Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

PHÁT HUY NĂNG LỰC “KẾT NỐI THÔNG TIN” CHO HỌC SINH LỚP 12 - THPT QUA ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN VÀ KÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.9 KB, 24 trang )

Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

GIỚI THIỆU CHUNG
1. Tên sáng kiến:
PHÁT HUY NĂNG LỰC “KẾT NỐI THÔNG TIN”
CHO HỌC SINH LỚP 12 - THPT
QUA ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN VÀ KÍ.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn Ngữ Văn (Lớp 12, phần truyện và kí)
trong trường học phổ thông.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 02 tháng 4 năm 2014 đến nay.
4. Tác giả:
Họ và tên: Vũ Văn Đông
Năm sinh: 24/8/1979
Nơi thường trú: Xã Bạch Long – Huyện Giao Thủy – Tỉnh Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cử nhân khoa học – Chuyên ngành Ngữ Văn
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THPT Giao Thủy
Điện thoại: 0987203070
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đồng tác giả (nếu có): Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THPT Giao Thủy
Địa chỉ: Khu 4A – Thị trấn Ngô Đồng – Huyện Giao Thủy – Tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503895129

1
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam




Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
A. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
Đọc hiểu văn bản là một trong những phương pháp dạy học theo hướng tích cực hiện
nay. Nó phù hợp với mục đích, yêu cầu của giáo dục là dạy học theo định hướng phát
triển các năng lực, phẩm chất cho học sinh. Nó cũng xuất phát từ những yêu cầu thực tế
của việc giảng dạy theo hướng tích hợp nhằm giúp học sinh biết vận dụng kiến thức liên
môn để giải quyết các tình huống thực tiễn; đáp ứng những yêu cầu của công tác đổi mới
kiểm tra đánh giá việc giảng dạy môn Ngữ Văn trong nhà trường.
Quá trình đọc hiểu văn bản văn học không chỉ nhằm giúp học sinh hiểu được những
giá trị nội dung, nghệ thuật như cách phân tích, cảm nhận, bình giảng … thường thấy mà
còn giúp học sinh biết cách đọc và nắm được cách tạo lập văn bản của tác giả để từ đó áp
dụng cho việc đọc hiểu các văn bản khác. Hơn nữa, quá trình tiếp nhận văn học không
chỉ dừng lại ở việc lĩnh hội các giá trị theo những chuẩn đã được định sẵn mà còn ở khả
năng khám phá, khả năng đồng sáng tạo của người đọc. Vì vậy, đọc văn vừa là tìm hiểu
những giá trị tư tưởng, nghệ thuật qua việc thưởng thức cái hay, cái đẹp của câu chữ, kết
cấu, thể loại, hình tượng … vừa là cách để nghĩ, để cảm, để tự đối thoại với mình và đối
thoại với tác giả, để suy tư về cuộc đời mà từ đó tác động tích cực vào đời sống. Mục
đích này rất cần năng lực kết nối thông tin giữa văn học với đời sống xã hội.
B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
I. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
1. Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới:
Dẫu biết Văn học gắn liền với cuộc sống và luôn lấy thực tế đời sống làm đối tượng
phản ánh, tuy nhiên trong quá trình giảng dạy thì có không ít giáo viên chưa chú trọng
nhiều đến các vấn đề ngoài văn bản (như bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa; các yếu tố về
địa lí tự nhiên; những thông điệp cuộc sống mà tác giả kín đáo gửi gắm…). Trước đây,
giáo viên thường chỉ khai thác những yếu tố văn chương nghệ thuật mang tính đặc thù

của bộ môn mà ít đề cập hoặc có cũng chỉ thể hiện trong phần hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm. Thực tế này cho thấy phần tạo tâm lí tiếp nhận đơn vị kiến thức mới đã không
được chú ý, trong khi đó cần thấy được một nguyên tắc trước khi khai thác văn bản là cho
2
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

học sinh được sống trong không khí của thời điểm tác phẩm ra đời. Vì vậy, nếu cứ đi theo
cách tiếp cận quen thuộc thì quan niệm văn - sử - triết bất phân đã phần nào bị xem nhẹ.
Thực trạng việc dạy – học và kiểm tra đánh giá trước đây (trước năm học 2012 - 2013)
có thể được mô tả như sau:
- Về phía giáo viên: Khi dạy văn bản văn học, giáo viên ít quan tâm đến khâu đọc một
đoạn văn bản, nếu có thì thường chiếu lệ, đọc cho có, đọc cho xong, đọc cho nhanh để
còn dành thời gian cho phần khác. Khi khai thác văn bản thường chỉ xoáy vào các yếu tố
nghệ thuật với những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu… nhằm đem đến một
không khí văn chương cho tiết học. Trong mỗi lời giảng của thầy cô giáo, học sinh dễ bị
ngợp trước những ngôn từ có cánh, giọng điệu trầm bổng nhấn nhá, nét mặt và ánh mắt
say sưa đến lạ kì. Các phương pháp dạy học được sử dụng, các kĩ thuật dạy học được
triển khai, các chuyên đề lên lớp cũng được huy động nhưng tất cả đều hướng đến truyền
thụ kiến thức cơ bản mang tính định hình theo giáo án mà giáo viên soạn sẵn.
- Về phía học sinh: Khi học tiết đọc hiểu, học sinh như được tham gia vào một quá
trình “đuổi tiếng bắt chữ” rất cực nhọc, khi chưa kịp hiểu từ này ý nọ thì phải chuyển cho
kịp mạch văn của thầy cô. Học sinh chỉ được nghe qua và ghi lại một cách thụ động chứ
ít có dịp được suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, trình bày theo cảm nhận riêng của mình. Học
xong bài, có em nhớ tên rừng (tên tác phẩm) mà không biết đến một loại cây đặc thù (nội

dung cụ thể), có em thì cây nào cũng biết nhưng đặc tính ra sao, ở rừng nào thì đã “chữ
thầy, trả thầy”. Khi làm bài kiểm tra lại xảy ra hiện tượng “bổn cũ chép lại”, thầy chấm
văn thầy.
- Về công việc kiểm tra đánh giá: Nhìn chung ít có sự đầu tư thực sự có hiệu quả. Giáo
viên ra đề theo những công thức sẵn có như phân tích/ cảm nhận/ bình giảng… rất chung
chung; câu hỏi nhiều khi mang tính ngẫu hứng. Dù hình thức kiểm tra nói hay viết, dù
thời gian làm bài ít hay nhiều (từ 15 phút đến 180 phút) thì số lượng câu hỏi và cách hỏi
cũng không khác nhau nhiều. Việc đánh giá chất lượng bài viết có phần cảm tính, chủ
yếu qua độ ngắn dài và qua những gì thầy cô đã dạy chứ ít trân trọng những sáng tạo cá
nhân và sự kiến giải độc đáo của học sinh. Đây là vấn đề tồn tại khá lâu, thậm chí ở nhiều
khâu, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thực của bộ môn.
Ví dụ về một số đề kiểm tra chất lượng học kì I – Lớp 12 trước đây của Sở Giáo dục
và đào tạo Nam Định:
3
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

1. Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
“Tuyên ngôn độc lập” – Chủ tịch Hồ Chí Minh (Câu 1: 3 điểm - Đề kiểm tra năm học
2000 – 2001).
2. Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng (Câu 1: 2
điểm - Đề kiểm tra năm học 2001 – 2002).
3. Hãy cho biết thật ngắn gọn hoàn cảnh sáng tác, thời gian công bố và giá trị cơ bản
của tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Câu 1: 3 điểm - Đề kiểm
tra năm học 2002 – 2003).

4. Trình bày ngắn gọn hoàn cảnh sáng tác và cảm hứng chủ đạo của bài thơ “Đất
nước” – Nguyễn Đình Thi? Phân tích đoạn thơ sau:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
(trích “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi)
(Câu 1: 5 điểm - Đề kiểm tra năm học 2003 – 2004).
5. Trình bày ngắn gọn một số nét tiêu biểu về nhà thơ Quang Dũng và hoàn cảnh
sáng tác bài thơ “Tây Tiến”? Nêu những câu thơ viết về chân dung anh bộ đội Tây Tiến
đã để lại ấn tượng sâu đậm đối với anh (chị) sau khi đọc bài thơ “Tây Tiến” của Quang
Dũng (Câu 1: 4 điểm - Đề kiểm tra năm học 2004 – 2005).
Với cách hỏi về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và những nét chính về tác giả như
trên thì không thể phân hóa và không phát huy được năng lực của học sinh, đôi khi còn
xảy ra hiện tượng cóp/chép, gian lận. Như vậy, thực trạng của dạy học và kiểm tra phần
văn bản văn học trước đây mang nặng tính sách vở. Nếu dùng cách nói có hình ảnh thì
học sinh được ví như cái bình chứa một thứ dung dịch hỗn hợp về kiến thức do giáo viên
đã pha sẵn và đổ vào đó một cách gượng ép. Không phủ nhận những ưu thế của phương
pháp dạy học truyền thống tuy nhiên trước những đòi hỏi của xã hội về chất lượng sản
phẩm của giáo dục thì cần có một sự thay đổi ở nhiều khâu, ở đó không thể không thay
đổi trong cách dạy và cách học. Nhà bác học Ê-đi-xơn có câu: “Nhiệm vụ quan trọng
nhất của nền văn minh là dạy cho con người biết tư duy”. Câu nói này cũng đồng nghĩa
với việc dạy học nói chung và dạy đọc văn bản văn học nói riêng phải khơi được nguồn
4
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam



Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

sáng tạo trong học sinh. Thực tế cho thấy, quá trình cảm thụ để hiểu văn học ở học sinh
ngày nay rất hạn chế. Những nguyên nhân như tác động của cơ chế thị trường, công nghệ
thông tin bùng nổ, những định hướng ngành nghề… đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhận
thức của học sinh trong học tập bộ môn. Nhiều học sinh học văn chẳng qua là để đối phó
với thi cử và cũng có nhiều giáo viên đối phó với chuyện thi cử bằng phương pháp “đọc
- chép”. Cho nên, từ năm học 2008 – 2009 nhưng triệt để nhất là từ năm học 2013 – 2014
và đặc biệt trong năm học này, Bộ GD và ĐT đã dùng kĩ thuật “móng tay nhọn” để bóc
lớp “vỏ quýt dày” trong dạy/học Ngữ văn. Đó là đề thi đã được định dạng với 2 phần và
cấu trúc khá rõ ràng. Trong đó, phần đọc hiểu (chiếm khoảng 30% điểm toàn bài) với 2
loại văn bản, văn bản nhật dụng có độ dài khoảng 250 chữ đến 500 chữ, văn bản văn học
dài từ 50 chữ đến 400 chữ. Thậm chí, phần này còn xuất hiện những văn bản mà học sinh
không được học trong chương trình. Những câu hỏi khai thác văn bản (khoảng 8 câu nhỏ)
là một sự bao quát kiến thức của các phân môn như văn học, tiếng Việt, làm văn mà học
sinh đã được học và câu hỏi kết nối thông tin luôn xuất hiện với mức từ 0,75 đến 1,0
điểm. Những điểm mới mẻ này đòi hỏi sự đầu tư thực sự trong cách dạy và nghiêm túc
trong cách học.
2. Phân tích ưu nhược điểm của giải pháp cũ để cho thấy sự cần thiết của việc đề
xuất giải pháp mới nhằm khắc phục nhược điểm của giải pháp cũ:
Như đã nói, những ưu điểm của giải pháp cũ tức là cách dạy học và kiểm tra đánh giá
mang tính truyền thống là không thể phủ nhận. Đó là nội dung bài dạy của giáo viên có ý
tứ rõ ràng và mạch lạc, học sinh ghi chép có hệ thống và đảm bảo kiến thức cơ bản trọng
tâm, quá trình tạo lập văn bản nghị luận của học sinh khi làm bài kiểm tra đã tránh được
sự lan man và suy diễn.
Tuy vậy, những nhược điểm của giải pháp cũ cũng khá nhiều, như đã tách rời quá
trình ra đời của tác phẩm văn học với bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa; không phát huy
được tư duy sáng tạo của học sinh; không phù hợp với mục tiêu giáo dục trong lộ trình
đổi mới toàn diện… Học sinh học bài nào biết bài ấy mà không có mối liên hệ với những
văn bản trong cùng giai đoạn, của cùng một tác giả hoặc có những điểm tương đồng về

thể loại, đề tài, chủ đề. Học sinh ngại đọc văn bản, đọc mà chỉ xem tác phẩm kể chuyện
gì, có tình ý gì, các tình tiết diễn biến ra sao, các nhân vật yêu ghét nhau thế nào, sống
5
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

chết ra sao… hoặc đọc mà phụ thuộc vào cách người viết đánh giá, giải quyết vấn đề theo
một khuynh hướng tư tưởng - tình cảm nào đó, trong khi cách đọc đồng sáng tạo lại
không được chú ý.
Từ những điểm mạnh và hạn chế của cách dạy văn bản văn học trước đây cùng với
những yêu cầu mới trong công tác kiểm tra, đánh giá năng lực của học sinh hiện nay đã
cho thấy sự cần thiết phải thay đổi toàn diện. Việc trang bị kĩ năng đọc hiểu văn bản cho
học sinh là rất quan trọng, trong đó “kết nối thông tin” là khâu cuối cùng để đưa văn
chương vào đời sống xã hội.
II. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
1. Vấn đề cần giải quyết:
Xuất phát từ mục tiêu dạy học bộ môn là phát triển các năng lực, phẩm chất cho học
sinh qua các chủ đề như năng lực đọc – hiểu văn bản, năng lực tự thu thập thông tin và
giải quyết tình huống; năng lực sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt qua việc trình bày suy nghĩ,
cảm nhận; năng lực hợp tác, trao đổi; năng lực tự học và tự quản lí bản thân; năng lực
ứng dụng CNTT. Để mục tiêu này đi đúng hướng và có kết quả như mong muốn thì quá
trình dạy học cần lấy học sinh làm đối tượng phục vụ, nên dạy những cái học sinh cần
chứ không nên dạy những thứ giáo viên biết và giáo viên muốn. Và những cái học sinh
cần, ngoài kiến thức để phục vụ cho thi cử thì quan trong hơn chính là tri thức nhằm phục
vụ cho cuộc sống. Đây chính là yêu cầu cần kết nối thông tin giữa văn học với đời sống

xã hội.
2. Nét mới và sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:
Tên gọi của phân môn này từ bộ sách giáo khoa thí điểm phân ban đầu những năm
2000 là đọc hiểu đã cho thấy sự khác biệt so với cách gọi giảng văn như trước đây. Theo
đó, các văn bản chỉ đạo chuyên môn không chỉ hướng đến thực hiện chương trình mang
tính truyền thống mà còn nhằm giải quyết các vấn đề ngoài văn học như giáo dục bảo vệ
môi trường, giáo dục kĩ năng sống, vận dụng kiến thức liên môn nhằm giải quyết tình
huống thực tiễn dành cho học sinh hoặc dạy học theo chủ đề tích hợp và thiết kế giáo án
tích hợp dành cho giáo viên…
“Kết nối thông tin” cần được thể hiện từ khâu soạn bài đến các bước lên lớp của giáo
viên và đầu ra của nó chính là kết quả học tập và năng lực, phẩm chất của học sinh được
6
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

thể hiện trong thực tế đời sống. Do vậy, khi soạn bài, giáo viên cần chú ý đến việc tích
hợp tri thức ở các lĩnh vực khác nhau để cùng giải quyết một vấn đề văn học. Trên lớp,
giáo viên cần tổ chức các hình thức học tập để khai thác, phát huy và điều chỉnh năng lực
tư duy của học sinh. Không khí giờ học phải thật tự nhiên, cởi mở, thân thiện thì mới
khơi được những nguồn tài nguyên vô giá trong suy nghĩ của học sinh dành cho văn học.
Giáo viên hạn chế lối “phô văn” bởi lẽ học sinh không phải là đối tượng “đồng sàng” nên
dễ xảy ra hiện tượng “dị mộng”, học sinh chỉ cần kiến thức cơ bản của bài học mà thôi.
Trong các đề kiểm tra, cần có câu hỏi liên hệ với cuộc sống xã hội và với trách nhiệm của
học sinh. Khi chấm bài học sinh, giáo viên cần trân trọng những bài viết sáng tạo, những
phát hiện thú vị và những kiến giải độc đáo. Giáo viên cũng cần cân nhắc khi đặt bút phê

vào bài làm của học sinh, bởi một lời nhận xét đánh giá của thầy cô giáo có khả năng làm
thay đổi nhận thức và ý thức học tập bộ môn.
3. Cách thức và các bước thực hiện giải pháp mới:
3.1. “Kết nối thông tin” là gì?
“Kết nối thông tin” là cụm từ mới xuất hiện trong giảng dạy văn học từ vài năm trở
lại đây. Trước đây, nó ít được đề cập do mục tiêu giáo dục và đinh hướng kiểm tra đánh
giá. “Kết nối thông tin” thực chất là quá trình tìm ra mối liên hệ giữa văn học với văn học
và giữa văn học với đời sống xã hội. Hiểu đơn giản, “kết nối thông tin” là sự liên hệ giữa
vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học này với tác phẩm văn học khác hoặc trong văn học
với những vấn đề đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội.
3.2. Phân loại đề tài kết nối và nguyên tắc kết nối:
Để sự “kết nối” không tùy tiện và tránh lối suy diễn chủ quan thì giáo viên nên định
hướng thành những đề tài, chủ đề cụ thể nhằm tập trung được những suy nghĩ tích cực
của học sinh. Chúng ta có thể tham khảo sách “Thực hành Làm văn 12” (NXB Giáo dục 2009) và phân loại các vấn đề trong đời sống xã hội như sau:
- Nếu sản phẩm “kết nối” là một tư tưởng, đạo lí thì ta chia chúng thành những quan
điểm đạo đức, lối sống; các vấn đề văn hóa, giáo dục, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng hoặc
phương pháp tư tưởng.

7
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

- Nếu sản phẩm “kết nối” là một hiện tượng đời sống thì ta chia chúng thành hiện
tượng liên quan đến môi trường sống tự nhiên của con người; hiện tượng liên quan đến
môi trường xã hội hoặc hiện tượng tích cực đáng biểu dương, tiêu cực đáng phê phán.

Tuy nhiên, sự kết nối cũng phải có những nguyên tắc cụ thể. Đó là, chỉ kết nối những
thông tin thật sự liên quan đến nội dung chính và chủ đề của tác phẩm; kết nối phải đảm
bảo đặc trưng, đặc thù của môn học; kết nối phải gắn với đời sống xã hội; kết nối mà
không làm tăng nội dung và thời lượng của bài học dẫn đến tình trạng quá tải; không kết
nối những vấn đề nhỏ nhặt tầm thường hay những vấn đề nhạy cảm …
3.3. Các bước thực hiện quá trình kết nối thông tin:
Những tác phẩm và trích đoạn truyện, kí trong chương trình Ngữ Văn 12 – THPT bao
quát nhiều vấn đề trong đời sống văn học, đời sống xã hội mà tác phẩm ra đời. Ví dụ,
những tác phẩm truyện và kí hiện đại Việt Nam đã phản ánh những biến động dữ dội của
lịch sử nước nhà trong suốt hơn nửa thế kỉ với cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi
(1945 - 1954), miền Bắc bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội (1955 - 1964), chiến
tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược (1965 - 1975), đất nước với những khó khăn muôn mặt
thời hậu chiến và trước những tác động của nền kinh tế thị trường (1975 - 2000). Hoặc từ
“bóng dáng bao trùm cả văn đàn Trung Quốc thế kỉ XX” của Lỗ Tấn, qua truyện ngắn
Thuốc, chúng ta cần thấy được căn bệnh tinh thần của người dân Trung Hoa đầu thế kỉ
XX; từ “hàng ngũ nhà văn lớn nhất thế kỉ XX” của M.Sô-lô-khốp để qua Số phận con
người mà thấy được ý chí nghị lực và lòng nhân hậu của người Nga; từ “ dấu ấn sâu sắc
trong văn xuôi hiện đại phương Tây và góp phần đổi mới lối viết truyện, tiểu thuyết của
nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới” của Ơ.Hê-minh-uê (Mĩ) để nhận ra vẻ đẹp bình dị mà
phi thường của người lao động trong xã hội vô tình qua truyện ngắn Ông già và biển cả.
Vậy làm thế nào để giúp học sinh biết “kết nối thông tin” giữa các tác phẩm, đoạn
trích truyện và kí trong chương trình nói riêng và giữa tác phẩm văn học nói chung với
đời sống xã hội? Chúng ta tiến hành theo các bước sau:
a. Thứ nhất là khâu soạn giáo án:
Không chỉ bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên khi soạn bài cần lưu ý đến thái
độ, phẩm chất và các năng lực cần đạt của học sinh qua các văn bản truyện và kí. Nội
dung này được mô tả theo bảng sau (Tham khảo Kế hoạch dạy học môn Ngữ Văn - Năm
học 2014 – 2015 của Trường THPT Giao Thủy):
8
SKKN (2014 - 2015)

Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

STT

Văn bản

Thái độ, phẩm chất

Năng lực

- Thái độ: Trân trọng những trang văn tài hoa - - Năng lực đọc
sản phẩm lao động nghiêm túc của Nguyễn hiểu văn bản kí
1

Người lái đò

Tuân; trân trọng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây hiện đại giai đoạn
Bắc và người lao động trên sông nước Đà từ năm 1945 đến

sông Đà

giang.

(Nguyễn


- Phẩm chất: Bồi dưỡng tình yêu quê hương - Năng lực tạo lập
đất nước; tình yêu lao động; ý thức rèn luyện VB nghị luận về

Tuân)

hết XX.

bản thân và học hỏi những kinh nghiệm sống kí hiện đại như
nghị luận về
quý báu…
2

Ai đã đặt tên - Thái độ: Trân trọng những trang văn tài hoa đoạn trích, một
cho dòng
của Hoàng Phủ Ngọc Tường và vẻ đẹp trữ tình hình tượng, một ý
sông?
(Hoàng Phủ
Ngọc
Tường)

của thiên nhiên xứ Huế; ý thức bảo tồn và kiến
định…
quảng bá di sản đất nước cho bạn bè quốc tế.

nhận

- Phẩm chất: Bồi dưỡng tình yêu quê hương - Các năng lực
đất nước, yêu cảnh trí non sông, tự hào với khác: “kết nối
những giá trị tinh thần của dân tộc.


thông tin”, năng
lực hợp tác, năng
lực giải quyết vấn
đề, năng lực sáng
tạo, năng lực tự
quản bản thân,
năng

lực

công

nghệ thông tin …
- Thái độ: Biết sẻ chia với những khó khăn, - Năng lực đọc
nguy nan của nước Việt Nam mới trong những hiểu văn bản kí
ngày đầu và trân trọng những quyết sách đúng hiện đại giai đoạn
3

Những ngày
đầu của
nước Việt
Nam mới

đắn, sáng suốt của Đảng, Chính phủ và Chủ từ năm 1945 đến
tịch Hồ Chí Minh; thấy rõ mối quan hệ khăng hết XX.
khít giữa đất nước và nhân dân, giữa lãnh tụ và - Các năng lực
khác: “kết nối
quần chúng.
9


SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

(Võ Nguyên

- Phẩm chất: Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất thông tin”, năng

Giáp)

nước, niềm tin vào Đảng và chế độ, tấm lòng lực hợp tác, năng
kính trọng lãnh tụ, khát vọng cống hiến; biết lực giải quyết vấn
quý trọng những giá trị lịch sử qua những tháng đề, năng lực sáng
năm gian khó của dân tộc.

tạo, năng lực tự
quản bản thân,
năng

lực

công

nghệ thông tin …
- Thái độ: Cảm thông với nỗi thống khổ của - Năng lực đọc
người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị hiểu văn bản

chống
của bọn phong kiến và thực dân; trân trọng vẻ truyện
đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng mãnh liệt và Pháp giai đoạn
4

Vợ chồng A

quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào 1945 - 1954.
- Năng lực tạo lập
vùng cao.

Phủ

- Phẩm chất:

(Tô Hoài)

truyện
+ Khát vọng hạnh phúc, tự do; ý chí, nghị lực truyện
chống Pháp giai
và niềm tin vào cuộc sống.

VB nghị luận về

+ Tình yêu gia đình, lòng hiếu thảo với cha đoạn 1945 –
1954 như nghị
mẹ, lòng nhân ái, khoan dung...
đoạn
+ Tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần vượt luận về
khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng. trích, một hình

- Thái độ: Hiểu và đồng cảm trước tình cảnh tượng, một ý kiến
sống thê thảm của người nông dân trong nạn - nhận định…
đói năm 1945; trân trọng niềm tin tưởng vào - Các năng lực
tương lai; đồng tình với khát vọng sống ở khác: “kết nối
5

Vợ nhặt
(Kim Lân)

những con người nghèo khổ khi cận kề miệng thông tin”, năng
lực hợp tác, năng
vực cái chết.
- Phẩm chất:

lực giải quyết vấn

+ Khát vọng hạnh phúc; lòng nhân ái, ...

đề, năng lực sáng

+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần tạo, năng lực tự
vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng quản bản thân,
10
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí


đồng.

6

năng

lực

công

(Nguyễn

nghệ thông tin …
- Thái độ: Biết trân trọng nghị lực sống phi - Năng lực đọc
thường và khát khao tự do của đồng bào các hiểu văn bản
truyện chống Mĩ
dân tộc Tây Nguyên trong chiến tranh.

Trung

- Phẩm chất:

Thành)

+ Lòng trung thành với cách mạng, lòng căm 1975.
- Năng lực tạo lập
thù giặc, khát khao lí tưởng.

Rừng xà nu


giai đoạn 1965 -

+ Tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước; VB nghị luận về
truyện chống Mĩ
lòng nhân ái, khoan dung...
+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần giai đoạn 1965 –
vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng 1975 như nghị
luận về

đồng.

đoạn

- Thái độ: Trân trọng tình yêu nước, lòng căm trích, một hình
thù giặc, tình cảm gia đình ... là sức mạnh tinh tượng, một ý kiến
7

Những đứa

thần to lớn trong cuộc chiến tranh chống Mĩ - nhận định…
- Các năng lực
cứu nước.

con trong

- Phẩm chất:

khác:


gia đình

+ Lối sống giàu khát khao lí tưởng.

thông tin”, năng

(Nguyễn

+ Tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước; lực hợp tác, năng
lực giải quyết vấn
lòng nhân ái, khoan dung...

Thi)

“kết

nối

+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần đề, năng lực sáng
vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng tạo, năng lực tự
đồng.

quản bản thân,
năng

lực

công

nghệ thông tin …

- Thái độ: Biết trân trọng vẻ đẹp của con người - Năng lực đọc
Nam Bộ và khát vọng cao đẹp của họ trong hiểu văn bản
8

Bắt sấu
rừng U
Minh hạ

những ngày đầu mở đất và xây dựng cuộc sống. truyện ngắn giai
đoạn 1965 - Phẩm chất:
+ Tình yêu yêu quê hương đất nước; lòng 1975.
11

SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

(Sơn Nam)

nhân ái, khoan dung...

- Các năng lực

+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần khác:

“kết


nối

vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng thông tin”, năng
đồng.

lực hợp tác, năng

+ Sống ngay thẳng, chất phác, thuần hậu; biết lực giải quyết vấn
rèn trí, luyện tài; dám đương đầu với khó khăn đề, năng lực sáng
gian khổ.

tạo, năng lực tự
quản bản thân,
năng

lực

công

nghệ thông tin …
- Thái độ: Trân trọng những giá trị của văn hóa
truyền thống trước những tác động của nền

9

Mùa lá rụng
trong vườn
(Ma Văn
Kháng)


kinh tế thị trường đối với con người.

- Năng lực đọc

- Phẩm chất:

hiểu

văn

bản

+ Lối sống giàu tình nghĩa, biết đối nhân xử truyện ngắn và
tiểu thuyết hiện
thế...
+ Tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước; đại giai đoạn sau
1975.
lòng nhân ái, khoan dung...
+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần

- Các năng lực

vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng khác: năng lực
hợp tác, năng lực
đồng.
- Thái độ: Trân trọng những suy nghĩ và lối giải quyết vấn đề,
sống tích cực, những giá trị văn hóa truyền năng lực sáng
10


Một người

thống của người Hà thành.

tạo, năng lực tự

Hà Nội

- Phẩm chất:

quản bản thân,

(Nguyễn

+ Lòng trung thực; lối sống ứng biến, linh hoạt năng lực công
nghệ thông tin …
thức thời.

Khải)

+ Tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước;
lòng nhân ái, khoan dung...
+ Đức tính tự lập, tự chủ, có tinh thần vượt khó
và có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng.
12
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam



Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

- Thái độ: Trân trọng những hi sinh thầm lặng - Năng lực đọc
và cao cả của người phụ nữ VN... Hiểu được hiểu văn bản và
11

Chiếc

quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa tạo lập VB nghị
cuộc đời và nghệ thuật, về cách nhìn đời và luận về truyện

thuyền

nhìn người trong cuộc sống.

hiện đại giai đoạn

ngoài xa

- Phẩm chất:

sau

(Nguyễn

+ Lòng trung thực, lối sống giàu tình thương, như nghị luận về
đoạn trích, một
biết hi sinh...


Minh Châu)

năm

1975

+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần hình tượng, một ý
vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, gia kiến - nhận định.
đình, cộng đồng.

- Các năng lực

- Những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về khác: “kết nối
cuộc đời và nghệ thuật: phải nhìn nhận cuộc thông tin”, năng
sống và con người một cách đa diện; nghệ thuật lực hợp tác, năng
lực giải quyết vấn
chân chính luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời.
đề, năng lực sáng
tạo, năng lực tự
quản bản thân,
năng

lực

công

nghệ thông tin …
- Thái độ: Phê phán sự mê muội đớn hèn, sự lạc
hậu của người Trung Hoa đầu thế kỉ XX và sự
cấp thiết phải có phương thuốc chữa bệnh cho

quốc dân: làm cho người dân giác ngộ cách
12

Thuốc

mạng và cách mạng gắn bó với nhân dân.

(Lỗ Tấn)

- Phẩm chất:

- Năng lực đọc

+ Lối sống giàu tình thương, sự chia sẻ và cảm hiểu văn bản
truyện hiện đại
thông.
+ Ý chí kiên cường, lòng dũng cảm, biết hi nước ngoài.
sinh vì tự do, hạnh phúc.
+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần
13
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng
đồng.

- Thái độ: Biết đồng cảm, sẻ chia với số phận
éo le, trắc trở của con người trong cuộc sống. - Các năng lực
13

Số phận con

Con người phải có đủ bản lĩnh và lòng nhân khác:

người

hậu để làm chủ số phận của mình, vượt lên sự thông tin”, năng

(M.Sô-lô-

cô đơn, mất mát, đau thương.

lực hợp tác, năng

khốp)

- Phẩm chất:

lực giải quyết vấn

“kết

nối

+ Lòng trung thực, sự kiên cường và nhân hậu, đề, năng lực sáng
vị tha.


tạo, năng lực tự

+ Lối sống giàu nghĩa tình, biết yêu thương và quản bản thân,
lòng trắc ẩn, cảm thông với mọi người.

năng

lực

công

+ Đức tính tự lập, tự tin, tự chủ, có tinh thần nghệ thông tin …
vượt khó và có trách nhiệm với bản thân, cộng
đồng.
- Thái độ: Trân trọng vẻ đẹp của con người
trong cuộc hành trình nhọc nhằn nhằm thực
hiện khát vọng giản dị mà lớn lao; bài học về
lối viết đơn giản, tránh sự hoa mĩ mà rỗng
tuếch.
14

Ông già và
biển cả

- Phẩm chất:
+ Lòng trung thực, sự kiên cường trong lao

(Ơ.Hê-minh- động, có niềm tin vào cuộc sống, ...
uê)

+ Lối sống giàu nghĩa tình, biết yêu thương và
lòng trắc ẩn, cảm thông với mọi người.
+ Ý chí và nghị lực của con người trong công
cuộc chinh phục, chế ngự và chống chọi với sự
dữ dội của thiên nhiên.
+ ....
b. Thứ hai là việc tổ chức sư phạm một giờ lên lớp:
14
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến quá trình khai thác văn bản. Giáo viến cần hướng dẫn
học sinh phát hiện ra mối liên hệ giữa các vấn đề văn học với đời sống xã hội và lồng
ghép vào việc đọc hiểu văn bản. Để làm tốt điều này, học sinh cần xác định rõ bố cục của
tác phẩm, nắm được nội dung và vị trí của các đoạn văn tiêu biểu, biết nhận ra những chi
tiết quan trọng và hình ảnh giàu tính sáng tạo góp phần vào thành công của tác phẩm.
Hãy theo dõi bảng minh họa sau, nếu ta kết nối thông tin bảo vệ môi trường vào trong
một số bài đọc hiểu:
STT
1

Tên bài

Chi tiết, hình ảnh


Kết nối thông tin bảo vệ môi trường

Người

- Chi tiết: Thuyền tôi trôi trên

Qua cảm nhận vẻ đẹp và sự giàu có

lái đò

Sông Đà. Hình như đời Lí đời về tài nguyên thiên nhiên của sông

sông Đà

Trần đời Lê, quãng sông này nước miền tây Bắc bộ, cần nâng cao

(Nguyễn

cũng lặng tờ đến thế mà thôi... ý thức trân trọng vẻ đẹp của thiên

Tuân)

- Hình ảnh: Ven bờ sông Đà, nhiên, biết gìn giữ nguồn tài nguyên
con hươu thơ ngộ, đàn cá dầm nước – môi trường sống mà người
dân tộc Thái đã ăn đời ở kiếp với nó

xanh...

và hàng triệu người dưới xuôi hưởng
lợi từ nguồn thủy điện sông Đà .

2

Ai đã đặt

- Chi tiết: ..., vẫn lập lòe trong

Từ bức tranh kinh thành Huế và

tên cho

đêm sương những ánh lửa hình ảnh của dòng sông Hương thơ

dòng

thuyền chài của một linh hồn mộng, chúng ta phải biết tự hào về

sông?

mô tê xưa cũ... hoặc ...sông một vùng đất đã một thời mang diện

(Hoàng

Hương chếch về hướng chính mạo, tâm hồn của con người Việt

Phủ

bắc, ... lưu luyến ra đi giữa Nam để có định hướng và biện pháp

Ngọc


màu xanh biếc của tre trúc và bảo tồn các danh thắng thiên tạo và

Tường)

của những vườn cau của nhân tạo.
ngoại ô Vĩ Dạ...
- Hình ảnh: sông Hương nơi
thượng nguồn, ngoại vi thành
phố, giữa lòng thành phố,...

3

Rừng xà

- Chi tiết:..Cả rừng xà nu

Từ việc cảm nhận về vẻ đẹp của
15

SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

nu

hàng vạn cây không có cây rừng xà nu và sự tàn phá của bom


(Nguyễn

nào không bị thương ....... ưỡn đạn hãy liên hệ đến ý thức bảo vệ

Trung

tấm ngực lớn của mình ra, rừng (Nên nhớ rằng, Mĩ không chỉ

Thành)

che chở cho làng...

dùng bom đạn để phá hủy mà còn

- Hình ảnh: rừng xà nu nối dùng cả vũ khí hóa học để hủy diệt
hàng triệu hec-ta rừng).
tiếp chạy đến chân trời.
4

5

Bắt sấu

- Chi tiết: Bài hát của ông

Từ bức tranh thiên nhiên vùng U

rừng U


Năm Hên: "U Minh đỏ ngòm/ Minh Hạ - một thế giới bao la, kì thú

Minh hạ

Rừng tràm xanh biếc!"

(Sơn
Nam)

- Hình ảnh: "Sấu lội từng nhiên hoang dã và những khu rừng
nguyên sinh hiện nay.
đàn",

Một

- Hình ảnh: cây si cổ thụ đền

người

Ngọc Sơn bị đổ sau một trận Ngọc Sơn bị đổ sau một trận bão

Hà Nội

bão.

hãy liên hệ đến ý thức bảo vệ thiên

Qua chi tiết cây si cổ thụ ở đến
được mọi người cứu sống cho thấy


(Nguyễn

thái độ gìn giữ, bảo tồn “cây di sản”

Khải)

hiện nay; từ đó hãy liên hệ với hiện
tượng chặt phá 6700 cây xanh của Hà
Nội trong thời gian gần đây.

6

Ông già

- Chi tiết: “...Với cái miệng Cuộc săn đuổi và bắt con cá kiếm của

và biển

mím chặt, cái đuôi nhịp ông lão Xan-ti-a-gô cho ta bài học về

cả

nhàng, chúng ta lái thuyền đi cách ứng xử của con người trong

(Ơ.Hê-

như thể hai anh em.... Ta chỉ công cuộc chinh phục và chế ngự

minh-uê)


thạo hơn cu cậu ở mỗi cái trò thiên nhiên.
mánh lới; còn cu cậu thì đâu
có làm hại ta chút mảy may”.
- Hình ảnh: Con cá kiếm, biển
cả.

Không chỉ các vấn đề thuộc môi trường tự nhiên mà các vấn đề thuộc môi trường xã
hội cũng luôn được phản ánh qua từng tác phẩm, đoạn trích. Vì vậy, giáo viên nên có
những gợi ý mang tính định hướng giúp học sinh thấy được đâu là những vấn đề tích cực
16
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

cần được biểu dương, nhân rộng, đâu là những vấn đề tiêu cực cần được uốn nắn, điều
chỉnh, phê phán, lên án... Ví dụ:
- Tùy bút Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân): Vẻ đẹp của người lao động bình
thường mà tài trí, dũng cảm; nếu thiên nhiên là vàng thì người lao động chân chính là
vàng mười đã qua thử lửa.
- Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?(Hoàng Phủ Ngọc Tường): Vẻ đẹp của mảnh đất
và con người xứ Huế xưa và nay.
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài):
+ Phê phán những hủ tục của người dân tộc thiểu số trước đây mà đến nay những hệ
lụy của nó vẫn tồn tại như tục cho vay nặng lãi, lợi dụng thần quyền để át chế đầu độc
tinh thần (giống nạn buôn thần bán thánh), mê tín (tin vào ma quỷ: bắt về trình ma... );
không đồng tình với những suy nghĩ và hành động tiêu cực (như ăn lá ngón tự tử)…

+ Ngợi ca sức sống tiềm tàng trong mỗi con người dù có bị đẩy vào đường cùng không
lối thoát; khát vọng tự do, hạnh phúc, ý chí nghị lực và niềm tin vào ngày mai tươi sáng.
- Truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân): Truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá
rách”; khát vọng và niềm ham sống, khát vọng hạnh phúc; nghị lực sống và tinh thần lạc
quan, không bao giờ mất niềm tin ở ngày mai tươi sáng.
- Truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành): Ngợi ca lòng dũng cảm, ý chí kiên
cường, lòng trung thành với cách mạng; truyền thống quê hương; nghị lực vươn lên chiến
thắng hoàn cảnh để nêu cao tấm gương “tàn nhưng không phế”; chân lí đấu tranh cách
mạng: nếu con đường đấu tranh bất bạo động không có kết quả thì ắt phải dùng bạo lực
cách mạng tức là khởi nghĩa vũ trang (ví dụ: xung đột sắc tộc, tôn giáo thì nên dùng biện
pháp ôn hòa; cuộc chiến chống khủng bố và chống ngoại xâm thì cần phải kiên quyết,
mạnh mẽ dù phải tổn thất, hi sinh).
- Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi): Ngợi ca truyền thống gia
đình, con cái không chỉ là sự tiếp nối cha mẹ ở huyết thống mà còn ở truyền thống; lí
tưởng của thanh niên trong thời đại ngày nay (tinh thần xung phong, xung kích: đâu cần
thanh niên có, đâu khó có thanh niên).
- Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu): Mối liên hệ giữa nghệ thuật
và cuộc sống (nghệ thuật vị nhân sinh); suy nghĩ về cách nhìn nhận, đánh giá những sự
vật, hiện tượng trong cuộc sống; tấm lòng nhân hậu, vị tha và đức hi sinh; quan niệm về
17
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

hạnh phúc (hạnh phúc không phải là những gì xa vời mà là những thứ rất đời thường,
bình dị như khi nhìn đàn con được ăn no); pháp luật và đời sống (làm sao cho dân hiểu

và biết đưa pháp luật vào trong thực tế cuộc sống); nạn bạo hành gia đình; hiện tượng đói
nghèo và thất học; mối liên hệ giữa hoàn cảnh sống với sự phát triển tính cách, phẩm chất
của con người.
- Truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh hạ (Sơn Nam): Lối sống nhân ái, dám đương đầu
với hiểm nguy (khác hẳn với lối sống vô cảm của một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay).
- Trích đoạn tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng): Truyền thống gia
đình, dân tộc và phẩm chất con người trước những biến động của cuộc sống xã hội.
- Truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải): Vẻ đẹp thanh lịch của người Hà Nội
xưa và nay; lối sống năng động, ứng biến, thức thời của con người trong từng hoàn cảnh
cụ thể; phê phán thái độ sống ích kỉ, nhỏ nhen, toan tính.
- Truyện ngắn Thuốc (Lỗ Tấn): Phê phán sự mê tín, cả tin; phê phán sự xa rời quần
chúng của người cách mạng; lên án sự thờ ơ vô cảm của một bộ phận nhân dân (hiện
tượng đáng báo động của xã hội Trung Quốc ngày nay mà chúng ta cần suy ngẫm, như:
chênh lệch giàu nghèo quá lớn giữa thành thị và nông thôn; quan chức cao cấp bị truy tố
vì vi phạm pháp luật; giới trẻ có lối sống vô cảm, thích hưởng thụ…).
- Truyện ngắn Số phận con người (M.Sô-lô-khốp): Ngợi ca lòng dũng cảm, ý chí kiên
cường, nhân hậu vị tha; phản ánh những bất cập và chưa kịp thời trong chính sách đãi
ngộ với người có công với đất nước; hậu quả nặng nề của chiến tranh vệ quốc…
- Truyện ngắn Ông già và biển cả (Ơ.Hê-minh-uê): Ý chí kiên cường, lòng kiên trì và
niềm tin ở năng lực của bản thân; quá trình theo đuổi để biến ước mơ thành hiện thực; lối
sống giản dị, không phô trương (“áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người”).
c. Thứ ba, “kết nối thông tin” còn phải được thể hiện qua việc kiểm tra, đánh giá
các năng lực của học sinh:
- Mục đích của việc kiểm tra miệng tức là rèn năng lực nói (nói văn), giáo viên cần
chú ý cho học sinh cách phát âm đúng quy tắc, ngôn ngữ đúng phong cách, xử lí tình
huống khéo léo, phong thái chững chạc tự tin, trả lời ngắn gọn...
- Mục đích kiểm tra giấy tức là rèn năng lực viết (viết văn), ngoài khả năng tạo lập văn
bản với từ ngữ và cú pháp đạt chuẩn mực trong Tiếng Việt, giáo viên còn luyện cho học
18
SKKN (2014 - 2015)

Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

sinh khả năng phân tích, cảm thụ văn học theo đúng đặc trưng thể loại, biết sử dụng kết
hợp các thao tác lập luận, biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng...
Theo đó, trong đề kiểm tra, ngoài những câu hỏi dạng nhận biết, thông hiểu về tác
phẩm, đoạn trích cần có phương án trả lời ngắn thì giáo viên nên dành nội dung kiểm tra
xoay quanh một đoạn văn, một chi tiết hoặc một hình tượng tiêu biểu nào đó. Việc làm
này không chỉ đánh giá được kiến thức văn học (giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật) mà
còn là năng lực biết vận dụng tri thức văn học đã được học vào trong cuộc sống. Có thể
tham khảo một số ví dụ sau:
Đề 1 (Cho bài kiểm tra với thời lượng ngắn hoặc phần đọc hiểu của bài trên 2 tiết):
Đọc đoạn văn sau được trích trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) và cho biết:
“... Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau
chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ
vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão toàn nói chuyện vui, toàn
chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm
cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem...”.
1. Bữa cơm ngày đói gợi nhớ đến nạn đói vào năm nào của dân tộc ta?
2. Câu chuyện của bà cụ Tứ trong bữa cơm ngày đói đã cho chúng ta bài học gì về
tinh thần và nghị lực sống?
3. Từ nội dung của đoạn văn, hãy liên hệ và nêu suy nghĩ về bữa cơm gia đình trong
một số gia đình hiện nay?
Đề 2 (Cho bài kiểm tra với thời lượng ngắn hoặc phần đọc hiểu của bài trên 2 tiết):

Đọc đoạn văn sau được trích trong truyện ngắn Ông già và biển cả (Ơ.Hê-minh-uê) và
trả lời các câu hỏi bên dưới: “...Với cái miệng mím chặt, cái đuôi nhịp nhàng, chúng ta
lái thuyền đi như thể hai anh em. Rồi đầu óc lão bắt đầu hơi lẫn lộn và lão nghĩ con cá
đưa ta hay ta đang đưa nó vào bờ? Nếu ta đang kéo nó phía sau thì chẳng có vấn đề gì
và nếu con cá trên thuyền nằm đờ ra, thì cũng chẳng có vấn đề gì. Nhưng ông lão và con
cá lại đang cặp kè lướt đi nên lão nghĩ, cứ để cu cậu đưa ta vào bờ nếu việc đó làm hài
lòng cu cậu. Ta chỉ thạo hơn cu cậu ở mỗi cái trò mánh lới; còn cu cậu thì đâu có làm
hại ta chút mảy may”.
19
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

1. Phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn văn trên là gì?
2. Những thủ pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong đoạn văn trên?
3. Các yếu tố ngôn ngữ: như thể hai anh em, cặp kè lướt đi, cu cậu cho thấy mối quan
hệ giữa ông lão và con cá như thế nào?
4. Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về tác hại của cái trò mánh lới mà con người thể
hiện trong cuộc sống?
Đề 3 (Cho phần làm văn trong bài kiểm tra với thời lượng trên 2 tiết):
Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành? Từ cuộc đời của nhân vật này, anh/chị hãy nêu suy nghĩ về nghị lực của con
người trong cuộc sống?
Như vậy, với ba đề minh họa trên, dễ thấy câu 3 (đề 1), câu 4 (đề 2) và ý hỏi thứ hai
(đề 3) là câu hỏi nhằm kết nối thông tin. Để làm tốt những câu hỏi dạng này, yêu cầu:
- Về hình thức: Trình bày ngắn gọn, diễn đạt rõ ràng mạch lạc, kiến thức cơ bản trọng

tâm (có thể trong đề đã yêu cầu về dung lượng và hình thức văn bản).
- Về nội dung: Cần trả lời các câu hỏi:
+ Vấn đề được kết nối được hiểu như thế nào?
+ Vấn đề này tồn tại trong xã hội ra sao? Những ảnh hưởng tốt/ không tốt của nó trong
đời sống xã hội? Những giải pháp để phát huy/ hạn chế?
+ Bài học liên hệ trong cuộc sống và học tập của bản thân?
3.4. Hiệu quả từ việc kết nối thông tin:
Thực tế cho thấy, việc kết nối thông tin trong tiết dạy đọc hiểu vừa đảm bảo kiến thức
cơ bản theo chuẩn kiến thức kĩ năng vừa tạo không khí sôi nổi trong giờ học. Nhờ đó,
giáo viên tránh được tình trạng thuyết trình và học sinh cũng tự rèn được khả năng tư duy
văn học. Các phương pháp học tập như suy nghĩ độc lập, trao đổi cặp đôi (nhóm), phát
biểu cá nhân (thay mặt nhóm) và khả năng nghe văn - nói văn - đọc văn - viết văn... thực
sự không còn là lí thuyết suông. Học sinh không còn tình trạng chán văn, không còn cảm
giác bị tra tấn trong mỗi giờ học văn, hoặc gây “thảm họa” văn chương qua các bài kiểm
tra. Không chỉ hoàn thành kiến thức của bài học, học sinh còn tích cực tham gia các diễn
đàn văn học và các cuộc thi liên quan đến bộ môn được tổ chức. Ví dụ trong năm học
2013 – 2014, cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn
20
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

của học sinh phổ thông, đề tài “Hiện tượng Chí Phèo trong xã hội hiện nay” của em
Hoàng Anh Tú và Lâm Nguyễn Trung Đức (11B9) đã đạt giải Nhì cấp Tỉnh và giải Ba
cấp Bộ. Bài viết được mở đầu khá hấp dẫn: “Chí Phèo đã đi từ trang sách của Nam Cao
để bước ra ngoài đời thực và trở thành một cái tên để chỉ những người cùng đồ hung dữ

luôn bơi ngược dòng đời sống. Từ đó, cái tên Chí Phèo không còn là nhân vật văn học
mà trở thành từ để gọi cho hiện tượng không kiểm soát được bằng lí trí. Ngay cả trong
văn chương, người ta dùng chữ “Chí Phèo” để nói về người khác với tất cả sự coi
thường. Từ “Chí Phèo” đã trở thành một danh từ, một tính từ để chỉ và miêu tả một mẫu
người đặc biệt trong xã hội mà người ta đã quen dùng”. Các nội dung “kết nối” trong bài
dự thi này gồm sự phân hóa giai cấp trong xã hội thực dân phong kiến, lối sống và cách
ứng xử của con người, tác hại nhiều mặt của bia rượu, kiến thức về pháp luật... được các
em thể hiện khá sáng tạo: Trong truyện của Nam Cao, Chí Phèo không phải là một tính
cách đơn độc mà thực sự là một kiểu người và nhân vật này mang nặng trên vai những
vấn đề xã hội. Chí Phèo không đơn thuần là vấn đề của người cố nông, mà suy cho cùng
đó là vấn đề con người. Nó đã khái quát nên bản chất của xã hội thực dân nửa phong
kiến (...). Tuy nhiên trong đời sống xã hội hiện nay, khi mà Chí Phèo trong truyện đã chết
cùng với xã hội đã đẻ ra nó thì Chí Phèo hiện đại - Chí Phèo của thế kỉ XXI lại xuất hiện
và mỗi ngày một nhiều. Chí Phèo xưa uống rượu với chuối xanh thì Chí Phèo nay rất đa
dạng và phong phú về nhu cầu ẩm thực. Kẻ túng thiếu thì ở nhà uống rượu suông; người
có điều kiện thì đi nhà hàng, khách sạn để uống bia lon, rượu ngoại, ăn đặc sản… Nghe
có vẻ phi lí, nực cười nhưng đó là sự thực 100%! Xưa, cả làng Vũ Đại (một xã hội Việt
Nam thu nhỏ) mới có một cái tên Chí Phèo, thì nay đâu đâu cũng có, dù là nơi bình dân
hay sang trọng, thậm chí có ở trong mỗi gia đình...
Cũng ở cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn
của học sinh phổ thông trong năm học này, đề tài “Người phụ nữ - nạn nhân chính của
bạo hành gia đình” do em Nguyễn Văn Minh và Phan Việt Anh (Lớp 11B11) thực hiện,
bài viết có một số nội dung kết nối thông tin rất sâu sắc. Cùng với việc chỉ ra nguyên
nhân của nạn bạo hành gia đình trong “Vợ chồng A Phủ” được cho là hậu quả của chế độ
phong kiến miền núi; trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là do đời sống vật chất sau chiến
tranh còn muôn vàn thiếu thốn, nghèo nàn, lạc hậu thì bài viết còn chỉ ra những nguyên
nhân của vấn nạn này trong xã hội ngày nay, trong đó có đoạn: “Thứ nhất, tư tưởng
21
SKKN (2014 - 2015)
Định


Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

phong kiến “trọng nam khinh nữ” vẫn tồn tại khá nặng nề trong một bộ phận nhân dân.
Cái quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã khiến cho bao người phụ nữ khi
sinh con một bề đã phải mang điều tiếng, (…). Những chính sách của Đảng ta đã tạo cho
người phụ nữ nhiều cơ hội để khẳng định mình và nhất là được sống “một vợ một
chồng” nhưng đâu đó người phụ nữ vẫn còn bị hắt hủi, ghẻ lạnh. Thứ hai, xuất phát từ
quan niệm cho rằng đàn ông là phái mạnh, phụ nữ là phái yếu. Thực ra, nếu xét về góc
độ di truyền thì thể trạng của người đàn ông thường to lớn và khỏe mạnh, tính cách bẩm
sinh cũng thường mạnh mẽ và hiếu chiến, khác với sự yếu đuối và nhạy cảm ở người phụ
nữ. Cách ứng xử của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội cũng thường nghiêng
về phía hành động mạnh mẽ và quyết đoán. Vì vậy, trong các vụ bạo hành thể xác không
khỏi ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ thường mang nỗi đau khủng khiếp của vũ lực, có
người phải mang thương tật suốt đời. Thứ ba, là từ sự giáo dục. Một nghiên cứu cho
thấy, ngay từ nhỏ nếu nam giới được giáo dục tốt, lớn lên nếu được tuyên truyền công
tác phòng chống bạo lực gia đình thì tỉ lệ gây ra bạo lực gia đình sẽ thấp hơn và ngược
lại (…)”. Như vậy, chỉ với việc tìm hiểu nguyên nhân của nạn bạo hành gia đình mà bài
dự thi của các em có sự kết nối các thông tin rất phong phú như quan niệm bảo thủ, lạc
hậu từ thời nho giáo đến những chính sách ưu việt của Đảng ta ngày nay, từ những kiến
thức về di truyền học đến tâm lí học, giáo dục học...
*
*

*
*


Có thể nói, “kết nối thông tin” là một nhu cầu chính đáng của con người trong thời
đại mới và trong quá trình học tập cũng vậy, việc “kết nối thông tin” là một trong những
phương pháp học tập hiệu quả, phù hợp với lộ trình đổi mới toàn diện nền giáo dục nước
nhà. Thiết nghĩ, đề tài này có phạm vi đề cập không lớn nhưng tính chất của nó thì không
hề nhỏ. Cá nhân người viết rất cần sự chia sẻ, góp ý của cơ quan chuyên môn, các thầy
giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp với tinh thần cầu thị cao nhất!
4. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp mới:
Để sáng kiến này được áp dụng vào thực tế giảng dạy và học tập, yêu cầu:
22
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

- Giáo viên phải thực sự đổi mới cách thức tổ chức tiết đọc hiểu văn bản văn học, lấy
học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học, câu hỏi phát vấn cần phát huy các năng lực
của học sinh từ năng lực chung (gồm: hợp tác, tự học, thu thập và xử lý thông tin, giao
tiếp, giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo…) đến năng lực chuyên biệt (gồm: đọc hiểu, cảm
thụ thẩm mĩ, sử dụng ngôn ngữ, tạo lập văn bản nói và viết…). Câu hỏi kiểm tra đánh giá
không chỉ thực hiện theo ma trận với các mức độ kiến thức (nhận biết, thông hiểu, vận
dụng và vận dụng cao) mà còn hướng đến các năng lực, phẩm chất của học sinh.
- Học sinh cần phải nhận thức được vai trò của môn học trong việc hoàn thiện nhân
cách, tâm hồn và năng lực sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trước những thách thức của ngôn ngữ
mạng.
5. Khả năng áp dụng vào thực tế của giải pháp mới:
Việc áp dụng sáng kiến “Phát huy năng lực kết nối thông tin cho học sinh lớp 12 –
THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí” vào quá trình dạy học bộ môn là có tính khả

thi. Bởi lẽ, sáng kiến này đã cung cấp cho người dạy những yêu cầu cụ thể về thái độ,
phẩm chất và các năng lực cần đạt của từng tác phẩm truyện và kí theo định hướng dạy
học theo chủ đề tích hợp. Mặt khác, trong từng bài, đều có sự gợi ý đến những vấn đề
được kết nối với cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong kì thi THPT Quốc gia
hiện nay.
6. Những đối tượng, cơ quan, tổ chức có thể áp dụng giải pháp mới:
Sáng kiến này có thể được coi như một tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy
đọc hiểu văn bản văn học dành cho giáo viên Ngữ văn ở các trường phổ thông kể cả giáo
dục thường xuyên.
C. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI:
I. Hiệu quả kinh tế: không
II. Hiệu quả về mặt xã hội:
Sáng kiến “Phát huy năng lực kết nối thông tin cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc
hiểu văn bản truyện và kí” đã giúp cho bản thân tôi và những đồng nghiệp khác có thêm
một cách thức tiếp cận văn bản văn học trong mối liên hệ với đời sống xã hội. Văn
chương không chỉ gắn với quan niệm “thi dĩ ngôn chí” hay “văn dĩ tải đạo” mà thực sự
phải “vị nhân sinh”. Quả không sai khi người ta khẳng định văn học là nhân học, học sinh
23
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam


Phát huy năng lực “Kết nối thông tin” cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí

học văn là quá trình học làm người. Những tri thức mà các em có được từ những tác
phẩm văn học không chỉ làm giàu đời sống tinh thần mà còn là hành trang quý giá đi suốt
cuộc đời các em. Đây chính là hiệu quả to lớn về mặt xã hội của sáng kiến này.
D. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN:

Là một giáo viên với trên 10 năm giảng dạy bộ môn, luôn trăn trở để tìm cách đưa văn
học đến gần hơn với học sinh, tôi cam kết, sáng kiến “Phát huy năng lực kết nối thông tin
cho học sinh lớp 12 – THPT qua đọc hiểu văn bản truyện và kí” là kinh nghiệm thực tế
được đúc rút từ quá trình giảng dạy của tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm pháp lí về bản
quyền với những nội dung được trình bày trong sáng kiến này. Trân trọng!

CƠ QUAN ĐƠN VỊ

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
…………………………………………………………………………………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………………………………………………………………….

Vũ Văn Đông

………………………………………………………………………………………………………………………………………….

24
SKKN (2014 - 2015)
Định

Vũ Văn Đông – Trường THPT Giao Thủy – Nam



×