Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Tăng cường công tác kiểm tra thuế tại bàn ở chi cục thuế thành phố vĩnh yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.56 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH
––––––––––––––––––––––––––

LÊ MINH ĐỨC

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA THUẾ
TẠI BÀN Ở CHI CỤC THUẾ THÀNH PHỐ VĨNH YÊN,
TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

THÁI NGUYÊN - 2013


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH
––––––––––––––––––––––––––

LÊ MINH ĐỨC

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA THUẾ
TẠI BÀN Ở CHI CỤC THUẾ THÀNH PHỐ VĨNH YÊN,
TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. BÙI MINH VŨ


THÁI NGUYÊN - 2013


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng, luận văn thạc sỹ kinh tế “Tăng cường công tác kiểm tra
thuế tại bàn ở Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên” là công trình nghiên cứu của tôi.
Những số liệu được sử dụng được chỉ rõ nguồn trích dẫn trong danh mục tài
liệu tham khảo. Kết quả nghiên cứu này chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào từ trước đến nay.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn

Lê Minh Đức


ii
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình nghiên cứu làm luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ
của thầy giáo hướng dẫn, tập thể cán bộ thuế tại Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên,
các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình tôi đã tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thiện
luận văn này.
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Giáo Sư, Tiến sĩ Bùi Minh Vũ, thầy
giáo hướng dẫn luận văn cho tôi, thầy đã giúp tôi có phương pháp nghiên cứu hợp
lý, nhìn nhận vấn đề một cách khoa học, lôgíc, qua đó đã giúp cho đề tài của tôi có
ý nghĩa thực tiễn và có tính khả thi.
Tiếp theo, tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo, tập thể cán bộ thuế tại
Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên đã giúp tôi nắm bắt được thực trạng công tác
kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục cũng như những vướng mắc và đề xuất trong quá
trình kiểm tra thuế tại Chi cục.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn ban lãnh đạo và các đồng nghiệp đã góp ý và tạo
điều kiện cho tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Ngoài ra, bên cạnh sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn, các đồng nghiệp, tôi
còn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè và gia đình để hoàn thành bài luận văn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý đào
tạo sau Đại học, các Thầy, Cô giáo Tường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh
Thái Nguyên, Giáo Sư, Tiến Sĩ Bùi Minh Vũ, cảm ơn ban lãnh đạo, tập thể cán bộ
Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên đã hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi có
thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn

Lê Minh Đức


iii
MỤC LỤC


iv
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐTNT
NNT
TNCN
GTGT
NSNN
TNHH
TP
SXKD

DN
CP
HĐND

Đối tượng nộp thuế
Người nộp thuế
Thu nhập cá nhân
Giá trị gia tăng
Ngân sách nhà nước
Trách nhiệm hữu hạn
Thành phố
Sản xuất kinh doanh
Doanh Nghiệp
Cổ phần
Hội đồng nhân dân


v
DANH MỤC CÁC BẢNG


vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
1. Sơ đồ:


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, số lượng và quy mô của các Doanh nghiệp ngày

một lớn không còn bó hẹp trong một địa phương mà ngày càng quốc gia hóa, toàn
cầu hóa, hoạt động SXKD ngày càng đa dạng, phong phú. Điều đó gây khó khăn
cho công tác quản lý Nhà nước nói chung và công tác quản lý về thuế nói riêng.
Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của một số Doanh nghiệp, cá nhân chưa
cao. Chính vì vậy, chức năng của kiểm tra thuế tại bàn ngày càng được chú trọng
nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật về thuế, nâng cao tính tuân thủ
luật pháp của người nộp thuế.
Cùng với việc thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và hội nhập, hệ
thống chính sách thuế ở Việt Nam cũng đã được cải cách để đáp ứng nhu cầu phát
triển của đất nước. Để phát triển ý tưởng cơ quan thuế và Doanh nghiệp trở thành
bạn đồng hành trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với ngân sách Nhà nước, cơ
chế tự khai tự nộp đã được mở rộng thực thi trên quy mô cả nước. Cơ chế này tạo
điều kiện cho các Doanh nghiệp, cá nhân có nghĩa vụ thuế thực hiện nghĩa vụ một
cách thuận lợi, nhanh chóng nhất. Cùng với đó, phương thức kiểm tra thuế của cơ
quan thuế cũng có nhiều đổi mới, đặc biệt là công tác kiểm tra thuế tại trụ sở cơ
quan thuế. Đây vốn là một trong những nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ kiểm tra
thuế tại bàn. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, cán bộ thuế tại bàn cần có hiểu biết
đúng đắn về công tác này, từ đó có biện pháp quản lý phù hợp.
Trong quá trình tìm hiểu thực tế và thu thập tài liệu ở Chi cục thuế Thành
phố Vĩnh Yên, nhờ sự hướng dẫn tận tình của Giáo Sư, Tiến Sĩ Bùi Minh Vũ và cán
bộ Đội kiển tra thuế Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên, trong thời gian học tập và
nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. Đây là một tất yếu khách quan vừa có giá trị
về mặt lý luận cũng như thực tiễn sâu sắc của mình, em chọn đề tài: “Tăng cường
công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên” được tác giả
lựa chọn làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác kiểm tra thuế tại bàn giai đoạn
2009-2011, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp tăng cường công tác kiểm tra thuế tại
bàn ở Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên.



2
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu tổng quan về Thành phố Vĩnh Yên và Chi cục thuế Thành phố
Vĩnh Yên.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế
Thành phố Vĩnh Yên.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi
cục thuế Thành phố Vĩnh Yên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tình hình chung của Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên
và trú trọng nghiên cứu về công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế Thành phố
Vĩnh Yên.
- Phạm vi thời gian: đề tài sử dụng số liệu 3 năm 2009, 2010, 2011.
- Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu tại Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên.
4. Những đóng góp của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu “Công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế
Thành phố Vĩnh Yên” đề tài có những đóng góp như sau
Về mặt lý luận:
Đề tài giúp làm rõ những cơ sở lý luận liên quan đến công tác thanh tra, kiểm
tra thuế nói chung và công tác kiểm tra thuế tại bàn nói riêng
Về mặt thực tiễn:
- Đề tài làm rõ thực trạng công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế
Thành phố Vĩnh Yên.
- Đề tài đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác
kiểm tra thuế tại bàn.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho
các Chi cục thuế, Cục thuế và những người quan tâm đến hiệu quả công tác thanh
tra, kiểm tra thuế nói chung và công tác kiểm tra thuế tại bàn nói riêng.


3
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, kết cấu của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu về công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Chương 3: Kết quả nghiên cứu công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế
Thành phố Vĩnh Yên
Chương 4: Giải pháp nâng cao công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế
Thành phố Vĩnh Yên


4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm về thuế
a. Khái niệm: Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo luật của mỗi tổ chức,
cá nhân đối với Nhà nước, không hoàn trả trực tiếp ngang giá, nhưng được dùng để
trang trải các chi phí vì lợi ích chung của toàn dân như: quốc phòng, an ninh, giao
thông, giáo dục, y tế…
Thuế phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.
+ Lệ phí: Là khoản thu vùa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về
việc thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp
cho ngân sách Nhà nước như lệ phí trước bạ, lệ phí công chứng, lệ phí hải quan…

+ Phí: Là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên về xây dựng,
bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối với những hoạt động phục vụ người nộp phí.
- Những loại phí mang tính phổ biến như: phí giao thông, thuỷ lợi phí…
- Loại mang tính chất địa phương như: quỹ bảo vệ trật tự , an ninh. Phí cầu
đường ở thôn, xã…
* Phân biệt thuế với phí và lệ phí
- Xét về mặt giá trị pháp lý
Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng
văn bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua. Trình tự ban hành một Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ.
Lệ phí, phí được ban hành đưới dạng Nghị định, Quyết định của chính phủ;
Quyết định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Nghị quyết
của hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
- Xét về mục đích và mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế - xã hội
Thuế có ba tác dụng lớn:
+ Tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
+ Ðiều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng
phát triển kinh tế.


5
+ Ðảm bảo sự bình đẳng giữa những chủ thể kinh doanh và công bằng xã hội.
Qua đó chúng ta thấy thuế có tác động lớn đến toàn bộ qúa trình phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu
thành chính sách tài chính quốc gia.
Trong khi đó lệ phí, phí không có những tác dụng nói trên, nó chỉ có tác
dụng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không
phải dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi mặt của Nhà nước, mà trước hết dùng để bù
đắp các chi phí hoạt động của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số dịch vụ công
cộng như: dịch vụ công chứng, dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng

tài sản, dịch vụ hải quan...
Ngoài dấu hiệu là thuế được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà
nước, thuế còn được phân biệt với lệ phí, phí ở chổ các cá nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước nhưng không trên cơ sở được hưởng những lợi ích
vật chất tương ứng mang tính chất đối giá. Trong khi đó hình thức lệ phí, phí và
công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của
lệ phí và phí chỉ xảy ra khi chủ thể nộp lệ phí, phí thừa hưởng trực tiếp những dịch
vụ do Nhà nước cung cấp.
Bên cạnh đó, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp
thuế. Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế thể hiện ở chổ Nhà nước thu thuế
từ các cá nhân và pháp nhân trong xã hội nhưng không bị ràng buộc bởi trách nhiệm
phải hoàn trả lại cho người nộp. Người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được các lợi
ích vật chất từ việc sử dụng các dịch vụ công cộng do Nhà nước sử dụng các khoản
chi của ngân sách Nhà nước để thực hiện các chính sách kinh tế xã hội chung cho cả
cộng đồng. Tuy nhiên, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với
khoản tiền thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Tính chất này của thuế cho phép
chúng ta phân biệt thuế với lệ phí, phí và các khoản thu mà Nhà nước tập trung vào
ngân sách Nhà nước nhưng ràng buộc trách nhiệm hoàn trả cho đối tượng nộp dưới
các hình thức như vay nợ, tạm ứng cho ngân sách Nhà nước.
- Xét về tên gọi và mục đích:
Mục đích của từng loại lệ phí rất rõ ràng, thường phù hợp với tên gọi của nó.
Nói một cách chính xác hơn, tên gọi của loại lệ phí nào phản ánh khá đầy đủ mục
đích sử dụng loại lệ phí đó.


6
Mỗi một Luật thuế đều có mục đích riêng. Tuy nhiên, đa số các sắc thuế có tên
gọi không phản ánh đúng mục đích sử dụng, mà thường phản ánh đối tượng tính thuế.
Nói chung mục đích của việc sử dụng của các loại thuế thường là tạo nguồn
qũy ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước, thực hiện

chức năng quản lý xã hội của Nhà nước./.
b. Phân loại thuế
* Phân loại theo tính chất chuyển dịch về thuế
Bao gồm thuế gián thu và thuế trực thu để phân biệt đối tượng chịu thuế.
- Thuế gián thu: Là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là người
chịu thuế. Thuế gián thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành
trong giá mua hàng hoá, nhằm động viên sự đóng góp của người tiêu dùng. Thực chất
người tiêu dùng phải trả khoản thuế đó nhưng lại nộp thông qua nhà kinh doanh, nhà
sản xuất. Như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…
- Thuế trực thu: Là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế đồng thời là người
chịu thuế. Thuế trực thu tác động trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế như thuế
thu nhập Doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất.
* Phân loại thuế theo đối tượng chịu thuế
Theo cách phân loại này có thể chia thuế thành:
- Thuế đánh vào hoạt động kinh doanh, dich vụ như: thuế giá trị gia tăng…
- Thuế đánh vào hàng hoá tiêu dùng đặc biệt như: thuế tiêu thụ đặc biệt…
- Thuế đánh vào thu nhập như: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập DN...
- Thuế đánh vào tài sản như : thuế nhà đất, lệ phí trước bạ…
- Thuế đánh vào việc sử dụng một số tài sản quốc gia như: thuế tài nguyên,
thuế sử dụng đất nông nghiệp…
1.1.1.2. Khái niệm về kiểm tra thuế tại bàn
Kiểm tra thuế tại bàn là công việc được thực hiện thường xuyên đối với các
hồ sơ thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong
hồ sơ thuế, sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế. Khi kiểm tra hồ sơ
thuế, công chức quản lý thuế thực hiện việc đối chiếu, so sánh nội dung trong hồ sơ
thuế với các thông tin, tài liệu có liên quan, các quy định của pháp luật về thuế, kết
quả kiểm tra thực tế hàng hoá trong trường hợp cần thiết đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu.



7
+ Việc xử lý kết quả kiểm tra thuế tại bàn được quy định như sau:
- Trường hợp kiểm tra trong quá trình làm thủ tục hải quan phát hiện vi phạm
dẫn đến thiếu thuế, trốn thuế, gian lận thuế thì người nộp thuế phải nộp đủ thuế, bị
xử phạt theo quy định của pháp luật về thuế và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
- Trường hợp hồ sơ thuế có nội dung cần làm rõ liên quan đến số tiền thuế
phải nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn, cơ
quan quản lý thuế thông báo yêu cầu người nộp thuế giải trình hoặc bổ sung thông
tin, tài liệu. Trường hợp người nộp thuế đã giải trình và bổ sung thông tin, tài liệu
chứng minh số thuế đã khai là đúng thì hồ sơ thuế được chấp nhận; nếu sau khi giải
trình và bổ sung hồ sơ mà không đủ căn cứ chứng minh số thuế đã khai là đúng thì
cơ quan quản lý thuế yêu cầu người nộp thuế khai bổ sung.
- Trường hợp hết thời hạn theo thông báo của cơ quan quản lý thuế mà người
nộp thuế không giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu hoặc không khai bổ sung hồ sơ
thuế hoặc giải trình, khai bổ sung hồ sơ thuế không đúng thì thủ trưởng cơ quan
quản lý thuế quản lý trực tiếp ấn định số tiền thuế phải nộp hoặc ra quyết định kiểm
tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế.
- Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan nếu cơ quan
hải quan phát hiện hồ sơ thuế có nội dung cần làm rõ liên quan đến nghĩa vụ thuế,
số tiền thuế được miễn, số tiến thuế được giảm, số tiến thuế được hoàn thì cơ quan
hải quan yêu cầu người nộp thuế giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu. Trường
hợp người nộp thuế đã giải trình và bổ sung thông tin, tài liệu chứng minh số thuế là
đúng thì hồ sơ thuế được chấp nhận. Trường hợp không chứng minh được số thuế
đã khai là đúng hoặc quá thời hạn mà không giải trình được thì thủ trưởng cơ quan
hải quan ấn định số tiền thuế phải nộp hoặc ra quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở
của người nộp thuế.
- Quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế phải được gửi cho
người nộp thuế trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày ký. Trong thời hạn năm
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định kiểm tra thuế mà người nộp thuế

chứng minh được số thuế đã khai là đúng hoặc nộp đủ số tiền thuế phải nộp thì cơ
quan quản lý thuế bãi bỏ quyết định kiểm tra thuế.


8
1.1.1.3. Đối tượng của công tác kiểm tra thuế tại bàn
Tất cả các tổ chức, cá nhân đã đăng kí với cơ quan thuế.
1.1.1.4. Mối quan hệ giữa kiểm ra thuế tại bàn và kiểm tra thuế tại trụ sở
người nộp thuế
a. Về nội dung
Kiểm tra thuế tại bàn: Khi kiểm tra hồ sơ thuế, công chức quản lý thuế thực
hiện việc đối chiếu, so sánh nội dung trong hồ sơ thuế với các thông tin, tài liệu có
liên quan, các quy định của pháp luật về thuế. Trường hợp hồ sơ thuế có nội dung
cần làm rõ liên quan đến số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế
được giảm, số tiền thuế được hoàn, cơ quan quản lý thuế thông báo yêu cầu người
nộp thuế giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu. Trường hợp người nộp thuế đã
giải trình và bổ sung thông tin, tài liệu chứng minh số thuế đã khai là đúng thì hồ sơ
thuế được chấp nhận; nếu sau khi giải trình và bổ sung hồ sơ mà không đủ căn cứ
chứng minh số thuế đã khai là đúng thì cơ quan quản lý thuế yêu cầu người nộp
thuế khai bổ sung. Trường hợp hết thời hạn theo thông báo của cơ quan quản lý
thuế mà người nộp thuế không giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu hoặc không khai
bổ sung hồ sơ thuế hoặc giải trình, khai bổ sung hồ sơ thuế không đúng thì thủ
trưởng cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp ấn định số tiền thuế phải nộp hoặc ra
quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế.
Kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế: Công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra
tại trụ sở người nộp thuế phải đối chiếu nội dung khai báo với sổ kế toán, chứng từ
kế toán, báo cáo tài chính, các tài liệu có liên quan, tình trạng thực tế trong phạm vi,
nội dung của quyết định kiểm tra thuế, hóa đơn. Kết thúc kiểm tra phải lập biên bản
kiểm tra, kết luận các hành vi vi phạm và kiến nghị hình thức xử lý theo đúng qui
định của pháp luật về thuế.

b. Về thời gian
Kiểm tra thuế tại bàn: Được thực hiện thường xuyên đối với các hồ sơ thuế
nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế,
sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế.
Kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế: Việc kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp
thuế chỉ được thực hiện khi có quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế.


9
Người nộp thuế có quyền từ chối việc kiểm tra khi không có quyết định kiểm tra
thuế.
Quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế do thủ trưởng cơ quan
thuế ban hành.
Quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế phải có những nội
dung cơ bản sau đây:
- Căn cứ pháp lý để kiểm tra;
- Đối tượng kiểm tra (trường hợp đối tượng kiểm tra là người nộp thuế có
các đơn vị thành viên thì nội dung Quyết định kiểm tra phải ghi cụ thể danh sách
đơn vị thành viên thuộc đối tượng kiểm tra theo Quyết định);
- Nội dung, phạm vi kiểm tra;
- Thời gian tiến hành kiểm tra;
- Trưởng đoàn kiểm tra và các thành viên khác của đoàn kiểm tra.
- Quyền hạn và trách nhiệm của Đoàn kiểm tra và đối tượng kiểm tra.
c. Về địa điểm
Kiểm tra thuế tại bàn: Được thực hiện tại trụ sở của cơ quan thuế
Kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế: Được thực hiện tại trụ sở của người nộp thuế
* Trường hợp qua kiểm tra, đối chiếu, so sánh, phân tích xét thấy có nội
dung khai chưa đúng, số liệu khai không chính xác hoặc có những nội dung cần xác
minh liên quan đến số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được
giảm, số tiền thuế được hoàn, cơ quan thuế ra Thông báo bằng văn bản đề nghị

người nộp thuế giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu theo mẫu số 01/KTTT ban
hành kèm theo Thông tư 60/2007/TT-BTC
Thời gian giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế không
quá mười ngày. Người nộp thuế có thể đến cơ quan thuế giải trình trực tiếp hoặc bổ
sung thông tin, tài liệu hoặc bằng văn bản.
Trường hợp người nộp thuế giải trình trực tiếp tại cơ quan thuế thì phải lập
Biên bản làm việc theo mẫu số 02/KTTT ban hành kèm theo Thông tư
60/2007/TT-BTC.
- Sau khi người nộp thuế đã giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu theo yêu
cầu của cơ quan thuế:


10
+ Trường hợp người nộp thuế đã giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu
đầy đủ theo yêu cầu của cơ quan thuế và chứng minh số thuế đã khai là đúng thì hồ
sơ thuế được chấp nhận.
+ Trường hợp người nộp thuế đã giải trình hoặc bổ sung thông tin, tài liệu
mà không đủ căn cứ chứng minh số thuế đã khai là đúng thì cơ quan thuế yêu cầu
người nộp thuế khai bổ sung. Thời hạn khai bổ sung là năm ngày kể từ ngày cơ
quan thuế có thông báo yêu cầu khai bổ sung.
+ Trường hợp hết thời hạn theo thông báo của cơ quan thuế mà người nộp
thuế không giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu; hoặc không khai bổ sung hồ sơ
thuế; hoặc giải trình, khai bổ sung hồ sơ thuế nhưng không chứng minh được số
thuế đã khai là đúng thì cơ quan thuế:
+ Ấn định số thuế phải nộp và thông báo cho người nộp thuế biết theo mẫu
01/AĐTH ban hành kèm theo Thông tư 60/2007/TT-BTC hoặc
+ Ra quyết định kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế nếu không đủ căn cứ để
ấn định số thuế phải nộp. Quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế
theo mẫu số 03/KTTT ban hành kèm theo Thông tư 60/2007/TT-BTC.
- Trường hợp Người nộp thuế đăng kí kê khai thuế qua mạng Internet thì cơ

quan thuế sẽ dựa vào tờ khai cuối cùng của Người nộp thuế gửi cho cơ quan Thuế,
cơ quan thuế sẽ tiến hành kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế đối với tờ khai thuế của
người nộp thuế
- Mối quan hệ giữa kiểm tra thuế tại bàn và kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp
thuế được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa kiểm tra thuế tại bàn và kiểm tra thuế tại trụ sở
người nộp thuế

Kiểm tra thuế
tại bàn

Hồ sơ thiếu
hoặc sai

Hồ sơ được
chấp nhận

Ra thông báo đề nghị
người nộp thuế giải
trình bổ sung

Không tiến hành kiểm tra tại
trụ sở người nộp thuế

Giải trình được
cơ quan thuế
chấp nhận

Không tiến hành
kiểm tra tại trụ sở

người nộp thuế

Giải trình không được cơ
quan thuế chấp nhận

Cơ quan thuế ấn định số thuế
phải nộp cho người nộp thuế

Ra quyết định kiểm tra
tại trụ sở người nộp thuế


11


12
* Mối quan hệ mật thiết, trực tiếp giữa các Doanh nghiệp và cơ quan thuế
Xét về bản chất, quan hệ pháp luật thuế là quan hệ pháp luật hành chính,
thiết lập giữa Nhà nước với các pháp nhân và thể nhân khác trong xã hội và được
điều chỉnh bởi phương pháp mệnh lệnh quyền uy. Dưới góc độ vật chất, quan hệ
pháp luật thuế được thiết lập để tạo lập nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
(NSNN). Tiền đề thiết lập quan hệ pháp luật thuế là do sự hình thành chính thể Nhà
nước để quản lý điều hành các hoạt động trong xã hội. Bộ phận chức năng ấy cần có
nguồn vật chất hoạt động, nên thuế hình thành. Do vậy, trong quan hệ pháp luật
thuế, các chủ thể tham gia với tư cách là người nộp thuế (NNT) buộc phải chuyển
giao một phần lợi ích của mình cho NSNN. Điều 80 Hiến pháp 1992 nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận "Đóng thuế là nghĩa vụ của công dân". Vì
thế, khi thiết lập quan hệ pháp luật thuế, các chủ thể tham gia với tư cách là NNT
trước khi Luật Quản lý thuế ra đời, thường chỉ được nhìn nhận dưới góc độ phải
thực hiện nghĩa vụ mà có rất ít quyền. Vì có ít, hoặc không xác định rõ quyền của

NNT khiến cho chủ thể này cảm thấy mình bị cưỡng bức, bị tước bỏ một phần lợi
ích vật chất nên hệ quả là họ sẽ tìm cách để trốn tránh nghĩa vụ thuế. Ngoài ra, NNT
có thể còn bị các cơ quan, cán bộ công quyền nhũng nhiễu khi thực thi quyền hành
thu thuế mà Nhà nước trao. Việc nhận thức không đầy đủ này có thể gây thiệt hại
cho Nhà nước lẫn NNT và xã hội nói chung vì những hao phí cho các mục tiêu
không mang lại giá trị.
Theo quan điểm của Mác, quyền của con người là sự thống nhất giữa quyền
và nghĩa vụ. Do vậy, trong quan hệ pháp luật thuế, NNT cũng phải có một số quyền
nhất định. Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý cho việc xác lập quyền của NNT
có ý nghĩa trong việc bảo đảm hành thu thuế cho NSNN, bảo vệ lợi ích chính đáng
của NNT.
- Quyền của người nộp thuế
NNT là chủ thể một bên đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ pháp luật thuế.
Đây là chủ thể có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết và trực tiếp sáng tạo, quản lý các
lợi ích vật chất được hình thành trong xã hội. Cũng như các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật khác, để trở thành NNT trong quan hệ pháp luật thuế đòi hỏi các
tổ chức, cá nhân phải hội đủ năng lực chủ thể - năng lực hành vi. Nghĩa là tổ chức,


13
cá nhân có thể là NNT khi họ thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định để thiết
lập mối quan hệ với các giá trị vật chất, đánh dấu quyền sở hữu với giá trị mà mình
tạo lập để từ đó, Nhà nước có cơ sở để điều tiết thuế. Vì quyền sở hữu được xem là
quyền tối cao và thiêng liêng để thực hiện quyền con người, cho nên, khi Nhà nước
điều tiết cũng phải tôn trọng quyền sở hữu của NNT. Quyền của NNT có thể phân
thành hai nhóm sau:
+ Quyền gián tiếp - được hưởng các tiện ích do Nhà nước cung cấp
Bộ máy Nhà nước hoạt động để duy trì một xã hội có tổ chức, theo đó mọi chủ
thể trong xã hội được bảo đảm duy trì đời sống vật chất và tinh thần theo những đòi
hỏi khách quan, nhưng không phá vỡ sự tồn tại của các chủ thể khác. Trong chừng

mực nhất định, người ta có thể xem quan hệ pháp luật thuế là một quan hệ hợp đồng
mà thanh toán tiền thuế là kết quả của việc thực hiện một bản hợp đồng giữa Nhà
nước và các chủ thể khác trong xã hội. Theo đó, Nhà nước là người tổ chức điều hành
xã hội, cung ứng các tiện ích công cộng, ban hành các thể chế pháp lý, tạo hành lang
pháp lý duy trì sự tồn tại bình đẳng của các chủ thể cùng sống trong Nhà nước mình.
Các chủ thể trong xã hội hưởng những lợi ích này do Nhà nước cung ứng, nên phải
thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Nhà nước một khoản giá trị nhất định.
NNT thường là chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiến
hành các hoạt động khác để kiếm tìm giá trị mới như xuất nhập khẩu, hoặc thụ
hưởng lợi ích vật chất từ quá trình sáng tạo, lao động hay do nắm giữ những quyền
về tài sản nhất định. Họ tác động vào đối tượng chịu thuế của một sắc thuế, chịu sự
điều chỉnh của sắc thuế đó và phải thực hiện nghĩa vụ cụ thể trong tổng thể nghĩa vụ
thuế là đăng ký, kê khai, nộp và quyết toán thuế. Như vậy, NNT có quyền được
hưởng các tiện ích và phúc lợi công cộng do Nhà nước cung cấp. Những lợi ích vật
chất hay tinh thần mà Nhà nước cung cấp là những giá trị đặc biệt mà không chủ thể
nào trong xã hội có khả năng thực hiện như: xây dựng các công trình công cộng,
cung ứng phúc lợi xã hội, ban hành pháp luật, thành lập các cơ quan quản lý, cơ
quan tư pháp, bộ máy trấn áp... Ta có thể gọi đây là quyền gián tiếp vì nó không
trực tiếp phát sinh từ nội hàm của quan hệ pháp luật thuế thuần tuý.
Quyền gián tiếp thể hiện sự quay trở lại của thuế đối với đời sống xã hội. Các
giá trị được phân bổ trở lại cho các chủ thể, không chỉ dành riêng cho NNT, mà


14
được phân bổ chung trong cộng đồng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Nhà
nước và thực tiễn kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Vì vậy mà thuế được xem là
khoản thu không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp. Bởi lẽ, không phải chủ thể
nào trong xã hội cũng phải nộp thuế dù cho họ có thể là NNT. Họ chỉ phải nộp khi
quan hệ xã hội mà họ tham gia chịu sự điều chỉnh của sắc thuế và quan hệ ấy mang
giá trị. Mặt khác, việc NNT thụ hưởng các tiện ích Nhà nước cung cấp mang tính

trừu tượng vì không xác định cụ thể được hưởng bao nhiêu và hưởng như thế nào,
trong khi một chủ thể khác dù không nộp thuế cho Nhà nước nhưng họ vẫn có thể
thụ hưởng tương tự. Cho dù thế nào đi nữa thì Nhà nước vẫn phải thực hiện việc
cung ứng các giá trị công cộng như là một nhiệm vụ. Không chỉ có vậy, việc tạo lập
và duy trì những giá trị này còn khẳng định sự tất yếu cần thiết phải có Nhà nước
trong một xã hội có giai cấp. Nhóm quyền này được xem là mặc nhiên dù không có
một văn bản pháp quy cụ thể nào đề cập - kể cả Hiến pháp - hoặc chỉ được đề cập
một cách gián tiếp mà thôi. Mặc dù là gián tiếp, nhưng nhóm quyền này lại là quyền
tuyệt đối, mặc nhiên hình thành và được thừa nhận trong xã hội có Nhà nước.
Nhận thức về nhóm quyền này của NNT có ý nghĩa trong việc phát huy hiệu
quả công cụ thuế. Dù không được xác định cụ thể, nhưng việc ghi nhận các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước cũng như việc điều hành NSNN hàng năm là cách thể
hiện việc đảm bảo quyền gián tiếp của NNT.
+ Quyền trực tiếp - phát sinh khi tham gia vào quan hệ pháp luật thuế
Quyền trực tiếp là quyền mà NNT có được trong quá trình thực hiện nghĩa
vụ thuế. Chúng được thừa nhận và bảo đảm thực hiện theo những quy định của
pháp luật. Tuy vậy, không thể xem việc hưởng quyền của NNT trong trường hợp
này là đương nhiên, là ngang bằng về mặt lợi ích. Đây là những quyền mà Nhà
nước cho NNT hưởng trên cơ sở điều chỉnh quan hệ pháp luật thuế cũng như đảm
bảo hiệu quả của quá trình hành thu thuế, bảo đảm vai trò của thuế như là một công
cụ điều tiết nền kinh tế, tạo sự công bằng trong xã hội. Nhà nước cho phép NNT
được bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình, trong những trường hợp như:
nộp thuế thừa so với yêu cầu của Nhà nước, lâm vào hoàn cảnh không thể tạo ra
những lợi ích vật chất tương ứng để nộp thuế, bị cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng
pháp luật thuế không đúng gây thiệt hại...


15
Mặc dù là quyền trực tiếp, nhưng những quyền này chỉ có thể là quyền phái
sinh. Nói cách khác đây là quyền tương đối. Điều đó có nghĩa là, NNT muốn thụ

hưởng những quyền này thì phải đã thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ thuế và có
thể phải tiến hành các thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
xem xét quyết định. Trong một số trường hợp (cơ quan chức năng phát hiện có dấu
hiệu vi phạm phát luật thuế từ phía NNT), mặc dù NNT thoả mãn đầy đủ các điều
kiện luật định để hưởng quyền, nhưng điều đó không có nghĩa là họ mặc nhiên được
hưởng. Điều này phụ thuộc vào sự đánh giá, chấp thuận từ phía cơ quan quản lý
Nhà nước. Thực thi những quyền này đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải xem xét
chúng trong mối tương quan với việc đảm bảo của những chủ thể khác. Vấn đề là
mức độ thực hiện nó ra sao để đảm bảo thực thi các quyền này, đồng thời không
gây nên những tác động ngược chiều với những quyền khác. Thực thi các quyền tự
nhiên chỉ bị giới hạn trong việc bảo đảm cho các thành viên khác trong xã hội được
hưởng các quyền đó, và các giới hạn này chỉ do pháp luật quy định. Pháp luật thuế
vì thế cần ghi nhận và đặt ra giới hạn với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm
đảm bảo thực thi quyền của NNT.
Công tác kiểm tra thuế tại bàn ở Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên thường
chỉ tiến hành kiểm tra hồ sơ khai thuế đối với thuế Giá trị gia tăng và thuế Thu nhập
Doanh nghiệp.
1.1.2. Các khái niệm cơ bản về thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.2.1. Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế
Có nhiều quan niệm về thanh tra, kiểm tra thuế, sau đây là một số khái niệm cơ
bản được trích dẫn từ tài liệu chính thống khi định nghĩa về thanh tra, kiểm tra thuế.
* Khái niệm về kiểm tra thuế:
Theo từ điển Tiếng việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn “Kiểm tra là xem
xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét’’.
Theo đại từ điển tiếng việt do Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam
biên soạn, “Kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế”.
Theo từ điển luật học, “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế thi hành pháp
luật, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao để
đánh giá, nhận xét…:.



16
Theo giáo trình nghiệp vụ thuế của học viện tài chính, “Kiểm tra thuế là hoạt
động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra,
từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra
để có những nhận xét, đánh giá”.
Theo giáo sư Michel Bouviver, tác giả cuốn Nhập môn về luật thuế đại
cương và lý thuyết thuế, “ Kiểm tra thuế là hoạt động nhằm xem xét tính trung thực,
tính chính xác của cơ sở tính thuế mà người nộp thuế đã kê khai”.
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu kiểm tra thuế là hoạt động xem xét,
đánh giá của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá
nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, phí và lệ phí (gọi chung
là thuế).
* Khái niệm về thanh tra thuế:
Theo từ điển Tiếng việt, “Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm
của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”, “thanh tra là loại hình đặc biệt của kiểm tra”.
Theo luật thanh tra năm 2004, “Thanh tra là việc xem xét, đánh giá, xử lý
của cơ quan quản lý Nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý”.
Theo giáo trình nghiệp vụ thuế của học viện tài chính, “Thanh tra thuế là hoạt
động của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ quan thuế đối với đối
tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp luật”.
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu
sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá
ưu khuyết điểm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, phòng ngừa và xử lý các
vi phạm pháp luật thuế.
* Mối quan hệ giữa kiểm tra và thanh tra thuế.
Thanh tra thuế cũng là một hoạt động của kiểm tra thuế nên thanh tra thuế và
kiểm tra thuế có những điểm giống nhau sau:

Thanh tra, kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý thuế,
đều có cùng một mục đích phát hiện, ngăn ngừa, xử lý những vi phạm pháp luật
thuế, góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ theo quy định


17
của pháp luật thuế, góp phần hoàn thiên cơ chế quản lý thuế tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
Chủ thể kiểm tra thuế, thanh tra thuế là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật, thường là cơ quan thuế.
Đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ nộp thuế cho Nhà nước (người nộp thuế) và các đơn vị trong nội bộ ngành thuế.
Nội dung thanh tra, kiểm tra thuế là việc chấp hành pháp luật thuế.
Về phương pháp, thanh tra, kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt động thực tế
của đối tượng để phát hiện, phân tích, đánh giá thực trạng đối tượng một cách chính
xác, khách quan, làm rõ đúng sai, chỉ rõ nguyên nhân để có biện pháp khắc phục, xử
lý vi phạm.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ được thực hiện ở một giai đoạn
trong hoạt động quản lý thuế mà nó còn được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của
quản lý thuế.
Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra cũng có sự khác nhau nhất định:
Thứ nhất, hoạt động kiểm tra có thể diễn tả ra trong nội bộ chủ thể hoặc được
hình thành bởi một chủ thể khác (cơ quan quản lý cấp trên). Hoạt động thanh tra
thuế luôn là hoạt động của cơ quan quản lý cấp trên.
Thứ hai, tính chất của thanh tra thuế là một hoạt động dựa vào quyền lực của
cơ quan quản lý Nhà nước. Kiểm tra là hoạt động trung tính, có thể là hoạt động
quyền lực của cơ quan quản lý có thê chỉ là hoạt động của chính chủ thể quản lý đó.
Thứ ba, nội dung hoạt động thanh tra thuế thường là kiểm tra ở giai đoạn sau
khi nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh và kết thúc. Nội dung thanh tra thuế thường là
những vấn đề phức tạp, bản chất vấn đề thường được che dấu có chủ ý nên khó

nhận biết, nội dung kiểm tra thuế thường là những vấn đề hiện tại, dễ nhận biết.
Thứ tư, do mức độ nghiêm trọng của sự việc cần thanh tra, nên thời gian để
tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn một cuộc kiểm tra thuế.
Từ những phan tích trên, có thể rút ra các nhận xét sau:
Hoạt động thanh tra và kiểm tra thuế có mối quan hệ biện chứng, liên quan
mật thiết với nhau, là những hoạt động không thể thiếu trong công tác quản lý thuế.
Việc phân biệt thanh tra thuế và kiểm tra thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt ý luận


×