Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH, BIÊN SOẠN GIÁO TRÌNH DẠY NGHỀ PHỔ THÔNG TẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP CÔNG NGHỆ VÀ TRUYỀN THÔNG NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.08 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG TRUNG CẤP CÔNG NGHỆ VÀ TRUYỀN THÔNG

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
TÊN SÁNG KIẾN:

BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH,
BIÊN SOẠN GIÁO TRÌNH DẠY NGHỀ PHỔ THÔNG
TẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP CÔNG NGHỆ
VÀ TRUYỀN THÔNG NAM ĐỊNH

Tác giả:
HOÀNG VĂN QUYỀN
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức vụ:
Hiệu trưởng
Nơi công tác: Trường trung cấp Công nghệ
và Truyền thông Nam Định


Nam Định, năm 2015

2


1. Tên sáng kiến: Biện pháp chỉ đạo xây dựng chương trình, biên soạn
giáo trình dạy nghề phổ thông tại trường trung cấp công nghệ và truyền thông
Nam Định.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong giảng dạy nghề phổ thông
gồm các nghề: Quay phim, dựng phim; Dẫn chương trình.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ năm học 2014-2015.


4. Tác giả:
Họ và tên: Hoàng Văn Quyền
Năm sinh: 1972
Nơi thường trú: Tổ 6 – Đông Mạc – Lộc Hạ – Nam Định
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức vụ công tác: Hiệu trưởng
Nơi làm việc: Trường Trung cấp Công nghệ và Truyền thông Nam Định.
Điện thoại: 0914658196
5. Đồng tác giả: Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Trung cấp Công nghệ và Truyền thông Nam Định
Địa chỉ: Phố Đoàn Khuê - Khu đô thị Thống Nhất – TP. Nam Định
Điện thoại: (0350) 3642299 – 3646041

3


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
1, Vài nét về Giáo dục nghề phổ thông cho học sinh THPT, THCS
Nghề phổ thông được đưa vào dạy trong các trường phổ thông cấp trung
học theo hình thức khuyến khích từ sau năm 1981 nhằm giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh cuối cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông theo Quyết định
126-CP của Hội đồng Chính phủ. Sau năm 2000, nghề phổ thông được chính
thức đưa vào kế hoạch dạy học trong chương trình giáo dục phổ thông ban hành
theo theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/52006 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo với tên mới là Hoạt động giáo dục nghề phổ thông và được
tổ chức thực hiện ở lớp 11 với thời lượng 3 tiết/ tuần, 105 tiết/năm học theo hình
thức tự chọn bắt buộc (học sinh được chọn học một nghề phù hợp với sở thích,
khả năng). Riêng ở cấp trung học cơ sở, học sinh vẫn học nghề phổ thông theo

hình thức khuyến khích nên không quy định trong chương trình giáo dục phổ
thông. Theo các văn bản của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, hoạt động
giáo dục nghề phổ thông là một hình thức, là con đường chủ yếu của công tác
hướng nghiệp. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lí trường học và giáo viên dạy
nghề phổ thông phải hiểu rõ và thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ, nội
dung giáo dục hướng nghiệp qua hoạt động giáo dục nghề phổ thông để từ đó
giúp học sinh có thêm cơ sở cần thiết trong việc chọn hướng học, ngành học,
chọn nghề phù hợp với hứng thú cá nhân, năng lực bản thân và nhu cầu lao
động của xã hội. Tuy nhiên, thực tế tổ chức hoạt động giáo dục nghề phổ thông
trong những năm qua cho thấy, yêu cầu giáo dục hướng nghiệp qua hoạt động
này hầu như chưa được cán bộ quản lí trường học và giáo viên dạy nghề phổ
thông nhận thức đầy đủ nên chưa được quan tâm thực hiện đúng mức. Sự đầu tư
về mọi mặt cho hoạt động giáo dục nghề phổ thông còn nhiều bất cập so với yêu
cầu thực tế. Việc tổ chức hoạt động giáo dục nghề phổ thông còn mang nặng
tính hình thức, phong trào, ít chú ý tới hiệu quả giáo dục hướng nghiệp nên chưa
đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp đã được xác định
trong các văn bản của Chính phủ và Bộ Giáo dục & Đào tạo.
4


Để đổi mới công tác dạy nghề phổ thông Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ
đạo tại công văn số 3119/BGDĐT-GDCN ngày 17/6/2014 về việc hướng dẫn
phối hợp để thực hiện giáo dục hướng nghiệp, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho học
sinh phổ thông. Thực hiện chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Nam Định có công văn số: 1157/SGDĐT ngày 22/9/2014 về việc phối hợp tổ
chức giáo dục hướng nghiệp, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh trung
học.
Theo các văn bản của Chính phủ và chỉ thị, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT,
việc tổ chức dạy NPT ở cấp THCS, THPT nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho học
sinh được thực tập làm quen với một số nghề, đồng thời trang bị cho học sinh

các kiến thức, kĩ năng lao động cần thiết trong lĩnh vực nghề phổ biến, cần phát
triển ở địa phương, đất nước và phù hợp với lứa tuổi học sinh trung học. Trên cơ
sở đó, góp phần định hướng nghề nghiệp và chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc
sống lao động hoặc được tiếp tục đào tạo phù hợp với năng lực bản thân và nhu
cầu của xã hội. Nói cách khác, việc tổ chức dạy học NPT nhằm mục đích chủ
yếu là Giáo dục hướng nghiệp (GDHN), góp phần định hướng nghề nghiệp và
phân luồng hợp lí học sinh sau THCS, THPT.
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy nhiều năm đồng thời là một nhà quản lý
giáo dục tác giả đã trăn trở làm thế nào để có thể phát huy thế mạnh về con
người và cơ sở vật chất hiện có của Nhà trường góp phần vào nhiệm vụ chung
của ngành là giáo dục định hướng nghề nghiệp cho các em học sinh phổ thông.
Từ thực tế đó tác giả đã tổ chức, chỉ đạo Xây dựng chương trình, biên soạn giáo
trình dạy nghề phổ thông gồm các nghề: Quay phim, dựng phim; Dẫn chương
trình; Điện dân dụng; Điện tử dân dụng. Các bước xây dựng, tổ chức thẩm định
đã thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định hiện hành.
2, Đặc điểm giáo dục của trường trung cấp CNTT Nam Định
Trường trung cấp Công nghệ và Truyền thông Nam Định tiền thân là
Trường Nghiệp vụ Phát thanh – Truyền hình được thành lập năm 1979, trải qua
các thời kỳ phát triển được UBND Tỉnh giao các nhiệm vụ đào tạo khác nhau.
Năm 2007, trước yêu cầu đổi mới về loại hình đào tạo và nhiệm vụ chính trị của
5


Nhà trường, trường được nâng cấp thành trường Trường trung cấp Phát thanh –
Truyền hình Nam Định có trụ sở ở miền Đông Mạc, Phường Lộc Hạ -TP.Nam
Định (Khu B). Sau khi nâng cấp được UBND tỉnh cho phép đầu tư dự án mở
rộng trường (Khu A). Nhà trường đã hoàn thành xây dựng cơ sở vật chất giai
đoạn 1. Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới UBND tỉnh có
quyết định số 159/QĐ-UBND ngày 20/01/2014 về việc đổi tên trường Trung
cấp Phát thanh- Truyền hình Nam Định thành trường Trung cấp Công nghệ và

Truyền thông Nam Định (CNTT).
Trải qua hơn 35 năm xây dựng và trưởng thành, trường trung cấp CNTT
Nam Định đã có sự chuyển biến rõ nét. Quy mô giáo dục ngày một phát triển.
Chất lượng giáo dục toàn diện các ngành nghề được giữ vững, chất lượng giáo
dục mũi nhọn được nâng cao. Đội ngũ cán bộ giáo viên và cán bộ quản lý giáo
dục, có sự phát triển về số lượng và chất lượng.
Thuận lợi:
Theo các văn bản của Chính phủ và chỉ thị, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT,
việc tổ chức dạy NPT ở cấp THCS, THPT nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho học
sinh được thực tập làm quen với một số nghề, đồng thời trang bị cho học sinh
các kiến thức, kĩ năng lao động cần thiết trong lĩnh vực nghề phổ biến, cần phát
triển ở địa phương, đất nước và phù hợp với lứa tuổi học sinh trung học. Trên cơ
sở đó, góp phần định hướng nghề nghiệp và chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc
sống lao động hoặc được tiếp tục đào tạo phù hợp với năng lực bản thân và nhu
cầu của xã hội. Nói cách khác, việc tổ chức dạy học NPT nhằm mục đích chủ
yếu là giáo dục hướng nghiệp (GDHN), góp phần định hướng nghề nghiệp và
phân luồng hợp lí học sinh sau THCS, THPT.
Từ năm học 2013-2014 đến nay, Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm
cơ sở vật chất trường học, tạo điều kiện cho cán bộ giáo viên nâng cao trình độ
chuyên môn và có chế độ bồi dưỡng lý luận chính trị. Giáo dục của trường luôn
kế thừa và phát huy những kết quả đáng khích lệ của những năm trước góp phần
khích lệ giáo viên và học sinh phấn đấu vươn lên.
6


Giáo dục nghề nghiệp nói chung, dạy nghề phổ thông trong các nhà trường
trong những năm gần đây đã được Đảng và nhà nước quan tâm, Bộ GDĐT chỉ
đạo thường xuyên, bài bản. Các tỉnh nói chung, tỉnh Nam Định nói riêng đã có
các trung tâm Hướng nghiệp Dạy nghề bên cạnh đó các trường THPT hầu hết đã
có biên chế giáo viên dạy môn công nghệ.

Khó khăn:
Trường trung cấp công nghệ và Truyền thông Nam Định trong những năm
qua được UBND tỉnh giao nhiệm vụ đào tạo trung cấp chuyên nghiệp (TCCN),
trung cấp nghề (TCN) ngoài ra còn được giao dạy nghề và bồi dưỡng nghiệp vụ.
Công tác hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông chưa giao cho các trường trung
cấp.
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông với mục đích
chính của hoạt động giáo dục nghề phổ thông là giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh, giúp học sinh (HS) nâng cao nhận thức bản thân, nhận thức nghề nghiệp để
có sự lựa chọn nghề phù hợp. Đồng thời, giúp HS có điều kiện củng cố nội dung
lí thuyết, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học ở môn Công nghệ vào thực tiễn đời
sống sản xuất trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…và áp
dụng kiến thức, kĩ năng của các môn văn hóa vào hoạt động nghề nghiệp cụ thể;
có tâm thế sẵn sàng bước vào cuộc sống lao động sau khi tốt nghiệp THCS,
THPT. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản giữa dạy NPT với dạy nghề. Trong
những năm qua do hoạt động này chưa đạt kết quả như mong đợi nên các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp nói chung trường trung cấp CNTT nói riêng công tác
tuyển sinh còn gặp rất nhiều khó khăn luôn luôn không tuyển đủ chỉ tiêu được
giao. Cơ sở vật chất thì chưa được quan tâm đầu tư do đó còn rất nhiều thiếu
thốn.
Trên cơ sở thực tế khó khăn, thách thức và cơ hội, Ban Giám hiệu nhà
trường đã xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục đào tạo cụ thể như sau:
- Đẩy mạnh hoạt động giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống, xây dựng
nếp sống văn hóa cho học sinh nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh giai
đoạn đổi mới của đất nước.
7


- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, chất
lượng nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,

hiện đại hóa của đất nước.
- Huy động mọi nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất và xây dựng trường học
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa.
- Làm tốt công tác điều tra cơ bản về nhu cầu học nghề, tuyên truyền động
viên, có chính sách động viên, khuyến khích với học sinh gia đình khó khăn có
thành tích cao trong học tập. Đầu tư cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho học sinh
học tập tốt nhất.
- Đầu tư xây dựng mới, sửa chữa cải tạo, đầu tư trang thết bị hiện đại nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tăng cường công tác giáo dục
đạo đức, giáo dục truyền thống. Đổi mới công tác giảng dạy học, tăng cường sử
dụng đồ dùng dạy học hiện đại. Sử dụng hiệu quả các thiết bị đồ dùng dạy học.
- Tăng cường công tác đào tạo nghề nói chung, đào tạo nghề phổ thông nói
riêng, tiếp tục phát huy thế mạnh các ngành, nghề có nhiều thiết bị, lực lượng
giáo viên có nhiều kinh nghiệm, trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn. Tiếp tục điều
tra nhu cầu của người học và định hướng các ngành nghề của xã hội để đi trước
đón đầu xây dựng chương trình, tài liệu tổ chức tuyển sinh và giảng dạy.
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên. Đặc biệt quan tâm đến việc nâng
cao chất lượng hoạt động bồi dưỡng thường xuyên, tự học, tự bồi dưỡng. Tạo
điều kiện thuận lợi để cán bộ, giáo viên tham dự các khóa đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ.
- Tăng cường đầu tư trang thiết bị hiện đại trong nhà trường. Chú trọng
thiết bị phục vụ việc đổi mới chương trình và chương trình công nghệ thông tin
trong trường học.
- Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng các phòng học bộ môn, phòng
học thực hành, phòng chức năng, thư viện, nhà giáo dục thể chất đạt chuẩn.
8


- Thực hiện nghiêm quy chế dân chủ, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng

hiệu quả các phong trào thi đua, các cuộc vận động: “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”, “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”
...
- Đẩy mạnh đổi mới công tác đánh giá thi đua trong trường học. Thực hiện
tốt các quy trình xét duyệt thi đua hàng năm. Đổi mới nâng cao chất lượng công
tác thông tin tuyên truyền. Phát huy vai trò của các tổ chức cơ sở đảng, công
đoàn, đoàn thanh niên trng nhà trường, góp phần đổi mới tư duy nhận thức về
giáo dục đào tạo.
Đánh giá chung
Bám sát nhiệm vụ của cấp học, xác định rõ chất lượng giáo dục toàn diện là
biện pháp hàng đầu trong việc duy trì và phát triển trường trung cấp chuyên
nghiệp. Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã xây dựng kế hoạch và đề ra các
biện pháp tích cực thiết thực nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
- Các hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học được
nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao hơn. Việc đổi mới chương trình giáo dục
TCCN có hiệu quả rõ rệt từ khâu bồi dưỡng giáo viên cho đến sự phân công sắp
xếp đội ngũ, mua sắm trang thiết bị dạy học. Chất lượng giáo dục có nhiều tiến
bộ. Các cuộc thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, cấp tỉnh đạt kết quả cao. Các
hoạt động giáo dục kỹ năng sống làm cho đạo đức học sinh tăng lên rõ rệt.
II. Mô tả giải pháp
1, Tình hình dạy nghề phổ thông (NPT) trước khi có sáng kiến
1.1 Thực trạng:
Hàng năm, nước ta có khoảng gần 900.000 học sinh (HS) tốt nghiệp trung
học phổ thông (THPT) và khoảng 1.300.000 HS học xong cấp trung học cơ sở
(THCS). Đa số HS tốt nghiệp THPT có xu hướng thi vào đại học, cao đẳng, tập
trung vào những trường đào tạo những ngành nghề “nóng” trong xã hội như
kinh tế, tài chính, ngân hàng, luật, báo chí... Phần lớn HS học xong THCS có xu
9



hướng học tiếp THPT, có thể là THPT công lập hoặc dân lập. Tỉ lệ HS đăng kí
thi vào các trường nghề, từ cao đẳng nghề đến sơ cấp nghề còn thấp, mặc dù
hiện nay Nhà nước đang có chính sách hỗ trợ cho các trường nghề rất tốt. Sự
phân luồng không hợp lí này kéo dài đã gây ra tình trạng “thừa thày, thiếu thợ”
trong nguồn lực lao động ở nước ta. Đó là chưa kể tới tình trạng nhiều em chọn
ngành, nghề không đúng với sở thích, khả năng, giá trị nghề nghiệp của bản
thân, dẫn đến hậu quả là sau 4-5 năm học tập ở trường đại học, tốt nghiệp ra
trường không thể tìm kiếm hoặc tự tạo được việc làm, phải xin làm những công
việc không cần đến trình độ đại học hoặc làm trái ngành nghề được đào tạo.
Điều này đã gây ra lãng phí không nhỏ cho bản thân các em, gia đình các em và
nguồn lực lao động của đất nước. Cùng với tình trạng trên, gần 60% HS cấp
THPT không thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và gần 20% HS học xong
cấp THCS không học tiếp lên THPT đã tham gia ngay vào cuộc sống lao động
sản xuất trong nhiều lĩnh vực, trong đó chủ yếu là lĩnh vực nông nghiệp. Các em
thường tham gia lao động phổ thông như những người lao động bình thường.
Nhiều em rất lúng túng trước cuộc sống lao động thực tế, không định hướng
được con đường nghề nghiệp cho bản thân. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
trên là do trong những năm qua, công tác giáo dục hướng nghiệp chưa được
quan tâm đúng mức. Hiệu quả của các hình thức giáo dục hướng nghiệp, trong
đó có hoạt động giáo dục nghề phổ thông (HĐGDNPT) còn thấp, chưa đáp ứng
được mục tiêu giáo dục hướng nghiệp (GDHN)1.
Để khắc phục, một trong những biện pháp hữu hiệu cần được thực hiện
ngay, đó là cải thiện hiệu quả của HĐGDNPT vì đây là một hình thức hướng
nghiệp quan trọng, chủ yếu trong các hình thức hướng nghiệp.
Dạy nghề phổ thông trong những năm qua được sự quan tâm chỉ đạo của
ngành GDĐT giao cho trung tâm Hướng nghiệp dạy nghề của tỉnh thực hiện
ngoài ra còn được giao cho giáo viên công nghệ của các trường THPT giảng dạy
với các nghề như Điện dân dụng, thêu, nấu ăn, ...


Nguồn: GDHN qua HĐGDNPT -Th.S Trần Thị Thu - nguyên trưởng phòng Hướng nghiệp Trung tâm Hỗ trợ
đào tạo và Cung ứng nhân lực Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1

10


Nhìn chung các nghề trong danh mục nghề phổ thông do Bộ GDĐT ban
hành chưa thực sự phong phú, ít nghề và chưa bám sát với nhu cầu thực tế của
các địa phương và người học dẫn đến việc học của các học sinh chưa thực sự
hiệu quả, chưa gây hứng thú cho người học.
Các trường trung cấp chuyên nghiệp với các trang thiết bị tương đối đầy đủ
đặc biệt với đội ngũ giáo viên có chuyên môn tốt được đào tạo bài bản, rất tâm
huyết với giáo dục nghề nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong việc định hướng
nghề nghiệp gắn với nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp,... Khi các
trường TCCN được Bộ GD&ĐT giao thêm nhiệm vụ dạy nghề phổ thông thì tác
giả đã nghiên cứu danh mục các nghề trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch xây dựng
chương trình, biên soạn tài liệu giảng dạy các nghề không có trong danh mục
nghề do Bộ GDĐT đưa ra mà trường của trường trung cấp Công nghệ và Truyền
thông Nam Định có thể thực hiện rất tốt.
1.2. Công tác giảng dạy NPT của trường (trước khi có sáng kiến):
- Hoạt động giáo dục nghề phổ thông (HĐGDNPT) được tổ chức ở các
trung tâm giáo dục có chức năng hướng nghiệp cho HS phổ thông và các trường
THCS, THPT. Trong thực tế, số trường tổ chức cho HS học NPT tại trường
chiếm đa số vì HS không phải đi xa và tận dụng được đội ngũ giáo viên trong
trường. Những giáo viên được phân công tổ chức HĐGDNPT thường là GV văn
hóa, chưa hiểu rõ mục đích chủ yếu của HĐGDNPT là GDHN. Mặt khác, những
giáo viên này chưa được trang bị các kiến thức, kĩ năng cơ bản về hướng nghiệp
nên trong quá trình dạy học họ chỉ quan tâm truyền thụ những kiến thức lí thuyết
có sẵn trong tài liệu và tổ chức thực hiện những bài thực hành mà bản thân có

khả năng hướng dẫn được hoặc những nội dung thực hành thường được ra trong
đề thi hàng năm. Những nội dung về hướng nghiệp hầu như rất ít được tích hợp,
lồng ghép vào nội dung các bài học. Các phương pháp dạy học tích cực ít được
giáo viên vận dụng vào quá trình dạy nghề nên các giờ dạy học NPT thường
thiếu tính hấp dẫn, không thu hút được sự quan tâm, chú ý của HS.
- Mục đích tham gia học NPT của hầu hết HS không rõ ràng. Đa số các em
đăng kí học NPT theo yêu cầu của nhà trường và các bạn. Nhiều em tham gia
11


học NPT với mục đích là được cộng điểm khuyến khích vào điểm thi tốt nghiệp
THPT hoặc điểm thi vào cấp THPT. Các em tham gia học NPT nhưng ít quan
tâm đến việc tìm hiểu nghề, tìm hiểu sở thích nghề nghiệp, khả năng của bản
thân, chỉ chú tâm vào những nội dung lí thuyết và thực hành trọng tâm của
chương trình để thi nghề đạt kết quả cao. Trong quá trình học nghề, HS ít đào
sâu suy nghĩ, thiếu sự chủ động vận dụng những trải nghiệm của bản thân vào
quá trình tìm tòi, khám phá, tìm hiểu kiến thức, kĩ năng nghề. Hoạt động thực
hành chủ yếu là làm theo hướng dẫn của giáo viên, ít có sự sáng tạo và kiểm
nghiệm thực tế. Do vậy, chẳng những các kiến thức, kĩ năng nghề các em lĩnh
hội được nhanh chóng bị “rơi rụng” mà bản thân các em vẫn rất lúng túng trong
việc chọn hướng đi tiếp theo cũng như lựa chọn ngành nghề phù hợp với sở
thích, khả năng của bản thân. Việc chọn nghề theo ý kiến của cha mẹ, bạn bè và
trào lưu chung vẫn phổ biến.
- Số nghề được dạy tại các trường THCS, THPT thường chỉ bó gọn trong 34 nghề mà nhà trường có giáo viên và trang thiết bị để dạy như nghề điện dân
dụng do giáo viên vật lí đảm nhận; nghề làm vườn, nghề trồng rừng, nghề trồng
lúa do giáo viên Sinh vật và những giáo viên chưa có đủ số giờ quy định dạy;
nghề tin học văn phòng do giáo viên Tin, giáo viên Toán dạy… Do vậy, HS ít có
điều kiện lựa chọn nghề để học phù hợp với sở thích, khả năng của bản thân và
phù hợp với xu hướng phát triển nghề nghiệp ở địa phương, xã hội. Điều này
dẫn đến tâm lí học nghề phổ thông của nhiều em không thoải mái, các em không

mặn mà với việc học nghề phổ thông. Có những em chán với việc học nghề phổ
thông và nói rằng: “nhà trường và giáo viên chủ nhiệm yêu cầu học thì học thôi
chứ không cảm thấy thích thú gì”.
- Việc tổ chức HĐGDNPT thường chỉ bó gọn trong nhà trường hoặc trung
tâm kĩ thuật tổng hợp- hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên, hầu như
không có sự hợp tác hoặc liên kết với các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp đóng
trên địa bàn hoặc các ban ngành có liên quan ở địa phương. Do vậy, HS không
có điều kiện trải nghiệm nghề và ít có hiểu biết về hoạt động của nghề đó trong
thực tiễn.
12


Nguyên nhân của hạn chế:
- HĐGDNPT chưa được coi trọng, từ khâu chỉ đạo cho tới khâu thực hiện
và giám sát, đánh giá. Việc tổ chức HĐGDNPT còn mạng nặng tính hình thức,
chạy theo số lượng, chưa quan tâm tới mục đích GDHN của HĐGDNPT.
- Đội ngũ giáo viên tham gia ĐGDNPT tại các trường THCS hầu hết là
giáo viên kiêm nhiệm. Họ không có đủ những kiến thức, kĩ năng cần có của giáo
viên dạy NPT, bao gồm kiến thức, kĩ năng nghề phổ thông và kiến thức, kĩ năng
hướng nghiệp. Rất ít giáo viên có trình độ chuyên môn sâu về nghề và kĩ năng
thực hành nghề. Không những thế, họ còn không hứng thú gì với công việc được
giao nên ít trau dồi chuyên môn qua tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn và tay nghề.
- Các cấp quản lí ít quan tâm, chú ý tới việc hỗ trợ, bồi dưỡng về chuyên
môn, phương pháp dạy học tích cực và GDHN qua HĐGDNPT cho giáo viên
dạy NPT ở các địa phương và các cơ sở giáo dục.
- Mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu GDHN qua HĐGDNPT với một bên
là hạn chế, bất cập của chương trình, tài liệu phục vụ cho HĐGDNPT: Cho đến
nay, ở cấp THPT chỉ có 11 chương trình HĐGDNPT được ban hành theo quyết
định số 16/2006/QĐ-BGDĐT là nghề điện dân dụng, nghề gò, nghề sửa chữa xe

máy, nghề nuôi cá, nghề trồng rừng, nghề làm vườn, nghề thêu tay, nghề cắt
may, nghề nấu ăn, nghề tin học văn phòng, nghề điện tử dân dụng và 10 bộ tài
liệu cho HS, giáo viên (nghề điện tử dân dụng chưa có tài liệu). Các trường
THPT muốn dạy thêm nghề khác phải xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu
và được cấp trên phê duyệt. Còn ở cấp THCS thì có nhiều nghề hơn do được dạy
tất cả các nghề trong danh mục nghề phổ thông (75 tiết) được ban hành từ năm
1992 và những nghề truyền thống của địa phương. Trong tất cả các chương trình
và tài liệu NPT đã ban hành, chưa có hướng dẫn cụ thể việc thực hiện GDHN
qua HĐGDNPT, chủ yếu tập trung vào kiến thức, kĩ năng kĩ thuật của nghề. Chỉ
có bài cuối trong chương trình là bài tìm hiểu nghề - 3 tiết có đề cập tới các đặc
điểm, yêu cầu của nghề; thông tin về thị trường lao động của nghề và vấn đề đào
tạo nghề. Những nội dung này được đưa vào tài liệu từ cách đây gần chục năm
13


nên thiếu tính cập nhật. Do vậy, giáo viên thiếu cơ sở cũng như định hướng để
tiến hành GDHN qua các bài dạy trong chương trình.
Trong thời gian vừa qua việc giảng dạy nghề trong các trường trung cấp
chuyên nghiệp nói chung, trường trung cấp Công nghệ và Truyền thông nói
riêng được thực hiện với một số nghề trình độ TCCN và một số nghề trình độ sơ
cấp diễn ra theo sự chỉ đạo của Sở LĐ-TB&XH. Đối với dạy nghề phổ thông thì
không được sự cho phép của Bộ GDĐT, Sở GDĐT nên các trường TCCN mặc
dù có đủ điều kiện để thực hiện tốt song chưa được tham gia giảng dạy.
Các trường TCCN không tham gia giảng dạy NPT dẫn đến:
Lãng phí cơ sở vật chất của trường, sức lao động của các giáo viên đặc biệt
còn có thể dẫn đến công tác dạy nghề phổ thông không đạt kết quả như mong
muốn.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành văn bản 3119/BGDĐT-GDCN
ngày 17/6/2014 về việc hướng dẫn phối hợp để thực hiện giáo dục hướng

nghiệp, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông và văn bản chỉ đạo
số 1157/SGD&ĐT ngày 22/9/2014 về việc phối hợp tổ chức giáo dục hướng
nghiệp, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh trung học của Giám đốc Sở
GDĐT Nam Định. Tác giả đã có rất nhiều trăn trở về mục tiêu, yêu cầu và biện
pháp thực hiện để làm sao đạt kết quả theo đúng tinh thần, chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước. Từ những trăn trở đó tác giả nghĩ nếu căn cứ vào danh mục
11 nghề do Bộ GDĐT ban hành thì công tác giáo dục NPT thực sự vẫn sẽ không
đạt hiệu quả như mong muốn do đó căn cứ vào cơ sở vật chất, năng lực và nhu
cầu phát triển của xã hội cũng như đam mê của học sinh tác giả đã đưa ra
phương án nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc tham gia dạy nghề phổ thông
trong các trường trung cấp chuyên nghiệp nói chung, tại trường trung cấp Công
nghệ và Truyền thông nói riêng:
Phương án cụ thể. Thực hiện đồng bộ 02 giải pháp:

14


- Thứ nhất: Các trường trung học phổ thông và trung tâm hướng nghiệp,
dạy nghề trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực hiện dạy các nghề trong danh mục NPT
phù hợp với từng địa phương (nếu có đủ điều kiện về cơ sở vật chất và giáo
viên), bao gồm các nghề:
 Nghề điện dân dụng
 Nghề gò
 Nghề sửa chữa xe máy
 Nghề nuôi cá
 Nghề trồng rừng
 Nghề làm vườn
 Nghề thêu tay
 Nghề cắt may
 Nghề nấu ăn

 Nghề tin học văn phòng
 Nghề điện tử dân dụng.
- Thứ hai: Các trường TCCN, các trường có đào tạo trình độ TCCN tham
gia giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông cho học sinh trung học để các
em có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn, phong phú hơn với các nghề truyền thống
cũng như các nghề mà nhu cầu tuyển dụng của các thị trường lao động trong và
ngoài nước đang có nhu cầu tuyển theo tinh thần công văn 3119/BGDĐTGDCN ngày 17/6/2014 về việc hướng dẫn phối hợp để thực hiện giáo dục hướng
nghiệp, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông của Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Tác giả đã tổ chức, chỉ đạo xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu
dạy nghề phổ thông với các nghề Nhà trường có thế mạnh và có thể tổ chức
giảng dạy tốt mà không có trong danh mục các nghề (11 nghề) theo quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Với phương án nêu trên tác giả đã đưa ra “biện pháp xây dựng chương
trình, biên soạn giáo trình giảng dạy nghề phổ thông tại trường trung cấp công
15


nghệ và truyền thông” với các nghề mà nhà trường có thế mạnh và tổ chức triển
khai dạy nghề theo danh mục NPT do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và các
nghề do Nhà trường xây dựng,
3.1. Kế hoạch xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình: Qua khảo sát
các học sinh THPT một số trường như THPT A Nghĩa Hưng, THPT B Nghĩa
Hưng, THPT Trần Văn Lan ... về các nghề: Nghề dẫn chương trình, Nghề quay
phim dựng phim. Sau khi tổng hợp ý kiến của học sinh và các ý kiến phân tích
của Hội đồng đào tạo nhà trường, tác giả đã ban hành các quyết định, chỉ đạo tổ
chức xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình giảng dạy nghề phổ thông:
+ Nghề dẫn chương trình
+ Nghề quay phim dựng phim
3.2. Xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình.
Chuẩn bị:

- Thành lập Ban chủ nhiệm để xây dựng đề cương tổng hợp và đề cương
chi tiết;
- Tập huấn xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình cho Ban chủ
nhiệm.
Phân tích nghề, phân tích công việc:
Phân tích nghề, phân tích công việc để xây dựng chuẩn kiến thức kỹ năng
đào tạo nghề phổ thông, bao gồm:
- Khảo sát, xin ý kiến chuyên gia bộ phiếu phân tích nghề, biên soạn phiếu
phân tích nghề từ 3 bước trở lên;
- Xin ý kiến chuyên gia bộ phiếu phân tích công việc, nghiệm thu;
- Tổng hợp hoàn thiện báo cáo phân tích nghề, phân tích công việc.
Thiết kế chương trình
- Sắp xếp danh mục các công việc trong chương trình;
- Tổng hợp kiến thức, kỹ năng nghề cần đào tạo;
16


- Lập mối quan hệ giữa các mô đun/môn học với các nhiệm vụ và công
việc;
- Lập sơ đồ quan hệ giữa các mô đun/môn học với nhau;
- Thiết kế cấu trúc của chương trình, xác định mục tiêu đào tạo, thời gian
của khóa học, thời gian thực học, danh mục các mô đun, môn học, thời gian
và phân bổ thời gian của từng mô đun/môn học, xác định yêu cầu và cách
thức đánh giá kết quả học tập của người học
4. Biên soạn chương trình, giáo trình
a) Biên soạn chương trình: Biên soạn chương trình môn học gồm:
- Nêu vị trí, tính chất, mục tiêu, nội dung, điều kiện thực hiện, phương pháp
và nội dung đánh giá, hướng dẫn thực thực hiện
- Hướng dẫn giám sát xây dựng chương trình;
- Xin ý kiến chuyên gia về chương trình;

b) Biên soạn giáo trình:
Xác định vị trí, ý nghĩa vai trò, mục tiêu cụ thể, số lượng bài/chương của
môn học; nội dung chính, kiến thức cần thiết, các bước thực hiện công việc,
các bài tập để hình thành kỹ năng, đánh giá kết quả học tập theo
bài/chương môn học; biên soạn giáo trình môn học; hướng dẫn giám sát
biên soạn giáo trình; xin ý kiến chuyên gia về giáo trình.
5. Hội thảo hoàn chỉnh dự thảo:
5.1. Hội thảo thiết kế và biên soạn chương trình
Nhóm biên soạn chương trình sau khi hoàn thiện phần dự thảo biên soạn
chương trình tổ chức Hội thảo thành phần mời dự hội thảo là các chuyên gia về
giáo dục, các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô giáo lão thành có nhiều kinh
nghiệm trong giảng dạy ngành học này.
5.2. Hội thảo biên soạn giáo trình

17


Nhóm biên soạn giáo trình sau khi hoàn thiện phần dự thảo biên soạn giáo
trình theo chương trình đã được thông qua, tổ chức Hội thảo thành phần mời dự
hội thảo là các chuyên gia về giáo dục, các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô
giáo lão thành có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy ngành học này.
6. Sửa chữa, biên tập tổng thể chương trình, giáo trình
Sửa chữa, biên tập tổng thể chương trình, giáo trình, sắp xếp, căn chỉnh các
mục sao cho logic.
7. Bảo vệ chương trình, giáo trình
7.1. Bảo vệ chương trình, giáo trình cấp khoa:
- Gửi dự thảo chương trình, giáo trình đến các chuyên gia giáo dục và các
giáo viên có kinh nghiệm trong khoa.
- Khoa chuyên môn tổ chức, chủ trì về nội dung để ban biên tập trình bày
trước các chuyên gia có kinh nghiệm của khoa, trên cơ sở các ý kiến đóng góp

của các chuyên gia có kinh nghiệm trong khoa ban biên tập tổng hợp, chỉnh sửa
nội dung để chuẩn bị cho buổi bảo vệ cấp trường.
7.2. Bảo vệ chương trình, giáo trình cấp trường
- Gửi dự thảo chương trình, giáo trình cho Hội đồng nghiệm thu;
- Bảo vệ chương trình, giáo trình trước Hội đồng nghiệm thu;
- Giao nộp sản phẩm đã được Hội đồng nghiệm thu thông qua.
8. Kết quả của sáng kiến:
Sản phẩm của sáng kiến: Sau khi trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện thì sản
phẩm cuối cùng là chương trình và giáo trình của 02 nghề phổ thông:
a) Nghề dẫn chương trình (thời lượng 105 tiết)
(Phân phối chương trình và giáo trình kèm theo phần phụ lục 1)
b) Nghề quay phim, dựng phim (thời lượng 105 tiết)
(Phân phối chương trình và giáo trình kèm theo phần phụ lục 2)
18


III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại:
3.1. Hiệu quả về quản lý điều hành, chất lượng giảng dạy:
Công tác quản lý điều hành được thực hiện một cách thuận lợi khi các giáo
viên được phân công giảng dạy đúng sở trường công tác.
Thống nhất về chương trình, nội dung giảng dạy trong toàn trường, học
sinh và giáo viên có tài liệu chuẩn để nghiên cứu khi cần. Đảm bảo chất lượng
trong từng bài giảng đạt chuẩn kiến thức chuyên môn, Cải thiện được chất lượng
đầu ra.
Hàng năm hoặc sau mỗi khóa học có cơ sở để rút kinh nghiệm, chỉnh sửa,
bổ xung kiến thức mới, để tái bản giáo trình. Lực lượng giáo viên của nhà
trường được sử dụng có hiệu quả.
3.2. Hiệu quả về mặt xã hội:
Chương trình và tài liệu giảng dạy được biên soạn bởi các giáo viên có
trình độ, có kinh nghiệm ngoài ra nhà trường còn mời các chuyên gia, các nhà

quản lý, các giảng viên trong các trường Cao đẳng, Đại học tham gia trong hội
đồng phản biện, đánh giá bổ xung nên chất lượng chương trình, tài liệu giảng
dạy có tính thực tiễn cao, đảm bảo tính khoa học, có thể tạo thêm NPT, tạo việc
làm, định hướng chọn nghề cho các em học sinh sau khi tốt nghiệp THPT, tạo
thêm việc làm mới cho cán bộ giáo viên trường Trung cấp CNTT là trực tiếp
giảng dạy NPT ở các trường phổ thông. Các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh
và các tỉnh lân cận có thể sử dụng cho giáo viên và học sinh tham khảo trong
quá trình học nghề phổ thông.
3.3. Hiệu quả về mặt giáo dục:
Sau khi tác giả đã tổ chức, chỉ đạo xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu
dạy nghề phổ thông gồm các nghề: Quay phim, dựng phim; Dẫn chương trình;
Điện dân dụng; Điện tử dân dụng và được thông qua tại Hội đồng khoa học, đề
tài đã được triển khai ở một số trường phổ thông như: THPT A Nghĩa Hưng,
THPT B Nghĩa Hưng, THPT Trần Văn Lan, THPT Trần Hưng Đạo, ... thì các
học sinh đăng ký với số lượng lớn như:
19


*Năm học 2014-2015 đã dạy và thi, cấp chứng chỉ:
- THPT A Nghĩa Hưng 9 lớp với 352 học sinh
*Năm học 2015-2016 đang dạy:
- THPT A Nghĩa Hưng 9 lớp
- THPT B Nghĩa Hưng 8 lớp
- THPT Trần văn Lan 7 lớp
- THPT Nguyễn Khuyến 5 lớp
- THPT Quất lâm 7 lớp
- THPT Trần Hưng Đạo 1 lớp
Nhìn chung các em rất hứng thú, say mê học tập do vậy kết quả học tập tốt,
không có học sinh nghỉ học, bỏ giữa chừng.
3.4. Khả năng áp dụng:

Sau khi có sáng kiến và tổ chức thực hiện thành công sáng kiến thì chúng
tôi đã triển khai áp dụng giảng dạy ở một số trường THPT như: THPT A Nghĩa
Hưng, B Nghĩa Hưng, Trần Văn Lan, Nguyễn Khuyến, Quất lâm, Trần Hưng
Đạo... trong đó đã học xong chương trình và tổ chức thi cấp chứng chỉ NPT cho
các em học sinh tại THPT A Nghĩa Hưng trong năm học 2014-2015.
Đề xuất, kiến nghị:
Để công tác biên soạn chương trình, tài liệu giảng dạy cho đối tượng học
nghề phổ thông có hiệu quả cao tôi đề xuất:
Về phía nhà trường: Tiếp tục điều hành, tổ chức biên soạn chương trình
nghề, tài liệu giảng dạy, nâng cấp thành các giáo trình để chuẩn hóa kiến thức
đồng thời từng bước nâng cao chất lượng dạy và học.
Về phía các cơ quan quản lý giáo dục: Tôi đề xuất đầu tư về kinh phí và
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát để các trường TCCN nói chung
tham gia biên soạn chương trình, tài liệu, giáo trình dạy nghề phổ thông. Về lâu
dài Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức biên soạn sách, giáo trình tất cả các
20


nghề phổ thông để dùng thống nhất trên phạm vi toàn quốc, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo đáp ứng được yêu cầu học nghề phổ thông góp phần định
hướng nghề nghiệp cho các em học sinh ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường
phổ thông.
IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền:
Tôi xin cam kết sáng kiến này là ý tưởng và là sản phẩm của tôi, không sao
chép hoặc vi phạm bản quyền của bất kỳ SKKN nào, nếu sai tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước pháp luật./.
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Hoàng Văn Quyền
CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

(xác nhận, đánh giá, xếp loại)
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................

21


CÁC TÀI LIỆU KÈM THEO
1, Các quyết định thành lập Hội đồng
2, Chương trình Nghề phổ thông
3, Giáo trình Nghề phổ thông
4, Phân phối chương trình các nghề
5, Các hợp đồng đã thực hiện năm học 2014-2015 và các hợp đồng đang thực
hiện năm học 2015-2016.

22



×