Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.93 KB, 27 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

PHM TH KIM LAN

ĐảNG Bộ TỉNH THáI BìNH LãNH ĐạO
ĐàO TạO NGUồN NHÂN LựC CHO NÔNG NGHIệP
Từ NĂM 2001 đến năm 2010
Chuyờn ngnh : Lch s ng Cng sn Vit Nam
Mó s

: 62 22 03 15

TểM TT LUN N TIN S LCH S

H NI - 2015


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ngư ờ i hư ớ ng dẫ n khoa họ c: 1. PGS.TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC
2. PGS.TS VŨ QUANG VINH

Phả n biệ n 1:

Phả n biệ n 2:

Phả n biệ n 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Về khoa họ c
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực nói
chung và đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nói riêng và việc vận
dụng chủ trương của Trung ương Đảng đối với các địa phương rất phong phú
và đa dạng trên tất cả các phương diện từ lãnh đạo, chỉ đạo đến tổ chức triển
khai thực hiện. Đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này tuy nhiên,
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Thái Bình đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010.
1.2. Về thự c tiễ n
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình đối với công tác đào
tạo nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, xã hội của địa phương và góp phần thực hiện mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Để tiếp tục thực hiện tốt
công tác này, việc nghiên cứu, đánh giá, hệ thống hóa kết quả, hiệu quả, rút
ra bài học kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo là cần thiết và cấp bách.
Nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm về công tác đào tạo nguồn
nhân lực cho nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 2001 đến
năm 2010, có thể vận dụng phục vụ lãnh đạo đẩy mạnh công tác này trong
giai đoạn hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mụ c đích
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo NNL
cho nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm
2001 đến năm 2010 nhằm tổng kết thực tiễn và đúc kết những kinh nghiệm có
giá trị; góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học, có cơ sở lịch sử cho việc
hoạch định chủ trương phát triển NNL cho nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới của tỉnh Thái Bình.


2

2.2. Nhiệ m vụ
- Làm rõ những yếu tố tác động đến đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp tỉnh Thái Bình khi bước vào thế kỷ XXI;
- Hệ thống khái quát các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp trong 10 năm (2001-2010);
- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh chỉ đạo thực hiện đào tạo nguồn nhân
lực cho nông nghiệp từ 2001 đến năm 2010;
- Nhận xét những thành tựu, hạn chế và đúc kết kinh nghiệm từ sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp (2001-2010).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái
Bình về chủ trương, sự chỉ đạo và kết quả cụ thể về đào tạo nguồn nhân lực
cho nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
- Về nội dung: nguồn nhân lực cho nông nghiệp là khái niệm rộng bao

gồm nhiều đối tượng như: nông dân, cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp,
cán bộ quản lý nông nghiệp… Tuy nhiên, luận án tập trung nghiên cứu, làm
rõ chủ trương và chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp chủ yếu ở đối tượng nông dân.
- Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010.
- Về không gian: Trên địa bàn nông thôn tỉnh Thái Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luậ n
Luận án được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về NNL nói
chung, NNL cho nông nghiệp nói riêng; đặc biệt là những quan điểm của
Đảng trong công cuộc đổi mới.


3

Dựa vào cơ sở lý luận trên, luận án khai thác các nguồn tư liệu: văn
kiện của Đảng và Nhà nước, văn kiện của Đảng bộ tỉnh Thái Bình, UBND
tỉnh Thái Bình và các nguồn tư liệu của các cơ quan, ban, ngành có liên
quan.
Luận án còn kế thừa tư liệu từ kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn đào tạo NNL nói
chung và đào tạo NNL cho nông nghiệp nói riêng.
Đồng thời, luận án bổ sung thêm các tư liệu do cá nhân tự sưu tầm.
4.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ
yếu. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp tổng
hợp, phân tích, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn nhân chứng
lịch sử có liên quan tới công tác đào tạo NNL cho nông nghiệp để minh
chứng và luận giải quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đào tạo NNL

cho nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Luận án góp phần làm rõ hơn vai trò của lực lượng sản xuất trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trong đó vai trò cốt yếu là nguồn nhân lực.
- Từ thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp tỉnh Thái Bình,
luận án khắc họa rõ nét về quá trình phát triển trong nhận thức cũng như
trong thực tiễn về đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp qua 2 giai đoạn
2001-2005 và 2006-2010.
- Từ thành công và hạn chế trong quá trình lãnh đạo đào tạo nguồn nhân
lực cho nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Thái Bình, luận án đúc kết một số
kinh nghiệm chủ yếu có giá trị lý luận và thực tiễn.
- Luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho các cấp, các ngành của tỉnh
Thái Bình trong đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nói riêng và nguồn
nhân lực nói chung.


4

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NH NG CÔNG TRÌNH NGHIÊN C U LIÊN QUAN

N

TÀI LU N ÁN

Trong quá trình nghiên cứu, có thể chia thành 3 nhóm công trình nghiên
cứu như sau:

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, đào tạo
nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho nông nghiệp nói riêng
Có thể kể đến những công trình sau: “Phát triển nguồn nhân lực kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta” của tác giả Trần Văn Tùng và Lê Ái
Lâm; “Nhân lực Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001-2010” của nhóm
tác giả Nguyễn Văn Đễ, Bùi Xuân Trường, Nguyễn Kim Liệu; “Nguồn lực
con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của
Đoàn Văn Khái; “Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò của công đoàn”,
tác giả Lê Thanh Hà.
Vấn đề nguồn nhân lực cho nông nghiệp cũng thu hút được sự quan
tâm của rất nhiều tác giả, có thể kể đến các công trình như: “Con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” của Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; “Cơ
sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước đi, cơ chế, chính sách trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” do GS, TS Vũ Năng
Dũng chủ biên; “Con đường và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam” do Nguyễn Kế Tuấn chủ biên; Cuốn “Tác động
của hội nhập kinh tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam”, do tác giả
Nguyễn Từ chủ biên; “Cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân yếu thế trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường” của tác giả Vũ Dũng; Cuốn sách
“Đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới (1986-2011)” của tác giả Nguyễn Ngọc Hà…


5

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực ở các vùng miền, các ngành và địa phương trong cả nước
Các công trình điển hình như: “Phát triển nguồn nhân lực của Thanh Hóa

đến năm 2010”, của Bùi Tiến Lợi; “Việc làm của nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020”, của Trần
Thị Minh Ngọc; “Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện
nay” của Nguyễn Thị Tố Uyên….
1.1.3. Những công trình liên quan đến vấn đề nhân lực và đào tạo
nguồn nhân lực trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình
Công trình “Đặc điểm khí hậu Thái Bình” của tác giả Vũ Anh; Công
trình “Người nông dân Thái Bình trong lịch sử”của Ban Nghiên cứu lịch sử
Đảng tỉnh Thái Bình (1986); Cuốn sách “Nông nghiệp, nông thôn Thái Bình,
thực trạng và giải pháp”, tác giả Bùi Sỹ Trùy chủ biênviết về KT - XH trên
quê lúa Thái Bình trong hơn 10 năm đầu đổi mới; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái
Bình 1975 – 2000 của Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
Nhìn chung, những công trình liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân lực
và đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình còn
rất hạn chế. Cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu quá trình
Đảng bộ tỉnh Thái Bình thực hiện đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp
trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới góc độ Lịch sử Đảng.
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA
HỌC ĐÃ CÔNG BỐ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT

1.2.1. Đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố liên quan đến đề tài luận án
Các công trình nghiên cứu đã thu được những kết quả sau:
- Những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn
nhân lực trên phạm vi cả nước.
- Những vấn đề lý luận chung về đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp, nông thôn.



6

- Những công trình nghiên cứu về tỉnh Thái Bình bước đầu làm rõ một
số đặc điểm điều kiện tự nhiên, xã hội; một số chủ trương của Đảng bộ tỉnh,
của chính quyền các cấp, ban, ngành về đào tạo nguồn nhân lực nói chung,
nguồn nhân lực cho nông nghiệp nói riêng.
Đây là những nguồn tư liệu và luận cứ khoa học quan trọng để luận án
kế thừa, luận giải mục đích và nhiệm vụ của luận án.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
- Luận án tập trung làm rõ yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực và nguồn
nhân lực cho nông nghiệp trên tổng thể cả nước, từ đó làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn trong các biện pháp của Đảng bộ Thái Bình đào tạo nguồn nhân lực
cho nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
- Làm rõ tầm quan trọng và những yêu cầu khách quan đặt ra với đào
tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nói chung, đặc biệt là tỉnh thuần nông
như Thái Bình thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện.
- Làm rõ quá trình hoạch định chủ trương và các biện pháp của Đảng
bộ Thái Bình qua các nhiệm kỳ Đại hội từ khi đổi mới, đặc biệt các nhiệm kỳ
từ năm 2001 đến năm 2010 về đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp.
- Từ khảo sát thực tiễn, luận án hệ thống, phân tích, đánh giá quá trình
tổ chức chỉ đạo thực hiện chủ trương đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp qua các giai đoạn 2001 - 2005 và 2006 - 2010.
- Trên cơ sở những thành công và những hạn chế, luận án nêu một số
kinh nghiệm chủ yếu của quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực
hiện đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp của tỉnh Thái Bình trong
những năm tới.


7


Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP TỈNH THÁI BÌNH

Có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực, nhưng nguồn nhân
lực quốc gia đều có chung những đặc điểm: nguồn nhân lực là nguồn lực con
người; nguồn nhân lực là bộ phận lao động trong toàn thể dân số; nguồn
nhân lực phản ánh khả năng lao động của một xã hội.
Nguồn nhân lực cho nông nghiệp là nguồn nhân lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội nông thôn, đồng thời cung cấp nhân lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung. nguồn nhân lực này thống nhất nhưng không đồng
nhất với nông dân. nguồn nhân lực nông nghiệp là toàn bộ những tiềm năng
con người phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp là quá trình làm cho nguồn
nhân lực biến đổi trên tất cả các mặt: cơ cấu, thể lực, kỹ năng, kiến thức và
tinh thần... cho công việc. Nhờ vậy mà phát triển được năng lực của họ, ổn
định công ăn việc làm, nâng cao địa vị kinh tế - xã hội. Đào tạo nguồn
nhân lực cho nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
hoạt động nhằm tạo ra nguồn nhân lực có số lượng hợp lý và chất lượng
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Từ cách hiểu khái niệm nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực cho
nông nghiệp như trên, có thể thấy những yêu cầu khách quan đặt ra đối với
việc đào tạo nguồn nhân lực trong công cuộc đổi mới của đất nước:
2.1.1. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng, phát triển nền kinh tế
tri thức đòi hỏi phải đào tạo nguồn nhân lực

- Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.


8

- Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và xây dựng, phát triển nền kinh tế tri thức
2.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thái Bình
Điều kiện tự nhiên
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm phía Nam châu thổ sông
Hồng, có địa hình tương đối bằng phẳng, không có đồi núi, một mặt giáp
biển và hệ thống các sông bao quanh, tạo ra cho Thái Bình vùng đồng đất phì
nhiêu, thuận lợi cho việc phát triển trồng trọt, yếu tố quan trọng để góp phần
phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Về tình hình dân số: Theo số liệu thống kê ngày 1/10/2000, dân số toàn
tỉnh Thái Bình là 1.801.000 người. Trong đó nam: chiếm 47,9% dân số; nữ
chiếm 52,1% dân số; dân số thành thị 5,8% dân số; dân số nông thôn
94,2% dân số trong tỉnh. Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà dân số tập trung chủ yếu ở nông thôn
là vấn đề phức tạp của chính sách phát triển kinh tế - xã hội Thái Bình.
Nguồn lực này cần được đào tạo chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về đất đai và tình hình sử dụng đất đai: Theo số liệu thống kê ngày 01
tháng 10 năm 2000 của Cục thống kê tỉnh Thái Bình, tổng diện tích đất đai
toàn tỉnh là 154.224 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 96.567 ha
chiếm 62,6%. Với quỹ đất dành cho nông nghiệp chiếm một tỷ lệ lớn nhất,
kinh tế Thái Bình chủ yếu vẫn coi sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế
chủ lực.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp: Thái Bình là một

trong những tỉnh có hệ thống điện, đường, trường, trạm, thông tin liên lạc,
nguồn nước sạch ở vùng nông thôn đứng đầu cả nước.
Về đầu tư phát triển: Trong các năm 1997, 1998, Thái Bình mặc dù phải
tập trung giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp nhằm ổn định tình hình,
nhưng không vì thế mà đầu tư xây dựng cơ bản cho nông nghiệp bị xem nhẹ.


9

Như vậy, từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, có thể nhận thấy những
thuận lợi cơ bản trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp tỉnh
Thái Bình nhưng đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, thách thức trong
quá trình đào tạo nguồn nhân lực nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
2.1.3. Thực trạng nguồn nhân lực nông nghiệp Thái Bình trước
năm 2001
Về số lượng NNL: Kết quả thống kê năm 2000, nguồn lao động trong
độ tuổi là 1,73 triệu người, lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm
74,3%, công nghiệp và xây dựng 17%, thương mại 8,7% . Lao động từ 15
tuổi trở lên có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ đạt 7,07%, thấp hơn so với
các tỉnh khác trong vùng ĐBSH (7,55%). Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên
không có việc làm thường xuyên trong khu vực nông thôn chiếm khoảng
4,4% tổng số người lao động kinh tế (cả nước 6,8%, ĐBSH 7,8%). Trong đó,
lực lượng lao động nữ không có việc làm thường xuyên chiếm khoảng trên
17 ngàn người. Đây là vấn đề lớn đặt ra đối với nông nghiệp và nông thôn
Thái Bình khi bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn
Bên cạnh đó, trước năm 2000, tình hình nông dân, nông thôn Thái Bình
diễn biến phức tạp, Đảng bộ tỉnh vừa phải ổn định tình hình kinh tế - xã hội,
vừa phải có chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả nước.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có
thực hiện được hay không là phụ thuộc vào chất lượng nguồn lực lao động ở
tỉnh, trong đó, dạy nghề cho người nông dân giải quyết việc làm lúc nông
nhàn, đào tạo những người nông dân có nghề để chuyển đổi nghề và đào tạo
nâng cao trình độ của người lao động đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông
nghiệp là đòi hỏi cấp thiết trong quá trình thực công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở tỉnh.


10

2.2. QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ CHỦ TRƯƠNG
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NÓI CHUNG VÀ NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP NÓI RIÊNG

2.2.1. Quan điểm của Đảng về đào tạo nguồn nhân lực
Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 xác định một trong những nhiệm vụ
trọng tâm trong 10 năm đầu thế kỷ XXI là: Phát triển mạnh nguồn lực con
người là một trong 3 khâu đột phá nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Đối với
nông nghiệp, nông thôn, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, coi đây là một trọng điểm quan
trọng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cụ thể hóa quan điểm Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị lần
thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX (tháng 2/2002) bàn về
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Hội nghị
thông qua Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 18/3/2002 Về đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001-2010 làm rõ
nội hàm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Vì vậy, nếu không đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp thì không thể thực hiện được cả hai quá
trình trên.
2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đào tạo nguồn
nhân lực cho nông nghiệp những năm đầu thế kỷ XXI
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI (tháng 03 năm
2001) trên cơ sở vận dụng sáng tạo những chủ trương của Đảng về nguồn
nhân lực đã đề ra phương hướng đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp
của tỉnh nhằm từng bước đưa nông nghiệp Thái Bình theo hướng hiện đại.
Mục tiêu cụ thể với kinh tế nông nghiệp được Đại hội xác định là: Phát triển
toàn diện kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa …Chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn; đưa


11

một phần lao động nông nghiệp sang làm nghề phi nông nghiệp, giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp lúc nông nhàn…
Sau Đại hội, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã ban hành nhiều nghị quyết
chuyên đề nhằm cụ thể hóa chủ trương và triển khai lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện. trong đó đặc biệt là Nghị quyết 13/ NQ-TU Về phát triển, đào tạo, dạy
nghề giai đoạn 2004-2010. Nghị quyết thể hiện sự quyết tâm của Đảng bộ
tỉnh Thái Bình trong việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh, đồng thời cũng mở ra một giai đoạn mới
cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, đặc biệt ở lĩnh vực
dạy nghề cho người nông dân, là cơ sở thực hiện chủ trương xã hội hóa công
tác dạy nghề cho nông dân.
2.3. ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP (2001-2005)


2.3.1. Quá trình chỉ đạo thực hiện
Tỉnh ủy Thái Bình đã chỉ đạo đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp
trên những lĩnh vực cụ thể như: Xây dựng các làng nghề; Gắn đào tạo nguồn
nhân lực cho nông nghiệp với giải quyết việc làm; Ủy ban nhân dân đã bố trí
ngân sách, chỉ đạo xây dựng và thực hiện các đề án về phát triển đào tạo, dạy
nghề; đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách của tỉnh để thúc đẩy sự nghiệp
đào tạo, dạy nghề phát triển nhanh và bền vững; Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ
đạo Sở Lao động Thương binh và Xã hội xây dựng và phê duyệt Quy hoạch
mạng lưới các cơ sở dạy nghề của tỉnh đến năm 2010; Đào tạo nguồn nhân
lực cho nông nghiệp trong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp; Tạo nguồn và nâng cao chất lượng cán bộ nông nghiệp…
2.3.2. Những kết quả đạt được
Đến năm 2005, tỉnh Thái Bình đã đạt những kết quả cụ thể về đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiêp. Nghề và làng nghề cũng được quan tâm
mở rộng và có bước phát triển. 100% số xã có nghề, 173 làng nghề đạt tiêu
chuẩn, tăng 91 làng nghề so với năm 2000, giải quyết việc làm ổn định, tăng
thu nhập cho 15 vạn lao động hàng năm giải quyết thêm 7000-10000 lao


12

động; Số cán bộ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
có trình độ liên tục được bổ sung hằng năm; Công tác đào tạo nghề cho
người lao động, đặc biệt là đào tạo nghề ngắn hạn cho người nông dân được
quan tâm, nhất là từ khi có nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy về đào tạo
nghề. Bình quân hàng năm đào tạo nghề cho trên 16 nghìn lao động, góp
phần giải quyết việc làm cho khoảng 22,4 nghìn người, tăng 12% so với chỉ
tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra. Tỷ lệ sử dụng thời gian ở khu
vực nông thôn tăng 1,1%/năm. Đến năm 2005 tỷ lệ lao động qua đào tạo của
Thái Bình đạt 30%, trong đó qua đào tạo nghề 18%

Tiểu kết chương 2
Thực hiện chủ trương, quan điểm của Trung ương Đảng về phát triển
kinh tế - xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã cụ thể
hóa thành các chủ trương và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế
hoạch thực hiện cụ thể đối với từng lĩnh vực trong đó đặc biệt là đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp.
Tuy nhiên, công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp thời kỳ
này còn những hạn chế về quy mô, chất lượng, vấn đề việc làm và thu nhập
của nguồn nhân lực cho nông nghiệp sau khi được đào tạo đào tạo nghề.
Nhận thức của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về tầm quan trọng của công tác đào
tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp giai đoạn này đã có sự phát triển hơn
hẳn giai đoạn trước, nhưng thực tế chỉ đạo và quá trình thực hiện chưa thực
sự ngang bằng với nhận thức. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp vẫn chủ yếu được thực hiện lồng ghép với chương trình đào tạo cán
bộ, bồi dưỡng chuyên môn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
những khóa đào tạo chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân chủ yếu
được thực hiện theo các kế hoạch của kinh tế nông nghiệp, vấn đề xã hội hóa
công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp giai đoạn này chưa được
đẩy mạnh.


13

Chương 3
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN
LỰC CHO NÔNG NGHIỆP GÓP PHẦN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (2006 -2010)
3.1. YÊU CẦU MỚI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010


3.1.1. Yêu cầu mới về đào tạo nguồn nhân lực và nguồn nhân lực
cho nông nghiệp
Đến năm 2006, tình hình thế giới và Việt Nam có những thay đổi
nhanh chóng, đòi hỏi chủ trương, chính sách của Đảng phải phù hợp với tình
hình mới. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng trở nên cấp thiết hơn.
3.1.2. Quan điểm của Đảng về đào tạo nguồn nhân lực
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã chủ trương
chú trọng đào tạo nguồn nhân lực mọi lĩnh vực cho đất nước, trong đó có
nguồn nhân lực cho nông nghiệp.
Vấn đề nguồn nhân lực cho nông nghiệp được Đảng giải quyết theo
hướng: Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ; Chú
trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động nông thôn,
nhất là ở các vùng nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát
triển các cơ sở phi nông nghiệp.
Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp được Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương Khóa X (7/2008) bàn cụ thể. Mục tiêu cụ thể đến
năm 2020 là: giải quyết cơ bản việc làm nâng cao thu nhập của dân cư nông
thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng
30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, số
xã đạt tiêu chuẩn NTM khoảng trên 50%... Hội nghị khẳng định việc làm cho
nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước . Để giải quyết vấn đề này phải có kế hoạch cụ
thể về đào tạo nghề và chính sách đảm bảo việc làm cho nông dân, nhất là ở
các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất; Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ


14

nông thôn, triển khai kế hoạch hợp tác nông nghiệp với một số quốc gia có
nhu cầu.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ “Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
Ngày 27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ TTg phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Quan điểm của Đề án đặt ra là: Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng
cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
3.2. ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH VẬN DỤNG CHỦ TRƯƠNG CỦA
ĐẢNG VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP

3.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đào tạo nguồn
nhân lực cho nông nghiệp
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVII tháng 1 năm 2006 với
quan điểm: thực sự coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, đã đề ra các các biện pháp nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho
nông nghiệp: Khuyến khích phát triển nghề, sản xuất công nghiệp, dịch vụ ở
nông thôn; Quan tâm đào tạo nghề, tạo điều kiện cho lao động nông thôn có
việc làm tại chỗ và có khả năng tìm được việc làm; tập trung giải quyết các
vấn đề xã hội ở nông thôn và xây dựng nông thôn mới; Mở rộng và phát triển
các nghề, làng nghề hiện có, thuận lợi về thị trường, đồng thời phát triển các
nghề và làng nghề mới theo hướng: tập trung đầu tư chiều sâu để nâng cao
chất lượng làng nghề.
Ngày 15 tháng 5 năm 2007, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Thông báo về
việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
(Khóa XVI) Về phát triển đào tạo nghề giai đoạn 2004-2010.
3.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện và những kết quả đạt được
* Quá trình tổ chức thực hiện:



15

Tỉnh ủy Thái Bình chỉ đạo các cơ quan ban, ngành tham gia trực tiếp
đào tạo nguồn nhân lực trên các lĩnh vực như: Hỗ trợ đào tạo, dạy nghề ngắn
hạn cho lao động nông thôn, Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư
phục vụ đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đề ra các hình thức đào tạo: đào tạo ngắn hạn, tập huấn theo
chuyên ngành ở các trường đại học, các viện nghiên cứu, cập nhật các thông
tin khoa học; Hợp đồng với số sinh viên đã tốt nghiệp đại học từ loại khá trở
lên đến làm việc ở các đơn vị sự nghiệp có thu với số lượng từ 10-15% để bổ
sung cho cán bộ đến tuổi nghỉ hưu; Có cơ chế, chính sách để mỗi xã có ít
nhất 1 kỹ sư nông nghiệp làm việc; Tập trung vào đào tạo nghề cho thanh
niên nông thôn, kỹ năng quản lý kinh doanh cho các chủ trang trại, giành
phần thích đáng vốn khuyến nông để hướng dẫn, tập huấn cho nông dân.
Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tháng 10 năm
2008 Về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về nông nghiệp, dân, nông đặc biệt chú trọng việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp; phát triển nghề,
làng nghề; xây dựng và bổ sung quy hoạch phát triển nông nghiệp, quy
hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với quy hoạch xây dựng nông
thôn mới; xây dựng đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn để đào tạo
nguồn nhân lực trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới.
Thực hiện các Nghị quyết của Tỉnh ủy và căn cứ vào chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, từ 2006-2010, các sở, ban, ngành của tỉnh: Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công
thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư và các huyện đã triển khai xây dựng chương
trình, kế hoạch nhằm đẩy mạnh công tác dạy nghề, đào tạo phát triển nhân
lực cho các ngành kinh tế của tỉnh, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, ứng dụng
công nghệ phục vụ sản xuất.

Năm 2009, UBND tỉnh thông qua Đề án dạy nghề cho lao động nông
thôn giai đoạn 2010 -2020. Đề án là sự tiếp tục thực hiện Nghị quyết 13 Về


16

phát triển đào tạo dạy nghề giai đoạn 2004-2010, và Đề án 05 Về xã hội hóa
các hoạt động dạy nghề của UBND tỉnh Thái Bình ngày 27-11-2006. Với
mục tiêu: Nâng cao quy mô và chất lượng đào tạo cho lao động nông thôn
đáp ứng chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; Dạy nghề cho lao động nông thôn nhằm tạo ra bước đột phá
tăng năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp và khu vực nông thôn;
Phấn đấu đến năm 2015 có it nhất 60% và năm 2020 là 70% lực lượng lao
động nông thôn được đào tạo chuyên môn kỹ thuật và có việc làm phù hợp.
Đề án thực hiện thể hiện công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp
luôn được các cấp ủy, chính quyền của tỉnh Thái Bình quan tâm hàng đầu.
Về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ xây dựng nông thôn mới: Thực
hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tỉnh ủy, huyện ủy đã chỉ đạo các
xã thành lập ban chỉ đạo, tiến hành rà soát, chuẩn bị các điều kiện và xây
dựng quy hoạch xây dựng nông thôn mới của xã theo 19 tiêu chí. Trong đó,
giáo dục- đào tạo, dạy nghề nâng cao chất lượng lao động nhằm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập của người nông dân là
những tiêu chí quan trọng để xây dựng nông thôn mới. Mặc dù, giai đoạn đầu
Trung ương triển khai thí điểm tại 11 xã trong cả nước do Ban Bí thư trực
tiếp chỉ đạo, Thái Bình không có xã được lựa chọn thực hiện thí điểm nhưng
tỉnh ủy đã chỉ đạo lựa chọn 8 xã thuộc 8 huyện để tiến hành thí điểm xây
dựng nông thôn mới của tỉnh và chỉ đạo các xã tiến hành rà soát các quy
hoạch hiện có để chuẩn bị các điều kiện cho giai đoạn triển khai tiếp theo.
* Những kết quả đạt được

Những kết quả về đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp: Cùng với
sự phát triển của kinh tế, tác động của các chủ trương, giải pháp phát triển
nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho nông nghiệp của tỉnh Thái
Bình giai đoạn 2006 -2010 đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Chương
trình giải quyết việc làm đã tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động.
Hằng năm, đào tạo nghề và giải quyết việc làm mới cho khoảng 29 nghìn lao


17

động. Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn tăng
1,14%. Năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 42%, tăng 12%; trong đó
qua đào tạo nghề 29%, tăng 10% so với năm 2005.
Riêng trong lĩnh vực dạy nghề, lĩnh vực trực tiếp đào tạo đội ngũ người
lao động tham gia sản xuất trực tiếp đã được quan tâm, đầu tư phát triển, góp
phần đáp ứng nhu cầu đào tạo của người lao động và nhu cầu nhân lực của
tỉnh, đặc biệt với chương trình đào tạo nghề ngắn hạn đã góp phần đào tạo
lực lượng lao động lớn cho nông nghiệp, nông thôn. Có thể đánh giá khái
quát về kết quả công tác dạy nghề của tỉnh những năm qua như sau:
- Về mạng lưới cơ sở dạy nghề: Tính đến hết năm 2010, trên địa bàn
tỉnh Thái Bình có 46 cơ sở dạy nghề, trong đó: 01 cơ sở liên kết đào tạo của
trường Cao đẳng nghề; 08 trường Trung cấp nghề; 18 Trung tâm dạy nghề và
19 cơ sở khác tham gia dạy nghề.
- Về kết quả của công tác dạy nghề: Giai đoạn 2004 - 2010, số lao động
được tuyển sinh đào tạo nghề ở các cấp trình độ là 168.900 người, trong đó:
Trình độ Cao đẳng nghề là 3.400 người; Trung cấp nghề và dạy nghề dài hạn
là 21.000 người; Dạy nghề ngắn hạn, Sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng
là 144.500 người.
- Chất lượng lao động đã qua đào tạo nghề đạt khá tốt, tỷ lệ lao động có
việc làm sau đào tạo đạt khá cao (khoảng 75%).

- Về ngành nghề đào tạo, lao động được tuyển sinh đào tạo thuộc nhóm
ngành, nghề nông nghiệp: 57.340 người (chiếm 33,9% tổng số lao động được
đào tạo).
Bên cạnh quy mô giáo dục, dạy nghề được mở rộng, việc đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các cấp trong nông nghiệp cũng được coi
trọng. Các trung tâm, trạm khuyến nông, khuyến công được tăng cường
đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ quản lý được tăng cường từ cấp
tỉnh đến xã.
Nhữngkết quả trên đã tác động tích cực đến việc phát triển nguồn nhân
lực đối với kinh tế xã hội khu vực nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Bình


18

Tiểu kết chương 3
Giai đoạn 2006-2010 nền kinh tế thế giới có nhiều biến động sâu sắc.
Những chủ trương, chính sách về đào tạo nguồn nhân lực của Đảng, Nhà
nước thể hiện quá trình nhận thức ngày một sáng rõ hơn về vai trò của nguồn
nhân lực đối với sự nghiệp cách mạng to lớn hiện nay.
Từ những kết quả và kinh nghiệm qua thực tế những năm đầu đổi mới
và những năm 2001-2005 về phát triển nguồn nhân lực, bước sang giai đoạn
2006-2010, giai đoạn đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà
trọng tâm là nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Đảng bộ tỉnh Thái Bình xây
dựng và phát triển hệ thống quan điểm, chủ trương, phương thức chỉ đạo
trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế nông
nghiệp của tỉnh. Gắn kết đào tạo với sử dụng lao động, gắn ngành nghề đào
tạo với nhu cầu của thị trường và quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực của
tỉnh. Với chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện, phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa trong điều kiện đất chật, người đông thì vấn đề
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào

sản xuất là yếu tố quyết định. Sự vận dụng linh hoạt của Đảng bộ Thái Bình
được thể hiện ở chủ trương: xuất phát từ bối cảnh một tỉnh thuần nông, trọng
tâm đặt ra của Đảng bộ tỉnh là đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp chất
lượng cao từng bước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh.


19

Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT

4.1.1. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp ở tỉnh
Thái Bình những năm 2001-2010 đã đạt được những thành tựu quan
trọng cả trong nhận thức và thực tiễn
Một là, Đảng bộ tỉnh Thái bình đã vận dụng chủ trương c a ng v
ào t o ngu n nhân l c nông nghi p t ng b c phù h p v i c thù c a a
ph ng.
Hai là, từng bước nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân trong
tỉnh về đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, vai trò của nguồn nhân lực
nông nghiệp trong tình hình mới.
Ba là, xã hội hóa vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp trong
tỉnh được đẩy mạnh và từng bước đạt những kết quả đáng ghi nhận.
Bốn là, quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp
dần từng bước hoàn thiện.
Có thể thấy, những thành tựu trong công tác đào tạo nguồn nhân lực
trong giai đoạn này chứng minh sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình là
hoàn toàn đúng đắn. Tất cả các cấp, sở, ban, ngành đều vào cuộc thực hiện
chủ trương của Đảng bộ, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng

nguồn nhân lực nông nghiệp. Qua thời gian, năng lực lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh Thái Bình ngày càng trưởng thành. Đảng bộ luôn nêu cao tinh thần
cầu tiến, thẳng thắn chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong quá trình lãnh
đạo và chỉ đạo. Bên cạnh đó, Đảng bộ luôn thực hiện cải tiến phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo quản lý và điều hành của Đảng và chính quyền các cấp.
Mặt khác, Đảng bộ tỉnh Thái Bình luôn phát huy truyền thống yêu nước,
sự năng động, sáng tạo trong lao động của mọi tầng lớp nhân dân trong
tỉnh, thực hiện đoàn kết toàn dân, vượt qua mọi khó khăn, xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội.


20

4.1.2. Lãnh đạo đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho nông
nghiệp ở tỉnh Thái Bình vẫn còn những hạn chế
Về mạng lưới cơ sở dạy nghề, cơ sở giáo dục chuyên nghiệp phân bố
không đồng đều tập trung chủ yếu ở địa bàn thành phố (27 cơ sở) dẫn đến
hạn chế khả năng tiếp cận với dạy nghề của người lao động nông thôn để
được đào tạo mới cũng như đào tạo nâng cao trình độ. Toàn tỉnh, chưa có
trường cao đẳng nghề (chỉ có một cơ sở liên kết dạy trình độ cao đẳng nghề,
đến năm 2012 mới thành lập trường Cao đẳng nghề Thái Bình).
Về chất lượng các trường và trung tâm dạy nghề: Mặc dù số lượng cơ
sở dạy nghề nhiều nhưng đa số các trường trung cấp nghề và trung tâm dạy
nghề chưa đạt đủ các tiêu chí, tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Chưa có sự đầu tư đúng mức cho việc đào tạo các
nghề kỹ thuật cao, mũi nhọn và đặc thù để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương; chưa xây dựng được nghề đào tạo mang tính thương hiệu
đối với từng cơ sở.
Đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo nghề là kiêm nhiệm còn nhiều, đội ngũ
giáo viên dạy nghề thiếu về số lượng, trình độ giáo viên không đồng đều, đòi
hỏi phải tiếp tục kiện toàn, nâng cao trình độ cả về chuyên môn giảng dạy và

nghiệp vụ sư phạm.
Việc giám sát, đánh giá các hoạt động đào tạo, dạy nghề chưa được
thường xuyên. Hệ thống tổ chức, quản lý nhà nước về công tác dạy nghề còn
nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của công tác dạy nghề; nhiều
nơi, việc tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn còn hình thức, chưa thực
sự gắn với thực tiễn sản xuất nông nghiệp và nhu cầu của bà con nông dân.
Về đầu tư cho cơ sở đào tạo, dạy nghề, đặc biệt thuộc lĩnh vực khoa học
- kỹ thuật cần phải có một lượng kinh phí lớn, nhất là đầu tư thiết bị dạy nghề
công nghệ cao; trong khi đó hàng năm kinh phí đầu tư cho các cơ sở dạy
nghề còn hạn chế, thiếu tập trung, nguồn đầu tư chủ yếu phụ thuộc vào sự hỗ
trợ của Trung ương từ các Chương trình mục tiêu Quốc gia.


21

Công tác xã hội hóa dạy nghề phát triển chậm, việc huy động các
doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực
còn hạn chế.
Về chất lượng lao động nông thôn: Lao động nông nghiệp của tỉnh vẫn
chiếm tỷ lệ rất cao và hầu hết là lao động chưa qua đào tạo trong khi các
nghề về nông nghiệp chủ yếu cũng là đào tạo ngắn hạn. Điều này cho thấy
chất lượng lao động ở khu vực nông thôn còn hạn chế ảnh hưởng trực tiếp tới
năng suất lao động xã hội, đồng thời tạo ra những rào cản đối với việc thu hút
đầu tư của khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng như giải quyết vấn đề việc
làm cho người lao động trong tỉnh.
Những hạn chế trên là do một số cấp ủy Đảng, chính quyền, cán bộ,
đảng viên chưa nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác dạy nghề cho
lao động nông thôn. Vì vậy dẫn đến công tác kiểm tra, giám sát tình hình
thực hiện ở nhiều nơi chưa tốt.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU


Một là, nắm vững quan điểm, đường lối của Trung ương Đảng, đồng
thời vận dụng sáng tạo, phù hợp với đặc điểm truyền thống của địa phương
để hoạch định chủ trương và chỉ đạo về đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp có hiệu quả
Hai là, đào tạo NNL phải gắn với định hướng phát triển đúng đắn,
đồng thời quyết tâm chỉ đạo thực hiện là điều kiện tiên quyết để đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp có kết quả
Ba là, Chú trọng khai thác các nguồn lực tại chỗ, phát huy thế mạnh của
tỉnh, lựa chọn trọng tâm, trọng điểm và có những bước đi, giải pháp thích
hợp trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp
Bốn là, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp gắn liền mật
thiết và thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
xây dựng nông thôn mới


22

KẾT LUẬN
1. Những năm đầu thế kỷ XXI, trước những biến đổi to lớn của tình
hình thế giới, xu thế hợp tác, hội nhập, đa phương hóa đang trở thành xu thế
chủ đạo trong đời sống kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ và việc ứng dụng vào thực tiễn sản xuất đã góp phần tạo ra năng
suất lao động cao trong các ngành, lĩnh vực.
Trong xu thế đó, Việt Nam đứng trước những cơ hội lớn để phát triển
kinh tế, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực và thế giới; đồng
thời, cũng đứng trước những thách thức vô cùng to lớn nếu không tận dụng
được những cơ hội, bắt kịp xu thế của thời đại. Với những thành tựu bước
đầu sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm

phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Để thực hiện mục tiêu trên, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển được coi là nhân tố quyết định. Trong đó, đào tạo nguồn nhân
lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là vấn đề
được ưu tiên hàng đầu.
2. Là một tỉnh kinh tế thuần nông, một trong những thuận lợi to lớn của
nông nghiệp Thái Bình là có nguồn nhân lực đông đảo. nguồn nhân lực trong
nông nghiệp Thái Bình từ lịch sử đến hiện tại luôn đồng lòng thực hiện chủ
trương, đường lối cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, với đặc điểm kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp, lực lượng chủ yếu là nông dân, đặc điểm xã hội chủ yếu
là nông thôn, kinh tế Thái Bình chủ yếu vẫn là nông nghiệp, lực lượng lao
động phần lớn là lao động thủ công chưa qua đào tạo. Vì vậy, đào tạo nguồn
nhân lực này để họ góp phần vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là vô cùng cần thiết.
Căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh, vận dụng sáng tạo đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân


23

lực của Đảng, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã đề ra chủ trương và lãnh đạo thực
hiện công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới của địa phương. Quá trình
thực hiện chủ trương đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp của tỉnh đã
mang lại những kết quả nhất định.
3. Trong giai đoạn từ 2001 đến 2005, công tác đào tạo nguồn nhân
lực được thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVII và các Nghị quyết chuyên đề của tỉnh, đặc biệt là Nghị quyết số
13-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc phát triển đào tạo, dạy

nghề giai đoạn 2004-2010 với các đề án và chính sách được Ủy ban nhân
dân tỉnh ban hành.
Giai đoạn 2006 - 2010 công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho
nông nghiệp của tỉnh được chỉ đạo phát triển một cách toàn diện từ số lượng
đến từng bước nâng cao chất lượng nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển toàn
diện nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa.
Tuy nhiên, so sánh 2 giai đoạn 2001-2005 với giai đoạn 2006-2010 có
thể thấy rõ ở giai đoạn 2001-2005, công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp của tỉnh Thái Bình chưa thực sự phát triển mạnh mẽ so với nhận thức
của Tỉnh ủy. Chỉ từ sau Nghị quyết số 13-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về việc phát triển đào tạo, dạy nghề giai đoạn 2004-2010 công tác đào tạo
nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nói
riêng mới bước vào giai đoạn đẩy mạnh thực hiện. Những kết quả đạt được
trong giai đoạn 2006-2010 là cơ sở để Tỉnh ủy Thái Bình chỉ đạo tiếp tục xây
dựng Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2010 - 2020, và Quy
hoạch hệ thống các cơ sở dạy nghề tỉnh Thái Bình giai đoạn 2010-2020,
4. Qua 10 năm chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo nguồn nhân lực cho
nông nghiệp, tỉnh Thái Bình đã hình thành được hệ thống cơ sở đào tạo và hệ
thống quản lý, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển đào tạo nhân lực.
Cùng với nâng cao nhận thức về công tác này cho toàn hệ thống chính trị và


×