dân doanh, vẫn chưa xuất hiện
nhiều các hình thức kinh doanh tiên tiến, hiện đại với quy mô lớn để phục vụ nhu
cầu ngày càng cao của nhân dân. Một trong những nguyên nhân quan trọng của vấn

đề này là vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong công tác QLNN đối với các cơ sở bán
lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn của tỉnh.


3
Xuất phát từ thực tế trên , tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đới với các cơ
sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ” làm
luận văn thạc sĩ cho mình.
2. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam và nước ngoài có rất nhiều công trình nghiên cứu đề tài về QLNN
đối với các đối tượng khác nhau. Với cách tiếp cận cũng như phương pháp nghiên
cứu khác nhau, mỗi tác giả đã tìm ra cho mình những hướng đi phù hợp để đạt được
hiệu quả cao. Sau đây là một số đề tài:
Tác giả Nguyễn Minh Quang (2012), luận văn thạc sĩ, với đề tài “Quản lý
chất lượng mặt hàng sữa nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội”, trường Đại học Thương
mại, đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý chất lượng mặt hàng sữa
nhập khẩu tại Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực trạng chất lượng
sữa nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội, phát hiện ra những mặt hạn chế trong quản lý
chất lượng sữa nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội của nhà nước và đưa ra các giải pháp
quản lý hữu hiệu. Đề tài có những ý nghĩa tích cực đối với người tiêu dùng, doanh
nghiệp kinh doanh sữa và đặc biệt là sự quản lý của nhà nước. Về phía quản lý của
nhà nước, thì qua đề tài nghiên cứu có thể thấy cái nhìn tổng quát nhất về thị trường
sữa từ đó đưa ra các chính sách, văn bản quản lý sao cho phù hợp với từng loại hình
doanh nghiệp kinh doanh, và có những chế tài quản lý chặt chẽ về những vi phạm
của nhà cung ứng sữa.
Nguyễn Thị Nga (2007), luận văn thạc sĩ “QLNN về hải quan đối với hoạt
động nhập sản xuất xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế”, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, luận văn tập trung
vào nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý hoạt động nhập sản xuất xuất khẩu
trong giai đoạn năm 2005 – 2007 tại Cục Hải quan Đồng Nai từ đó đưa ra các giải

pháp hoàn thiện QLNN về hải quan nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế
giới trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động hải quan nói riêng.
Trần Thu Trang (2012), luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam”, trường Đại học Luật Hà


4
Nội, luận văn phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về QLNN trong lĩnh
vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trên cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật về
QLNN trong lĩnh vực này để rút ra những mặt được, chưa được, nguyên nhân và
giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về QLNN trong lĩnh vực thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam.
Trần Tú Cường (2007), luận án tiến sĩ kinh tế “Tăng cường vai trò quản lý
nhà nước đối với đất đai trong quá trình đô thị hóa ở Hà Nội”, trường Đại học
Kinh tế quốc dân, tác giả đưa ra những cơ sở lý luận và phân tích thực trạng QLNN
đối với đất đai ở thành phố Hà Nội từ khi có Luật đất đai năm 1987 đến nay. Đồng
thời tác giả đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường vai trò QLNN đối với đất đai
ở thành phố Hà Nội trong quá trình đô thị hóa.
Nguyễn Thị Thanh Hương (2012), luận án tiến sĩ “Thực trạng và giải pháp
nâng cao năng lực quản lý việc sử dụng một số phụ gia trong chế biến thực phẩm
tại Quảng Bình”, Viện Dinh Dưỡng, cải thiện việc quản lý sử dụng phụ gia trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình, đề tài nghiên cứu với mục tiêu đánh giá thực trạng quản lý
việc sử dụng một số phụ gia trong chế biến thực phẩm và đánh giá hiệu quả mô
hình can thiệp nâng cao năng lực quản lý việc sử dụng một số phụ gia trong chế
biến thực phẩm tại Quảng Bình.
Tác giả Phan Thế Công và Ninh Thị Hoàng Lan (2009), với đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ “Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong việc bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng Việt Nam giai đoạn hiện nay”, trường Đại
học Thương mại. Các tác giả đã tập trung phân tích sâu về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, các thực trạng QLNN về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam

hiện nay. Đặc biệt là các tác giả đã đưa ra được một hệ thống các giải pháp và kiến
nghị với cơ quan QLNN về bảo vệ người tiêu dùng, các tổ chức và hiệp hội bảo vệ
người tiêu dùng, các doanh nghiệp và chính người tiêu dùng.
Báo cáo hàng năm của Cục An toàn vệ sinh thực phẩm - Bộ Y tế. Trong báo
cáo này phản ánh khá toàn diện bức tranh về chất lượng, giá cả… đối với mặt hàng
thịt lưu thông trên thị trường Việt Nam. Báo cáo cũng đưa ra những biện pháp cần


5
thiết mà nhà nước cần thực hiện để giải quyết tình trạng kém chất lượng của sản
phẩm thịt lưu thông trên thị trường.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về QLNN đối với các sản phẩm
khác nhau với bối cảnh kinh tế là khác nhau. Tuy nhiên, các công trình có những ưu
điểm, hạn chế nhất định. Đến nay, chưa có công trình khoa học nào phân tích
QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc. Đề tài này là một hướng đi mới và không trùng lặp với bất kỳ công trình
nghiên cứu nào được công bố trước đó.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với các cơ sở bán lẻ
hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Để đạt được mục tiêu đó, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Một là, hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về QLNN đối với các cơ sở bán lẻ
hàng hóa.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng
hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với các cơ sở bán lẻ
hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về QLNN đối với các

cơ sở bán lẻ hàng hóa. Đối tượng nghiên cứu điển hình là các cơ sở bán lẻ hàng hóa
có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
b. Phạm vi nghiên cứu
Để phù hợp với yêu cầu của luận văn cũng như điều kiện cho phép về thời
gian, kinh phí và năng lực của bản thân, phạm vi nghiên cứu được giới hạn như sau:
Về nội dung
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về QLNN đối với các cơ sở bán lẻ
hàng hóa như nội dung, phương pháp… và áp dụng cho QLNN đối với các cơ sở
bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.


6
đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa có
vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Về không gian
Thị trường được đề cập tới trong luận văn là địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Có nhiều chủ bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc : tập đoàn, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, luận văn giới hạn
nghiên cứu, thu thập số liệu tại các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài.
Về thời gian
Nghiên cứu thực trạng QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư
nước ngoài trong giai đoạn 2010-2013, từ đó đề xuất các giải pháp đến năm 2017,
định hướng đến năm 2020.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo đề tài được kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước
ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với các cơ sở bán

lẻ hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.


7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QLNN ĐỐI VỚI
CÁC CƠ SỞ BÁN LẺ HÀNG HÓA
1.1. Khái luận về QLNN đối với cơ sở bán lẻ hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hàng hóa và bán hàng
a. Khái niệm hàng hóa
Trong kinh tế chính trị Marx- Lenin, hàng hóa được định nghĩa là sản phẩm
của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi
với nhau.
Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Marx đã bắt đầu bằng
sự phân tích hàng hóa vì thứ nhất, hàng hóa là hình thái biểu hiện phổ biến nhất của
của cải trong xã hội tư bản, thứ hai, hàng hóa là hình thái nguyên tố của của cải, là
tế bào của kinh tế trong đó chứa đựng mọi mầm mống mâu thuẫn của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, thứ ba, phân tích hàng hóa là phân tích giá trị - phân tích
cái cơ sở của tất cả các phạm trù chính trị kinh tế học của phương thức sản xuât tư
bản chủ nghĩa.
Theo từ điển: hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế chính
trị. Theo nghĩa hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng xác định trong không
gian và có thể trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hóa là tất cả những
gì có thể trao đổi, mua bán được.
Luật thương mại số 36/2005/QH11 ngày 16/04/2005, khoản 2 điều 3, hàng
hóa bao gồm:
- Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai.
- Những vật gắn liền với đất đai.
Còn khái niệm hiện tại về hàng hóa: sự thay đổi và phát triển của nhận thức
đối với đời sống kinh tế dẫn đến cách hiểu hàng hóa không như các nhà kinh tế cổ
điển xác định. Phạm trù hàng hóa mất đi ranh giới của sự hiển hiện vật lý của vật

thể và tiến sát đến gần phạm trù giá trị. Tiền, cổ phiếu, quyền sở hữu nói chung,
quyền sở hữu trí tuệ nói riêng, sức lao động. v.v. được xem là hàng hóa.


8
Như vậy, có thể hiều hàng hóa là sản phẩm của lao động, do con người tạo ra,
đưa vào lưu thông, trao đổi và phục vụ cho mục đích của con người. Hàng hóa là
những sản phẩm hữu hình, có hình dạng cụ thể rõ ràng, con người có thể cầm nắm
cảm nhận và có thể lập kho lưu trữ.
b. Bán hàng
Theo quan niệm cổ điển: “bán hàng là hoạt động thực hiện sự trao đổi sản
phẩm hay dịch vụ của người bán chuyển cho người mua để được nhận lại từ người
mua tiền, vật phẩm hoặc giá trị trao đổi đã thỏa thuận”
Theo quan điểm hiện đại thì:
+ Bán hàng là nền tảng trong kinh doanh đó là sự gặp gỡ của người bán và
người mua ở những nơi khác nhau giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu nếu
cuộc gặp gỡ thành công trong cuộc đàm phán về việc trao đổi sản phẩm.
+ Bán hàng là một phần của tiến trình mà doanh nghiệp thuyết phục khách
hàng mua hàng hóa dịch vụ của họ.
+ Bán hàng là quá trình liên hệ với khách hàng tiềm năng tìm hiểu nhu cầu
khách hàng, trình bày và chứng minh sản phẩm, đàm phán mua bán, giao hàng và
thanh toán.
+ Bán hàng là sự phục vụ, giúp đỡ khách hàng nhằm cung cấp cho khách hàng
những thứ mà họ muốn.
Bán hàng là một quá trình giao tiếp hai chiều giữa người bán và người mua,
trong đó người bán tìm hiểu, khám phá, gợi tạo và đáp ứng nhu cầu mong muốn
của người mua trên cơ sở hai bên cùng có lợi hay bán hàng là giải quyết các vấn đề
của khách hàng và đáp ứng nhu cầu của họ.
Bán hàng là quá trình giao tiếp hai chiều giữa người bán và người mua. Người
bán không chỉ truyền thông tin đi mà còn nhận thông tin về để hiểu rõ khách hàng,

để thực hiện phương châm bán những thứ mà khách hàng cần. Trong quá trình giao
tiếp cần sử dụng cả ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ hình thể.
Bán hàng là quá trinh bán hàng chủ động, trong quá trình bán hàng, người bán
có nhiệm vụ tìm kiếm và phát hiện, kích thích, gợi mở nhu cầu của khách hàng. Bán


9
hàng chủ động vất vả và hiệu quả hơn so với bán hàng bị động ( chỉ ngồi chờ
khách). Bán hàng chủ động sẽ đáp ứng được cả những nhu cầu tiềm ẩn của khách
hàng, giúp khách hàng hài lòng hơn đồng thời giúp bên bán bán được nhiều hàng
hóa hơn. Bán hàng chủ động giúp các cơ sở bán lẻ hàng hóa nâng cao sức cạnh
tranh so với các đối thủ.
Trong một thị trường cạnh tranh, muốn tồn tại và phát triển thì bán hàng phải
đảm bảo quyền lợi lâu dài, thỏa đáng của cả hai bên, bên bán và bên mua. Quan
điểm bán hàng này đối lập với kiểu bán hàng bằng mọi giá, bán ép. Cách bán hàng
ép buộc chỉ đáp ứng được quyền lợi trước mắt.
c) Bán lẻ hàng hóa
Khái niệm bán lẻ hàng hóa:
Theo từ điển American Heritage định nghĩa “Bán lẻ là bán hàng cho người
tiêu dùng, thường là với khối lượng nhỏ và không bán lại”.
Theo NAICS, US năm 2002, lĩnh vực thương mại bán lẻ (mã ngành 44-45)
bao gồm những cơ sở kinh doanh bán lẻ hàng hóa (thường là không có chế biến) và
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho bán hàng. Quá trình bán lẻ là bước cuối cùng trong
phân phối hàng hóa, theo đó, các nhà bán lẻ tổ chức gồm hai loại nhà bán lẻ chính
là các nhà bán lẻ qua cửa hàng và các nhà bán lẻ không qua cửa hàng (Store anh
non-store Retailers)
Theo từ điển kinh tế thị trường (tra cứu trực tuyến) là hình thức “bán hàng trực
tiếp cho người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân của họ, từ đây hàng hóa
kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân, giá trị hàng hóa
được thực hiện đầy đủ”.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, bán lẻ là hình thức “bán từng cái, từng cái một
trực tiếp cho người tiêu dùng”
Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của tài liệu số TN.GNS/W/120
(W/120) của vòng đàm phán Uruguay của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và
danh mục sản phẩm chính tạm thời của Liên Hợp Quốc (CPC) định nghĩa: “Bán lẻ
là hoạt động bán hàng hóa cho người tiêu dùng hoặc các hộ tiêu dùng từ một địa


10
điểm cố định (cửa hàng, kiốt) hay một địa điểm khác (bán trực tiếp) và các dịch vụ
phụ liên quan”.
Trong cuốn sách “Quản trị Marketing” của Philip kotler đã định nghĩa bán lẻ
như sau: “Bán lẻ bao gồm tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa
hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng vào mục đích cá
nhân, không kinh doanh”.
Tuy có nhiều định nghĩa bán lẻ hàng hóa theo nhiều cách khác nhau nhưng có
thể hiểu bán lẻ là hoạt động bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng
(tiêu dùng cá nhân hay tiêu dùng gia đình). Nghĩa là, bán lẻ hàng hóa là công đoạn
cuối cùng của khâu lưu thông để sản phẩm đến với người tiêu dùng.
Đặc điểm bán lẻ hàng hóa
- Bán lẻ hàng hóa là phương thức bán hàng đa dạng, hệ thống cửa hàng phong
phú và tiện lợi, có khả năng nắm bắt được nhanh và chính xác những mong muốn
và nguyện vọng của người tiêu dùng, từ đó có điều kiện đáp ứng tốt nhu cầu của
người tiêu dùng.
- Những người bán lẻ có thể được phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Ví dụ, theo những mặt hàng mà người bán lẻ bán, người ta chia ra
cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hóa, siêu thị, cửa hàng tiện dụng…Cửa
hàng chuyên doanh bán những dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu. Cửa hàng bách
hóa bày bán nhiều mặt hàng khác nhau, mỗi mặt hàng là một quầy riêng.
- Hàng hóa của cơ sở bán lẻ thường là khối lượng nhỏ, chủ yếu phục vụ cho

việc bán lẻ hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Chính vì đặc điểm
này của bán lẻ mà hoạt động bán lẻ không quy định số lượng hàng hóa, dịch vụ mua
tối thiểu đối với khách hàng.
- Các loại hình trung gian bán lẻ khác nhau có qui mô, phương thúc kinh
doanh và sức mạnh chi phối thị trường khác nhau, tất nhiên họ cũng có khả năng
điều khiển hệ thống phân phối khác nhau.


11
- Đối tượng khách hàng của các nhà bán lẻ thường là người tiêu dùng cuối
cùng. Các nhà cung cấp cho các nhà phân phối bán lẻ thường là các nhà bán buôn,
các đại lý vừa bán buôn vừa bán lẻ.
- Trong hệ thống các kênh phân phối hàng hóa từ nhà sản xuất đến tay người
tiêu dùng cuối cùng thì hoạt động bán lẻ chỉ được thực hiện ở ba kênh, đó là kênh
ngắn, kênh trung bình và kênh dài. Đối với hai kênh trung bình và dài, thông
thường các nhà bán lẻ phải mua hàng hóa của các nhà bán buôn và từ đó bán trực
tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
Kênh

Người sản

trực

xuất/

tiếp

Người
tiêu dùng


Nhập khẩu

Kênh

Nguời sản

ngắn

xuất/

Người
bán lẻ

tiêu dùng

Nhập khẩu

Kênh

Nguời sản

trung

xuất/

bình

Kênh
dài


Nguời
bán buôn

bán lẻ

tiêu dùng

Nhập khẩu

Người

Đại lý,

bán

sản xuất/

môi

buôn

Nhập

giới

Người
bán lẻ

tiêu
dùng


khẩu

Sơ đồ 1.1: Các kênh lưu thông hàng hoá và các cấp trung gian thương mại
trong nền kinh tế thị trường


12
1.1.2. Các hình thức bán hàng
a) Phân loại bán hàng
Các hình thức bán hàng:
+ Căn cứ theo khâu lưu chuyển hàng hoá có bán buôn và bán lẻ
Bán lẻ hàng hóa là tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán các sản
phẩm vật chất trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng, đáp ứng nhu cầu của cá
nhân, gia đình và các tổ chức không kinh doanh.
Bán buôn là hoạt động bán hàng hóa cho thương nhân, tổ chức khác để bán lại
hoặc tiêu thụ với mục đích nghề nghiệp và hoặc kinh doanh với số lượng lớn, theo
hợp đồng và thanh toán không dùng tiền mặt. Kết thức quá trình bán buôn, hàng
hóa vẫn nằm trong khâu lưu thông chưa bước vào tiêu dùng.
+ Căn cứ theo phương thức bán gồm bán theo hợp đồng và đơn hàng, thuận
mua vừa bán , bán đấu giá và xuất khẩu hàng hoá .
Bán hàng hợp đồng và đơn hàng: là hình thức bán hàng được thực hiện qua
hợp đồng ký kết giữa các bên. Tùy thuộc vai trò quan trọng của hàng hóa và yêu
cầu của người bán có thể người mua phải gửi đơn hàng cho người bán. Thông
thường hàng hóa quan trọng, bán với số lượng lớn, để tạo điểu kiện cho người bán
chuẩn bị hàng hóa theo yêu cầu của người mua. Trong quá trình thực hiện hợp
đồng, hai bên cùng thể hiện trách nhiệm và tôn trọng lợi ích của nhau.
Thuận mua vừa bán: đối với hàng hóa không quan trọng có thể thuận mua vừa
bán không cần ký kết hợp đồng, không cần gửi đơn hàng.
Bán đấu giá: là hình thức bán hàng thường đối với hàng hóa có khối lượng

lớn, hàng khó tiêu chuẩn hóa, hàng chuyên dùng. Bán đấu giá để tìm người mua với
giá cao nhất.
Xuất khẩu hàng hoá: có hai phương thức là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu
ủy thác. Trong đó, xuất khẩu trực tiếp là phương thức đơn vị kinh doanh xuất –
nhập khẩu trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài, trực tiếp
giao hàng và thu tiền hàng. Xuất khẩu ủy thác là hình thức kinh doanh mà trong đó
đơn vị kinh doanh xuất – nhập khẩu không trực tiếp xuất khẩu hàng hóa và thu tiền


13
hàng mà phải thông qua một đơn vị xuất – nhập khẩu có uy tín thực hiện hoạt động
xuất khẩu cho mình.
+ Căn cứ theo mối quan hệ thanh toán có mua đứt bán đoạn và sử dụng các
hình thức tín dụng trong thanh toán như bán hàng trả chậm, bán hàng trả góp.
Mua đứt bán đoạn: là hình thức mua bán và thanh toán ngay khi giao nhận
hàng hóa. Nó có ưu điểm là doanh nghiệp thu tiền ngay, đảm bảo an toàn trong kinh
doanh, nhưng cũng gây trở ngại cho những khách hàng không có tiền ngay mà nhất
là họ không có đủ tiền mà muốn mua trả góp.
Bán hàng trả góp: người mua trả tiền mua hàng thành nhiều lần. Doanh
nghiệp thương mại ngoài số tiền thu theo hóa đơn giá bán hàng hóa còn thu thêm
khoản tiền lãi trả chậm của khách hàng.
+ Các hình thức bán hàng khác : Hình thức bán hàng trực tiếp, bán hàng từ xa,
bán hàng qua điện thoại, bán hàng qua người môi giới , qua nhân viên tiếp thị và
bán hàng qua Internet.
Bán hàng trực tiếp: là việc bán hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp nhất từ
tay người bán đến tay người mua mà không sử dụng người bán lại hay qua một địa
điểm bán lẻ cố định nào.
Bán hàng từ xa: ban đầu là hình thức bán hàng gửi hàng đặt mua qua
catalogue theo đường bưu điện, sau đó là bán hàng từ xa qua điện thoại. hình thức
bán hàng này tuy doanh số thấp nhưng doanh nghiệp thu nhận được những thông tin

bổ ích về nhu cầu thị trường.
Bán hàng qua điện thoại: người bán sử dụng các máy điện thoại để thu hút các
khách hàng mới, tiếp xúc với khách hàng hiện tại để xác định chác chắn các mức độ
thỏa mãn hoặc để nhận các đặt hàng.
Bán hàng qua người môi giới: phù hợp với doanh nghiệp lần đầu thâm nhập
thị trường hoặc thị trường biến động mạnh mà người bán ít kinh nghiệm hoặc thị
trường mà việc tuyên truyền quảng cáo khó khăn.
Bán hàng qua nhân viên tiếp thị: là hình thức bán hàng sử dụng đội ngũ nhân
viên tiếp thị có chuyên môn để bán hàng.


14
Bán hàng qua internet: (thương mại điện tử) là hình thức bán hàng qua mạng,
thông qua quảng cáo và báo giá trên mạng, khách hàng gọi điện thoại đặt hàng hoặc
trực tiếp trên mạng và nhà cung ứng giao hàng đến tận nơi cho khách hàng.
b) Các hình thức bán lẻ hàng hóa
Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc
các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về mang tính chất tiêu dùng
nội bộ. Bán hàng theo phương thức này có đặc điểm là hàng hoá đã ra khỏi lĩnh vực
lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá đã
được thực hiện. Bán lẻ thường bán đơn chiếc hoặc bán với số lượng nhỏ, giá bán
thường ổn định. Bán lẻ có thể thực hiện dưới các hình thức sau:
Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Bán lẻ thu tiền tập trung là hình thức bán
hàng mà trong đó tách rời nghiệp vụ thu tiền của người mua và nghiệp vụ giao hàng
cho người mua. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền làm nhiệm vụ thu tiền của
khách, viết hoá đơn hoặc tích kê cho khách để khách đến nhận hàng ở quầy hàng do
nhân viên bán hàng giao. Hết ca (hoặc hết ngày) bán hàng, nhân viên bán hàng căn
cứ vào hoá đơn và tích kê giao hàng cho khách hoặc kiểm kê hàng hoá tồn quầy để
xác định số lượng hàng đã bán trong ngày, trong ca và lập báo cáo bán hàng. Nhân
viên thu tiền làm giấy nộp tiền và nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ.

Hình thức bán lẻ thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này, nhân viên bán hàng
trực tiếp thu tiền của khách và giao hàng cho khách. Hết ca, hết ngày bán hàng,
nhân viên bán hàng làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Đồng thời, kiểm kê
hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày và lập báo
cáo bán hàng.
Hình thức bán lẻ tự phục vụ (tự chọn): Theo hình thức này, khách hàng tự chọn
lấy hàng hoá, mang đến bán tình tiền để tính tiền và thanh toán tiền hàng. Nhân viên
thu tiền kiểm hàng, tính tiền, lập hoá đơn bán hàng và thu tiền của khách hàng. Nhân
viên bán hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng và bảo quản hàng hoá ở quầy (kệ)
do mình phụ trách. Hình thức này được áp dụng phổ biến ở các siêu thị.


15
Hình thức bán trả góp: Theo hình thức này, người mua được trả tiền mua hàng
thành nhiều lần. Doanh nghiệp thương mại, ngoài số tiền thu theo giá bán thông
thường còn thu thêm ở người mua một khoản lãi do trả chậm. Đối với hình thức
này, về thực chất, người bán chỉ mất quyền sở hữu khi người mua thanh toán hết
tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, khi giao hàng cho người mua, hàng hoá bán
trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán ghi nhận doanh thu.
Hình thức bán hàng tự động: Bán hàng tự động là hình thức bán lẻ hàng hoá
mà trong đó, các doanh nghiệp thương mại sử dụng các máy bán hàng tự động
chuyên dùng cho một hoặc một vài loại hàng hoá nào đó đặt ở các nơi công cộng.
Khách hàng sau khi bỏ tiền vào máy, máy sẽ tự động đẩy hàng ra cho người mua.
Hình thức gửi đại lý bán hay ký gửi hàng hoá: Gửi đại lý bán hay ký gửi hàng
hoá là hình thức bán hàng mà trong đó doanh nghiệp thương mại giao hàng cho cơ
sở đại lý, ký gửi để các cơ sở này trực tiếp bán hàng. Bên nhận làm đại lý, ký gửi sẽ
trực tiếp bán hàng, thanh toán tiền hàng và được hưởng hoa hồng đại lý. Số hàng
chuyển giao cho các cơ sở đại lý, ký gửi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
thương mại cho đến khi doanh nghiệp thương mại được cơ sở đại lý, ký gửi thanh
toán tiền hay chấp nhận thanh toán hoặc thông báo về số hàng đã bán được, doanh

nghiệp mới mất quyền sở hữu về số hàng này.
1.2.3. Khái niệm quản lý nhà nước với các cơ sở bán lẻ hàng hóa
a) Cơ sở bán lẻ hàng hóa
Cơ sở bán lẻ là đơn vị thuộc sở hữu của doanh nghiệp để thực hiện việc bán lẻ.
Hình thức tổ chức cơ sở bán lẻ cố định với các loại hình doanh nghiệp thương mại
bán lẻ hoặc điểm bán lẻ được phân loại chủ yếu theo ngành hàng, mặt hàng, mức
giá, phương thức phục vụ, diện tích kinh doanh, địa điểm gắn với các không gian
lãnh thổ, khu vực địa lý cụ thể. Các loại hình cơ sở bán lẻ chủ yếu gồm: Trung tâm
mua sắm, đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng bách hóa, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng
chuyên doanh, cửa hàng đồ hiệu, cửa hàng giá rẻ, cửa hàng tạp hóa, chợ, trung tâm
phân phối, trung tâm tiêu thụ của nhà sản xuất …


16

Hệ thống cơ
sở bán lẻ
truyền thống

Xe bán
hàng rong
Chợ
Kiốt, cửa
hàng bán lẻ

Hệ thống cơ
sở bán lẻ
trong nước

Siêu thị

Hệ thống cơ sở
bán lẻ
hiện đại

Trung tâm
thương mại
Cửa hàng
tiện lợi….

Sơ đồ 1.2: Phân loại cơ sở bán lẻ hàng hoá trên thị trường trong nước theo
phương thức phục vụ
Tùy theo góc độ và mục đích nghiên cứu, có thể phân loại cơ sở bán lẻ hàng
hóa theo các tiêu chí sau:
Phân loại cơ sở bán lẻ hàng hóa theo phương thức phục vụ/ phương thức bán
lẻ, có thể chia các cơ sở bán lẻ ra thành hai loại, cơ sở bán lẻ truyền thống và cơ sở
bán lẻ hiện đại.
+ Cơ sở bán lẻ truyền thống thường được tổ chức dưới dạng các cửa hàng nhỏ,
chợ, xe bán hàng rong… trong đó các cơ sở bán lẻ hàng hóa truyền thống chủ yếu
sử dụng phương thức bán hàng thủ công, trực tiếp. Người mua hàng thực hiện việc
lựa chọn hàng hóa dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bán hàng.
+ Cơ sở bán lẻ hiện đại: bao gồm các siêu thị, trung tâm thương mại, chuỗi
cửa hàng, trung tâm mua sắm … Phương thức bán lẻ tại các cơ sở bán lẻ hiện đại là
phương thức bán lẻ trong đó có sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại
vào việc quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh. Người mua hàng thường tự mình


17
thực hiện toàn bộ công đoạn lựa chọn và mua hàng mà không cần có sự giúp đỡ, hỗ
trợ từ phía người bán hàng.
Theo quy mô và hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh của các cơ sở bán lẻ:

Người ta có thể chia các cơ sở bán lẻ thành các loại như: Đại siêu thị, siêu thị, siêu
thị mini, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, chợ, cửa hàng, kiốt …
Theo hình thức phục vụ khách hàng: người ta phân ra thành: Cơ sở bán lẻ cố
định (cửa hàng, kiốt …), cơ sở bán lẻ lưu động (xe bán hàng lưu động, các cửa hàng
lưu động, các nhóm bán hàng lưu động …), hình thức tổ chức bán lẻ trực tuyến (bán
lẻ trên mạng). Ngày nay với sự hỗ trợ của các phương tiện điện tử, các hình thức
bán lẻ phục vụ khách hàng ngày càng phát triển đa dạng, có sự kết hợp giữa thương
mại điện tử và bán hàng lưu động theo nhóm nhà phân phối.
Theo phạm vi mặt hàng kinh doanh bán lẻ: người ta chia các cơ sở bán lẻ hàng
hóa thành các loại: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tiện dụng, các siêu thị chuyên
doanh và các siêu thị tổng hợp, cửa hàng bách hóa.
Theo phương thức tổ chức kinh doanh bán lẻ: người ta chia làm ba loại: cơ sở
bán lẻ độc lập (cửa hàng bán lẻ độc lập, siêu thị độc lập …), cơ sở bán lẻ theo chuỗi
liên kết (chuỗi cửa hàng tiện lợi, chuỗi siêu thị …), và cơ sở kinh doanh bán lẻ trên
mạng / trực tuyến.
b) Khái niệm QLNN đối với các cơ sở bán lẻ hàng hòa có vốn đầu tư nước
ngoài.
* Quản lý
Tiếp cận thứ nhất: Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý tổ chức,
điều hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa học và nghệ thuật
vào khách thể quản lý nhằm đạt được kết quả tối ưu theo mục tiêu đã đề ra thông
qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ thích hợp.
Tiếp cận thứ hai: Quản lý còn được hiểu là một hệ thống, bao gồm các thành
tố: Đầu ra, đầu vào, quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra, môi trường và mục
tiêu. Các yếu tố trên luôn tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, chúng đặt ra các yêu


18
cầu, những vấn đề quản phải giải quyết. Mặt khác, chúng ảnh hưởng tới hiệu lực và
hiệu quả của quản lý.

Quản lý là một hiện tượng khách quan trong mọi hình thái kinh tế - xã hội. Nó
là sự tất yếu của lao động tập thể và các hoạt động mang tính cộng đồng, xã hội.
Ngày nay, nhận thức của con người về lợi ích và hiệu quả to lớn của quản lý trong
nền kinh tế nói chung, cũng như trong thương mại nói riêng ngày càng cao. Quản lý
trở thành vấn đề trọng tâm trong cải cách kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Ở
nước ta trong suốt 20 năm đổi mới vừa qua cũng là thời kỳ tiến hành cải cách kinh
tế và thay đổi cơ chế quản lý trên cả tầm vĩ mô và doanh nghiệp.
* Quản lý nhà nước
Quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước,
được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt
động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật
nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước...
Quản lý nhà nước đối với kinh doanh là một bộ phận hợp thành của quản lý
nhà nước về kinh tế. Đó là sự tác động có định hướng, có tổ chức của hệ thống cơ
quan quản lý trên tầm vĩ mô về kinh doanh các cấp đến hệ thống bị quản lý thông
qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt
ra trong điều kiện môi trường xác định.
Quản lý nhà nước đối với kinh doanh bao giờ cũng là một quá trình thực hiện
và phối hợp bốn chức năng cơ bản: Hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát của
các cơ quan quản lý vĩ mô các cấp.
Các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước đối với kinh doanh là người ra quyết
định, người tổ chức, điều hành và tác động tới các doanh nghiệp. Các tổ chức cá
nhân tiến hành hoạt động kinh doanh trong phạm vi thị trường cả nước, thị trường
từng địa phương theo phạm vi phân công, phân cấp quản lý.
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều hành và quản lý kinh doanh
thông qua ban hành và sử dụng các công cụ kế hoạch hóa, chính sách, luật pháp và
các quy định khác về kinh doanh để tác động tới các chủ thể người bán, người mua


19

trên thị trường. Sự tác động của hệ thống quản lý nhà nước về kinh doanh đến đối
tượng trao đổi luôn đặt trong mối quan hệ với môi trường cụ thể, xác định trong
từng thời kỳ.
* Quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền
của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn
lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát
triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở trộng giao lưu quốc tế.
Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện thông qua ba cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý
có tính chất nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành
pháp (Chính phủ).
* Quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại là quá trình cơ quan QLNN quản lý thương
mại bằng pháp luật, chính sách chiến lược quy hoạch và kế hoạch phát triển
thương mại để thực hiện những chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước điều tiết hoạt động thương mại bằng các công cụ giá cả, tài chính,
tín dụng. Nhà nước xây dựng và ban hành pháp luật về thương mại, xây dựng chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại. Hướng dẫn tổ chức
thực hiện pháp luật về thương mại, điều tiết lưu thông hàng hóa theo định hướng
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và dự báo thị trường trong và
ngoài nước. Tổ chức, hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại. Đào tạo và xây
dựng đội ngũ các bộ nhân viên hoạt động thương mại. Đàm phán, ký kết các điều
ước thương mại với nước ngoài, tham gia các công ước quốc tế, kiểm tra kiểm soát
thị trường.
* Quản lý nhà nước về thương mại hàng hóa
Quản lý nhà nước về thương mại hàng hóa là quá trình cơ quan QLNN xây
dựng các quy định về chính sách, khung khổ pháp lý để hướng dẫn và điều tiết các



×