Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) ở các trường tiểu học huyện Trực Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.95 KB, 24 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp chỉ đạo tổ chức dạy học theo mô hình
trường học mới Việt Nam (VNEN) ở các trường tiểu học huyện Trực Ninh
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giải pháp tác nghiệp
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ 01/9/2013 đến 30/5/2015.
4. Tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Hồng Sơn.
- Năm sinh 1/5/1975.
- Nơi ở thường trú: Số 116 Đường Hữu Nghị - thị trấn Cổ Lễ - huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định.
- Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Tiểu học.
- Chức vụ công tác: Chuyên viên.
- Nơi làm việc: Cơ quan Phòng Giáo dục và Đào tạo.
- Địa chỉ liên hệ: Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định.
- Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến 100%
5. Đồng tác giả: Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
- Trường tiểu học Trực Phương:
Địa chỉ: Xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
- Trường tiểu học Trực Cát :
Địa chỉ: TT Cát Thành, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
- Trường tiểu học Trực Nội:
Địa chỉ: Xã Trực Nội, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
- Trường tiểu học ATrực Đại :
Địa chỉ: xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
- Trường tiểu học Trực Thuận :
Địa chỉ: xã Trực Thuận, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
- Trường tiểu học Trực Cường :
Địa chỉ: xã Trực Cường, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
- Trường tiểu học BTrực Hùng :
Địa chỉ: xã Trực Hùng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.


1


BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp chỉ đạo tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới Việt
Nam (VNEN) ở các trường tiểu học huyện Trực Ninh
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định “Phát triển Giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền Giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”.
Cấp tiểu học là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Với mục tiêu : Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục
lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến
khích học tập suốt đời.
Trường tiểu học học là cái nôi đầu tiên cho mỗi học sinh bắt đầu cuộc sống học tập
và lao động. Trong nhà trường, học sinh được tiếp thu những tri thức khoa học, những
kĩ năng cần thiết để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp ban đầu của con
người mới. Môi trường, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, luôn có tác động
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Nhằm thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức lớp học đối với cấp tiểu
học đáp ứng yêu cầu đổi mới, nhận thức rõ mô hình VNEN là đổi mới các hoạt động sư
phạm, đó là đổi mới hệ thống tài liệu dạy học, phương pháp học, phương pháp giáo dục
học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nghiên cứu áp dụng mô hình VNEN vào Việt
Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai dạy học thí điểm mô hình VNEN từ năm học
2011-2012 (6 tỉnh, 24 trường tiểu học), triển khai thử nghiệm trên diện rộng từ năm học
2012-2013, tại 1.447 trường tiểu học trên 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Ngày
02/05/2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục có Công văn số 2764/BGDĐT-GDTH về

việc Hướng dẫn xây dựng kế hoạch triển khai mô hình VNEN năm học 2013-2014 (Cả
nước có 20 tỉnh/thành phố với 257 trường tiểu học áp dụng mô hình). Ngày 15/04/2014,
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục có Công văn số 1939/BGDĐT-GDTH hướng dẫn xây
dựng kế hoạch triển khai dạy học mô hình VNEN năm học 2014-2015.
Thực hiện sự chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định, Phòng Giáo dục
và Đào tạo Trực Ninh chỉ đạo cấp tiểu học triển khai chương trình thí điểm mô hình
VNEN từ lớp 2 đến lớp 4 tại 7 trường tiểu học, với 2277 học sinh (trong đó: Khối lớp 2 :
26 lớp, 785 học sinh; khối lớp 3 : 24 lớp, 787 học sinh; khối lớp 4 : 25 lớp, 705 học sinh).
Mô hình VNEN là kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại. Mô hình này dựa
trên kết quả và thành tựu đổi mới giáo dục của quốc tế; vận dụng cách làm của giáo dục
Colombia một cách sáng tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục
Việt Nam. Mô hình này đã được UNICEF, UNESCO, Ngân hàng Thế giới (WB) ủng hộ

2


và đánh giá cao. Mô hình VNEN tăng cường sự tương tác giữa giáo viên và học sinh,
tạo không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện; giáo viên phải tự trau dồi, nâng cao trình
độ; học sinh sẽ không học thụ động mà bắt buộc phải có sự trao đổi, tư duy với giáo
viên và các bạn cùng lớp, từ đó sẽ nâng cao hiệu quả tiếp nhận đối với học sinh.
Như vậy, sau một thời gian triển khai dạy học theo mô hình VNEN, là một chuyên
viên phụ trách chuyên môn cấp tiểu học, tôi nhận thấy : Mô hình VNEN tập trung đổi
mới hoạt động giáo dục và hoạt động sư phạm, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp
học và đánh giá học sinh tiểu học. Mô hình VNEN khắc phục được những hạn chế của
những mô hình dạy học hiện hành từ trước đến nay. Các nhà trường, giáo viên và cha
mẹ học sinh đánh giá Mô hình VNEN có nhiều ưu điểm và tính khả thi cao.... :
- Ưu điểm của mô hình trường tiểu học mới Việt Nam
+ Giáo viên có tinh thần học hỏi, trách nhiệm trong công việc; tích cực trong việc
trang trí lớp học, tạo môi trường thân thiện, giáo dục đối với học sinh.
+ Trên cơ sở tài liệu hướng dẫn học tập là tài liệu 3 trong 1 (dành cho học sinh,

giáo viên và CMHS) với những gợi ý về cách thức tổ chức các hoạt động dạy học trên
lớp nên giáo viên được định hướng tốt, giáo viên mới ra trường cũng có thể thực hiện
mô hình VNEN.
+ Giáo viên được sự trợ giúp từ cộng đồng, từ phụ huynh học sinh trong việc hỗ
trỗ trợ phương tiện dạy học, giúp học sinh hoàn thành nội dung bài học (phần ứng
dụng), và ngay cả trong việc đánh giá học sinh.
+ Học sinh được phát huy vai trò tự quản, vai trò quản lý lớp, quản lý nhóm,… nên
các em rất tự tin, mạnh dạn, kỹ năng giao tiếp được rèn luyện tốt.
+ Học sinh được học tập, làm việc với bạn trong nhóm, tham gia nhiều hoạt động
học tập phong phú nhằm tự tìm tòi kiến thức, tự rèn luyện kĩ năng (bạn bè, thầy cô giúp
đỡ khi cần thiết), được tham gia đánh giá quá trình học tập của bạn,… nên các em thích
thú với các hoạt động học tập; các em mạnh dạn, tự tin, năng động và tích cực hơn.
+ Nhiều công cụ hỗ trợ trong lớp học như: hộp thư bè bạn, điều em muốn nói, con
đường đến trường,… nên lớp học đẹp hơn, tình cảm bạn bè cũng được gắn bó hơn, môi
trường học tập thân thiện và gần gũi hơn, học sinh thêm yêu bạn bè, yêu trường lớp hơn.
Tuy nhiên, để mô hình thành công rất cần sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Sở,
Phòng Giáo dục và Đào tạo, sự đồng thuận ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần của phụ
huynh học sinh, sự nỗ lực quyết tâm của đội ngũ cán bộ giáo viên trong nhà trường và
đặc biệt là sự quan tâm của toàn xã hội. Có như thế, mô hình trường học mới Việt Nam
mới có thể thành công không chỉ ở giai đoạn thí điểm mà sẽ trở thành xu thế phát triển
tất yếu trong giai đoạn tiếp theo.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, là một chuyên viên phụ trách chuyên
môn cấp tiểu hoc, qua một thời gian chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tôi xin chia sẻ một số
biện pháp chỉ đạo tổ chức dạy học ở các trường tiểu học theo mô hình trường tiểu
học mới Việt Nam (VNEN).

3


II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT

1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Trước khi tạo ra sáng kiến, xuất phát từ thực tế trong những năm gần đây, tôi nhận
thấy thực trạng khi triển khai tổ chức dạy học VNEN tại các trường tiểu học trong huyện
trong điều kiện thuận lợi và khó khăn sau :
1.1. Thuận lợi
Giáo dục và Đào tạo được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện xác định
là một mũi nhọn quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Sự nghiệp Giáo dục và Đào
tạo được coi trọng, coi đây là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương đất nước.
Cấp tiểu học huyện Trực Ninh luôn được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo
Nhân dân và học sinh Trực Ninh có truyền thống tương thân tương ái, truyền thống
hiếu học, sẵn sàng đầu tư sức người sức của cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.
Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên nhiệt tình, trách nhiệm, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng (99,8% đạt chuẩn, trong đó 86,4% đạt trên chuẩn) tương đối đủ về
số lượng và loại hình giáo viên,...
Học sinh chăm ngoan, học tập tốt. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên
đặc biệt nổi bật là chất lượng học sinh năng khiếu.
Công tác xã hội hoá giáo dục phát triển mạnh mẽ, vững chắc, cơ sở vật chất phục vụ
cho giảng dạy, học tập, vui chơi ngày càng được nâng cao. Gia đình, xã hội, các tổ chức
đoàn thể nhân dân luôn quan tâm, chăm lo đến điều kiện học tập, vui chơi của học sinh.
Công tác xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia, trường Xanh-Sạch-Đẹp-An
toàn, đổi mới không gian lớp học phát triển tạo đà thuận lợi để duy trì giữ vững, nâng
cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi ,
phổ cập giáo dục xóa mù chữ, giáo dục trẻ khuyết tật học hoà nhập.
Công tác tuyên truyền, chuẩn bị các điều kiện để dạy học VNEN đã được quan
tâm, chỉ đạo, triển khai có hệ thống, cơ bản, thời gian dài,...
1.2. Khó khăn
Trực Ninh là một huyện có địa hình rộng, kéo dài, chủ yếu nhân dân trống lúa,
người dân đi làm ăn xa nhiều, nên gặp khó khăn trong việc phát triển số lượng.
Giáo dục và Đào tạo chưa đồng đều giữa các vùng miền, các xã, thị trấn.

Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các nhà trường một bộ phận vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, hiệu quả công tác thấp.
Tuy có nhiều cố gắng trong xây dựng cơ sở vật chất trường học song chưa đáp ứng
được yêu cầu cao của sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay. Hoạt động xanh hóa trường
lớp ở một số trường chưa đảm bảo yêu cầu.

4


Công tác rà soát, bảo quản, bổ sung, cải tiến cũng như làm mới đồ dùng, thiết bị
dạy học chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực một số nhân viên phụ trách thiết bị
trường học chưa đáp ứng yêu cầu, chủ yếu là kiêm nhiệm.
Một số trường chưa tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các ngành, các
cấp; chưa làm tốt công tác tham mưu, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục huy động các
nguồn lực đầu tư cho giáo dục.
Một số trường chưa thường xuyên cập nhật thông tin trên Website để thực hiện
công việc đúng tiến độ và yêu cầu của ngành, chưa phát huy hiệu quả công nghệ thông
tin, mạng internet trong việc chỉ đạo và quản lí trường học; chưa khai thác và sử dụng
triệt để tác dụng của các phần mềm trong giáo dục.
Số trường có đủ điều kiện triển khai dạy học VNEN chưa nhiều.
Triển khai dạy học VNEN tại các trường tiểu học còn mới, chưa có nhiều kinh
nghiệm trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
1.3. Thực trạng các trường tiểu học trong huyện trước khi triển khai dạy học VNEN
- Đối với các trường học
Mô hình các trường học chưa tập trung đổi mới hoạt động giáo dục và hoạt động
sư phạm, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp, hình thức dạy và học, và đánh giá học
sinh tiểu học theo định hướng đổi mới hiện nay...
+ Hoạt động dạy của giáo viên chưa sáng tạo, nặng về truyền thụ kiến thức...
+ Hoạt động học của học sinh chưa chủ động, thụ động 1 chiều, hoạt động nhóm
mang tính hình thức...

- Đối với cán bộ quản lý, giáo viên
+ Tinh thần học hỏi, trách nhiệm trong công việc của một số cán bộ quản lý, giáo
viên chưa tốt, chưa tích cực trong việc trang trí lớp học, tạo môi trường thân thiện, giáo
dục đối với học sinh, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp trong việc tổ chức
các hoạt động giáo dục, đánh giá học sinh,...
+ Giáo viên thiếu sự trợ giúp từ cộng đồng, từ phụ huynh học sinh trong việc hỗ
trỗ trợ phương tiện dạy học, giúp học sinh hoàn thành nội dung bài học (phần ứng
dụng), và ngay cả trong việc đánh giá học sinh....
+ Công tác chủ nhiệm: Giáo viên chưa chủ động được thời gian để giáo dục học
sinh (một số học sinh cá biệt…); Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ
môn như thế nào để nâng cao chất lượng học sinh.
+ Công tác bồi dưỡng tay nghề cho giáo viên: Giáo viên còn lúng túng trong việc
dạy theo mô hình VNEN; Giáo viên dần chỉ chú trọng đến môn chính như: Toán, Tiếng
việt còn các môn khác được xem như môn phụ thì ít quan tâm hơn; Giáo viên bộ môn
vắng, không giáo viên dạy thay.

5


+ Công tác nâng cao chất lượng dạy bộ môn : Giáo viên chưa đảm bảo nội dung
bài dạy trong một thời gian quy định (35-40 phút), nhất là những môn như Tập làm văn,
Tập đọc, Toán.
+ Công tác kiểm tra, chấm trả bài: Giáo viên chưa coi trọng công tác kiểm tra,
chấm trả bài.
+ Công tác phụ đạo học sinh yếu: Đối với giáo viên bộ môn thì số lượng học sinh
yếu cần phụ đạo sẽ nhiều hơn so với việc chủ nhiệm một lớp; Phụ huynh học sinh ít
quan tâm đến con em mình.
- Đối với học sinh
+ Học sinh chưa được phát huy vai trò tự quản, vai trò quản lý lớp, quản lý nhóm,
… nên các em thiếu tự tin, chưa mạnh dạn, kỹ năng giao tiếp kém...

+ Học sinh không được học tập, làm việc với bạn trong nhóm, tham gia nhiều hoạt
động học tập phong phú nhằm tự tìm tòi kiến thức, tự rèn luyện kĩ năng (bạn bè, thầy cô
giúp đỡ khi cần thiết), chưa được tham gia đánh giá quá trình học tập của bạn,… nên các
em không thích thú với các hoạt động học tập; các em chưa mạnh dạn, tự tin, năng động
và tích cực trong các hoạt động...
+ Học sinh chưa nắm được kiến thức ngay tại lớp theo yêu cầu đạt chuẩn kiến thức
và kỹ năng mà Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Học sinh phải về nhà làm thêm bài tập
hoặc phải học bài cũ; điều này làm tăng áp lực công việc học sinh.
+ Một khó khăn nữa mà bất cứ trường tiểu học nào cũng sẽ gặp phải khi triển khai
thực nghiệm mô hình VNEN, đó là học sinh từ lớp 1 lên lớp 2 khả năng điều hành của
nhóm trưởng chưa tốt, chưa quen với việc tự nghiên cứu, tự rút ra bài học nên phải mất
nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh ở những tháng đầu năm học mới.
- Điều kiện phục vụ các hoạt động giáo dục ở trường tiểu học
+ Thiếu công cụ hỗ trợ trong lớp học như: hộp thư bè bạn, điều em muốn nói, con
đường đến trường,… nên lớp học không hấp dẫn, thiếu sinh động, tình cảm bạn bè trong
lớp ít được gắn bó, môi trường học tập thiếu thân thiện và gần gũi, học sinh còn hạn chế
trong việc yêu trường lớp, bạn bè...
+ Còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất không thể “một sớm, một chiều” mà
khắc phục được ngay : diện tích lớp học nhỏ, sĩ số học sinh lại đông nên việc trang trí
góc học tập, góc cộng động... chưa được như mong muốn; đồng thời, 5-6 học sinh/nhóm
và 6 nhóm/lớp nên việc kiểm tra việc tự lập kế hoạch hoạt động nhóm của học sinh bị
hạn chế. Bên cạnh đó, bàn ghế chưa đúng quy định của lớp học theo mô hình VNEN, cụ
thể là ghế phải tách rời bàn.
+ Chưa làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục và phối hợp với các tổ chức xã hội,
các ban ngành đoàn thể, cha mẹ học sinh trong việc chuẩn bị các điều kiện, tổ chức các
hoạt động cho học sinh học tập,...

6



1.4. Qua khảo sát thực tế về hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh
năm học 2013-2014, 2014-2015, tôi nhận thấy kết quả chung như sau:
Giáo viên đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, tổ chức các hoạt động
giáo dục, xây dựng mô hình lớp học kiểu mới, phối kết hợp với Cha mẹ học sinh và các
tổ chức xã hội, đánh giá học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học
sinh còn hạn chế :
Thực hiện tốt 7/194 = 3,6%, khá 21/194 = 10,8%, trung bình 90 /194 = 46,4%,
chưa tốt 76/194 = 39,2%.
- Kết quả đánh giá hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh
Hình thành và phát triển

Hình thành và phát triển

một số phẩm chất

một số năng lực

Đạt

Chưa đạt

Đạt

Chưa đạt

Khối
lớp
Một

Số

học
sinh
769

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

749

97,4

20

2,6

654


85

115

15

Hai

783

757

96,7

26

3,32

670

85,6

113

14,4

Ba

782


754

96,4

28

3,58

669

85,5

113

14,5

Bốn

657

623

94,8

34

5,18

561


85,4

96

14,6

Năm

693

660

95,2

33

4,76

590

85,1

103

14,9

Cộng

3684


3543

96,2

141

3,83

3144

85,3

540

14,7

- Kết quả kiểm tra cuối năm các môn học đánh giá bằng điểm số cuối năm học
Khối
lớp

Số học
sinh

Một

Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6


Điểm < 5

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

769

65

8.45

156

20.29

445


57.87

103

13.39

Hai

783

68

8.68

161

20.56

463

59.13

91

11.62

Ba

782


65

8.31

159

20.33

470

60.10

88

11.25

Bốn

657

56

8.52

145

22.07

400


60.88

56

8.52

Năm

693

57

8.23

161

23.23

398

57.43

77

11.11

Cộng

3684


311

8.44

782

21.23

2176

59.07

415

11.26

- Kết quả đánh giá cuối năm học
+ Khối lớp 1 : Hoàn thành : 96%; chưa hoàn thành : 4%
+ Khối lớp 2 : Hoàn thành : 96%; chưa hoàn thành : 4%
+ Khối lớp 3 : Hoàn thành : 97%; chưa hoàn thành : 3%

7


+ Khối lớp 4 : Hoàn thành : 97%; chưa hoàn thành : 3%
+ Khối lớp 5 : Hoàn thành : 98%; chưa hoàn thành : 2%
1.5. Trước khi có sáng kiến, chưa có tác giả nào nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm
chỉ đạo, tổ chức dạy học VNEN tại các trường tiểu học huyện Trực Ninh
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến

2.1. Công tác chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo
Phòng Giáo dục và Đào tạo Trực Ninh đã thực hiện tốt tinh thần các văn bản chỉ
đạo của Bộ, Sở Giáo dục và Đào tạo và các chương trình tập huấn về tổ chức dạy học
theo mô hình VNEN, cụ thể:
- Tham mưu với UBND huyện, chỉ đạo, tuyên truyền để các ban ngành, đoàn thể,
các xã thị trấn, nhân dân hiểu rõ một trong những nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện
Giáo dục và Đào tạo là đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, cách đánh giá học
sinh. Đó chính là chủ trương triển khai dạy học VNEN ở các trường tiểu học trong huyện.
Từ đó các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, nhân dân cùng chăm lo cho giáo dục.
- Triển khai kịp thời những văn bản chỉ đạo của cấp trên về nội dung, phương pháp
tập huấn, tổ chức dạy học, đánh giá học sinh tnheo chuẩn kiến thức, kỹ năng mà Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành.
- Tổ chức tốt các lớp tập huấn cấp Miền, huyện, tham dự cấp tỉnh, cấp Quốc gia.
Đặc biệt tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên tham quan học tập những địa phương
trong và ngoài tỉnh đã và đang triển khai dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo duyệt kế hoạch tổ chức dạy học, phân công chuyên môn
với các đơn vị tham gia mô hình VNEN, đặc biệt giáo viên các lớp dạy học VNEN.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn riêng cụm trường đối với các trường triển khai
dạy học VNEN 02 lần /tháng. Tổ chức dự giờ thăm lớp và hội thảo thống nhất phương
pháp tổ chức lớp học, rút kinh nghiệm cho việc tổ chức dạy học/từng môn học. Lãnh
đạo và chuyên viên Phòng dự chỉ đạo trực tiếp
- Tổ chức hội thảo đối với các trường tham gia VNEN để nắm bắt được những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhằm chỉ đạo khắc phục kịp thời
những tồn tại vướng mắc cho các nhà trường và giáo viên.
- Tăng cường kiểm tra, uốn nắn, rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo, triển khai thực
hiện của các cơ sở giáo dục.
Để chuẩn bị tốt điều kiện triển khai dạy học VNEN, từ năm học 2011-2012; 20122013, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường tiểu học trong toàn huyện chuẩn
bị các điều kiện về đội ngũ, cơ sở vật chất thiết bị trường học, đặc biêt tập trung đổi mới
không gian lớp học theo mô hình VNEN, dần từng bước tiếp cận và triển khai dạy học
VNEN. Năm học 2013-2014, toàn cấp học tập trung học tập, nghiên cứu, triển khai, vận

dụng linh hoạt, thí điểm một số hoạt động, nội dung dạy học VNEN, như : xây dựng lớp
học kiểu mới, thành lập các Hội đồng tự quản, tổ chức hoạt động học tập, đưa các tiết

8


dạy ra ngoài không gian lớp học, phối hợp với các lực lượng xã hội để giáo dục học sinh
theo hướng phát triển năng lực,... Năm học 2014-2015, Phòng Giáo dục và Đào tạo triển
khai dạy học VNEN tại 7 trường tiểu học trong toàn huyện : trường tiểu học Trực
Phương, Trực Cát, Trực Nội, Trực Thuận, Trực Cường, A Trực Đại, B Trực Hùng, dự
kiến triển khai dạy học theo mô hình VNEN tại 28/28 trường tiểu học trong toàn huyện
năm học 2015-2016.
2.2. Nội dung tập huấn chương trình VNEN
2.2.1. Nội dung triển khai chương trình VNEN đối với các trường tiểu học
2.2.1.1. Mô hình dạy học VNEN
Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo viên sang
hoạt động của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy học truyền thống sang
phương pháp dạy học tích cực.
Với mô hình này thì lớp học được chia theo nhóm, gồm có : Chủ tịch hội đồng tự
quản, các Phó chủ tịch hội đồng tự quản và các ban phù hợp với nhu cầu từng lớp và
chính các em là người bầu ra dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm mục đích phục vụ
tốt cho công việc học tập.
Lớp học của các em được trang bị và trang trí rất cẩn thận như : góc học tập, góc
thư viện, góc cộng đồng, hộp thư bạn bè, bảng nội quy lớp …
Cấu trúc của bài học thiết kế theo mô hình VNEN bao gồm các bước:
- Mục tiêu bài học.
- Các hoạt động (trong các hoạt động thì gồm có 5 hoạt động sau: Hoạt động khởi
động; Hoạt động hình thành kiến thức mới; Hoạt động thực hành; Hoạt động ứng dụng;
Hoạt động bổ sung.
Một điểm khác biệt của mô hình VNEN so với mô hình hiện hành là việc tổ chức

kiểm tra, đánh giá:
- Kiểm tra, đánh giá theo quá trình học của học sinh thông qua các hoạt động học
do giáo viên tổ chức.
- Đánh giá năng lực, phẩm chất của học sinh.
- Học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau - đánh giá có sự tham gia của cha mẹ
học sinh và cộng đồng.
- Theo công văn 5737/BGDĐT-GDTH ngày 21/8/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
V/v Hướng dẫn thí điểm đánh giá học sinh tiểu học; Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày
28/8/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học.

2.2.1.2. Bốn thành tố quan trọng của mô hình VNEN

9


- Chương trình : Trên cơ sở chương trình quốc gia, điều chỉnh tài liệu dạy học,
hình thức tổ chức lớp học, phương pháp dạy học, đồ dùng dạy học và cách thức tiến
hành kiểm tra đánh giá theo hướng tăng cường tính chủ động của giáo viên, khuyến
khích học sinh tự học, tự đánh giá.
- Giáo viên: Chú trọng tính hiệu quả của công tác tập huấn, bồi dưỡng giáo viên,
cụ thể : Khuyến khích giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tích cực trau dồi nâng cao kiến
thức, không ngại khó khăn, chủ động sáng tạo làm đồ dùng dạy học ...; Xây dựng đội
ngũ giáo viên cốt cán; hình thành các trường kiểu mẫu (trường “hạt nhân”) để giáo viên
đến tham quan, học tập.
- Cộng đồng : Cha mẹ học sinh, địa phương và cộng đồng tích cực tham gia hỗ trợ
nhà trường, hướng dẫn học sinh ứng dụng kiến thức vào đời sống thực tế.
- Công tác quản lý : Tăng quyền chủ động cho giáo viên và nhà trường; phát huy
vai trò tích cực, sáng tạo của những nhà quản lí giáo dục, đặc biệt là cấp trường.
2.2.1.3. Nguyên tắc cơ bản của mô hình VNEN
- Lấy học sinh làm trung tâm (học sinh được học theo tốc độ của riêng mình; tự

quản và tự giác cao trong học tập).
- Nội dung học gắn bó chặt chẽ với cuộc sống hằng ngày của học sinh.
- Xếp lớp linh hoạt : Học sinh được lên lớp trên nếu đạt các mục tiêu giáo dục tối
thiểu, thời gian này có thể kéo dài hơn 1 năm học đối với một bộ phận học sinh chậm
phát triển.
- Phụ huynh và cộng đồng phối hợp chặt chẽ với giáo viên giúp đỡ học sinh một
cách thiết thực trong học tập; tham gia giám sát việc học tập của con em mình (không
chỉ họp phụ huynh và nghe lời nhận xét hay phê bình, nhắc nhở về con mình).
- Hướng dẫn các trường tài liệu hướng dẫn học tập (tài liệu tự học “ba trong một”)
- Tài liệu hướng dẫn học tập là một thành phần cơ bản của chương trình VNEN.
+ Đối với học sinh: Đây là tài liệu có tính tương tác cao, thuận tiện cho việc học
tập cá nhân cũng như học theo nhóm. Tài liệu bao gồm một chuỗi các hoạt động được
thiết kế nhằm giúp hoc sinh tự học, phù hợp với đặc điểm, trình độ của từng đối tượng
(học tập “cá thể hóa”).
Tài liệu hướng dẫn học sinh sử dụng các đồ dùng học tập ở góc học tập, sử dụng
sách, tài liệu tham khảo ở góc thư viện trong lớp học cũng như tìm tòi tham khảo tư liệu
ở môi trường xung quanh các em, ở gia đình và trong cộng đồng.
Như vậy các hoạt động học tập của học sinh không chỉ tiến hành ngay tại lớp học
mà còn thực hiện ở môi trường xung quanh trường học, trong cộng đồng. Do đó, nó góp
phần kích thích hứng thú, sự tìm tòi, khám phá tri thức ở học sinh.
+ Đối với giáo viên: Tài liệu là sự tích hợp nội dung và quá trình dạy học (bao
gồm cả phương pháp và hình thức tổ chức dạy học), khắc phục được tình trạng giảng
dạy theo lối truyền thụ kiến thức thường gặp. Tạo thuận lợi cho giáo viên trong quá trình

10


tổ chức hoạt động dạy học trên lớp, không mất nhiều thời gian soạn giáo án. Dựa vào tài
liệu, giáo viên có thể soạn bài bổ sung cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình, có
quyền điều chỉnh nội dung dạy học cho sát với đặc điểm cụ thể ở địa phương.

+ Với phụ huynh học sinh: Tài liệu có chú trọng đến các hoạt động học tập được
thực hiện ở nhà của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho cha mẹ học sinh và cộng đồng
tham gia vào quá trình học tập của các em thông qua việc giúp đỡ, hướng dẫn học sinh
học tập, bổ sung các kiến thức, kĩ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu học tập của trẻ.
Ở tiểu học, có các tài liệu hướng dẫn dạy học các môn Toán, Tiếng Việt, Khoa hoc
tự nhiên, Khoa hoc Xã hội từ lớp 1 đến lớp 5. Chương trình VNEN rất chú trọng đến rèn
luyện ngôn ngữ, chú trọng môn Tiếng Việt ngay từ lớp đầu cấp để học sinh dần đạt
được các kĩ năng cơ bản : nghe, nói, đọc hiểu, viết. Điều này hết sức hợp lí, vì học sinh
làm việc chủ yếu qua tài liệu hướng dẫn học tập, cần có kĩ năng vững vàng về đọc hiểu
tài liệu. Và, tài liệu hướng dẫn học tập trong trường học kiểu mới có thể ví như “người
thầy thứ hai” của lớp học.
2.2.1.4. Cấu trúc của tài liệu hướng dẫn học tập VNEN
Một bài trong tài liệu hướng dẫn học tập thường có các phần sau :
- Mở đầu của một bài học là tên bài, thông thường là một câu hỏi liên quan đến chủ
đề sẽ học.
- Các hoạt động cơ bản, bao gồm :
+ Hoạt động khởi động : nhằm kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh
về chủ đề sắp học. Hoạt động này rất đa dạng, có thể là một ví dụ, một bức tranh minh
họa, một câu hỏi, một câu chuyện, một tình huống,… thường bắt đầu với những kiến
thức học sinh đã biết hoặc bắt đầu từ kinh nghiệm của bản thân học sinh.
+ Hoạt động khám phá và trao đổi kiến thức, thông tin ở trong nhóm. Học sinh
chia sẻ kiến thức hoặc kinh nghiệm liên quan đến chủ đề trong câu hỏi đặt ra ở tài liệu
hướng dẫn học tập
+ Phần xây dựng, hình thành kiến thức: đây là bước trung tâm, bao gồm một loạt
hoạt động được thiết kế có xem xét đến tình hình thực tế, môi trường gần gũi, quen
thuộc với học sinh; các hoạt động này đơn giản, cụ thể và là một phần trong đời sống
hằng ngày. Đây là các hoạt động giúp học sinh xây dựng kiến thức mới và chiếm lĩnh
kiến thức thông qua quan sát, phân tích, thảo luận, tiếp xúc với các văn bản, qua trao đổi
với các học sinh khác và với giáo viên
+ Phần tăng cường, củng cố có thể được thực hiện thông qua câu chuyện hoặc trò

chơi. Một loạt hoạt động mở rộng cũng có thể được sử dụng trong phần này nhằm phục
vụ việc học ở các lớp lớn hơn và kích thích sự phát triển của trẻ.
- Các hoạt động thực hành: được thiết kế nhằm củng cố kết quả học tập thông qua
thực hành và hoạt động của học sinh. Các bài tập hỗ trợ có yêu cầu kết hợp giữa lí
thuyết và thực hành giúp giáo viên kiểm chứng xem học sinh có tiếp thu được kiến thức,

11


kĩ năng mới hay không. Sau phần thực hành, học sinh trình bày các hoạt động để Giáo
viên đánh giá, nhận xét.
- Các hoạt động áp dụng: nhằm xem xét học sinh có thể áp dụng kiến thức, kĩ năng
đã học vào các tình huống cụ thể hằng ngày được hay không, bao gồm các tình huống
trong gia đình và trong cộng đồng. Điều này đem lại ý nghĩa cho giáo dục, lợi ích cho
gia đình và cộng đồng. Các hoạt động áp dụng và mở rộng đã khuyến khích học sinh
tích luỹ kiến thức thông qua các nguồn khác nhau (thư viện, hàng xóm, gia đình và các
tổ chức khác,…) nhằm giải quyết các vấn đề, các tình huống khó khăn của chính bản
thân các em. Cách thức tốt nhất là tiếp cận với những hoạt động áp dụng và mở rộng (ví
dụ: các dự án đơn giản, khám phá môi trường, nghiên cứu quy mô nhỏ, phỏng vấn, đối
thoại...); học sinh trình bày các việc làm của mình, giáo viên ghi kết quả vào biểu đồ
theo dõi sự tiến bộ và hoàn thành xuất sắc công việc của học sinh.
2.2.1.5. Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
- Tại các trường lớp VNEN, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh. Rèn luyện, tăng cường khả năng suy nghĩ, phân tích, tổng
hợp, quan sát, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; thể hiện rõ ý thức tự học, độc lập trong
học tập; bộc lộ tính tự tin trong giao tiếp, ý thức tự quản và tự giác cao trong hoạt động
tập thể, trong sinh hoạt và học tập cho học sinh.
- Hình thức dạy học tại các lớp VNEN chủ yếu là dạy theo nhóm, theo cặp (hoặc
giáo viên làm việc trực tiếp với cá nhân). Giáo viên tập trung học sinh khi cần nhận xét,
đánh giá chung hoặc hướng dẫn hoạt động cho toàn lớp.

- Đầu giờ, mỗi học sinh được giáo viên giao nhiệm vụ và mục tiêu học tập cụ thể. Em
nào đã hoàn thành mục tiêu sẽ được giáo viên tiếp tục hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ học
tập tiếp theo. Học sinh có thể tự điều chỉnh thời gian học tập và hoạt động của chính mình.
- Hướng dẫn học sinh học tập theo nguyên tắc hợp tác triệt để. Học sinh trong từng
nhóm hoặc từng cặp cùng nhau hợp tác và hợp tác với giáo viên hướng dẫn để hoàn
thành mục tiêu, nhiệm vụ được giao. Đôi khi có những vấn đề do chính các em đưa ra
để các bạn cùng thảo luận và cùng giải quyết.
- Phát triển sự hợp tác giữa học sinh, tính thân thiện, đoàn kết, trách nhiệm công
dân của các học sinh cũng như xây dựng thái độ tham gia và tinh thần dân chủ. Chuyển
đổi trường học truyền thống, thúc đẩy sự tham gia hợp tác của học sinh, khuyến khích
lịch học linh hoạt, giúp cho việc dạy học phù hợp với nhịp độ tiếp thu của trẻ.
2.2.1.6. Đánh giá kết quả học tập của học sinh học VNEN
- Học sinh luôn được tự đánh giá, sau đó nhờ giáo viên đánh giá kết quả công việc
(hoạt động) của bản thân. Mỗi học sinh có bảng tự theo dõi sự tiến bộ của cá nhân. Giáo
viên đánh giá học sinh thường xuyên hằng ngày và cuối tháng có tổng kết những điểm
đạt được và chưa đạt được để tiếp tục giúp đỡ.
- Trên cơ sở các tiêu chí quy định, giáo viên có thể đặt ra các tiêu chí cụ thể hơn để
theo dõi, đánh giá học sinh.

12


- Để ghi nhận kết quả học tập và rèn luyện của học sinh, có thể còn có các bảng : Bảng
theo dõi sự tiến bộ của học sinh; Bảng tuyên dương thành tích từng mặt; Bảng tuyên dương
những học sinh tiêu biểu (từ 3 đến 4 tháng/lần, có dán hình học sinh lên bảng),...
2.2.1.7. Công tác bồi dưỡng giáo viên
Mỗi giáo viên đều có cơ hội làm việc nhóm để chia sẻ những sáng kiến và kinh
nghiệm ở các địa phương khác nhau qua nhiều hình thức, như:
- Giáo viên tự bồi dưỡng thông qua trải nghiệm trong các hoạt động giáo dục;
- Tổ chức khoá học từ 2 đến 3 tuần cho giáo viên, sau đó có những khoá bồi dưỡng

tiếp theo với hình thức bồi dưỡng theo nhóm giáo viên.
- Xây dựng trường điểm cấp huyện để giáo viên đến tham quan, học tập qua việc
quan sát thực tế, trao đổi kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tự học qua việc sử dụng tài
liệu hướng dẫn học tập hoặc trao đổi về các nội dung giáo dục liên quan đến địa
phương. Tổ chức thăm quan học tập các đơn vị trường trong tỉnh và ngoài tỉnh.
- Tổ chức những trung tâm bồi dưỡng nhỏ nhằm tạo thành mạng lưới bồi dưỡng
giáo viên 1 tháng/lần (thường do giáo viên từ các điểm trường tập trung về trường
chính, có giáo viên cốt cán chủ trì).
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên chủ yếu dựa vào tài liệu hướng dẫn học tập và do
các giáo viên tự biên soạn và bồi dưỡng cho nhau. VNEN cũng đã đưa ra những thẻ
hướng dẫn cho giáo viên, trên đó có những chỉ dẫn cụ thể để giáo viên có thể sử dụng
thẻ này dạy học sinh trong lớp ghép.
- Tổ chức hội thảo cấp miền, cụm miền để kịp thời chia sẻ giải quyết những khó
khăn vướng mắc cho giáo viên…
2.2.1.8. Các điều kiện tổ chức dạy học VNEN
Trường học kiểu mới rất quan tâm đến các điều kiện hỗ trợ tích cực cho hoạt động
dạy học hiệu quả :
- Thư viện
Mỗi lớp học của VNEN đều có một thư viện với nhiều tài liệu tham khảo cho học
sinh, từ điển, sách báo tham khảo dành cho chương trình địa phương, sách truyện dành
cho trẻ em,… Thư viện nhằm bổ sung cho tài liệu hướng dẫn học tập, góc học tập, góp
phần xây dựng phong cách học tập tích cực và tinh thần tự học của học sinh. Ban quản lí
lớp cử ra một tổ để quản lí thư viện, điều hành việc cho học sinh mượn sách, tài liệu. Tổ
chức nhiều hoạt động trong suốt năm học để thư viện của lớp trở thành một “trung tâm
văn hóa” của cộng đồng. Người dân có thể đến thư viện trường học để tham khảo tài
liệu, tự nguyện bổ sung cho thư viện các tài liệu, vật phẩm, đồ dùng mang bản sắc địa
phương,…Chính hoạt động này đã góp phần gắn kết cộng đồng với nhà trường trong
việc chăm lo giáo dục học sinh trở thành những người có ích cho xã hội.
- Góc học tập


13


Mỗi lớp học đều có các góc học tập, chủ yếu là góc học tập môn Toán, môn Tiếng
Việt, môn Khoa học tự nhiên, môn Xã hội. Góc học tập gồm các đồ dùng, vật liệu do
học sinh, cộng đồng tự làm hoặc sưu tập. Góc học tập môn Khoa học tự nhiên chứa một
số đồ vật xưa cũ, như : bàn là dùng than, mô hình Thái dương hệ do cha mẹ học sinh
làm,… Góc học tập môn Toán có các bàn tính, đồ dùng để dạy các phép tính số tự
nhiên; có mô hình cái cân,… Ở một số trường khác có thêm góc trưng bày các vật dụng
xưa cũ như một “bảo tàng mini”, chẳng hạn các dụng cụ làm ruộng, làm vườn của nông
dân,... Những đồ dùng, vật liệu ở góc học tập giúp học sinh thao tác, sử dụng theo
hướng dẫn của tài liệu học tập, giúp học sinh mở rộng kiến thức và có đánh giá đúng về
văn hóa của cộng đồng nơi các em đang sống.
- Hộp thư
Có nhiều loại hộp thư:
“Hộp thư chung” để học sinh nêu những kiến nghị, đề xuất, những thông tin phản
hồi để nhà trường, giáo viên biết, qua đó có hướng giúp đỡ học sinh trong sinh hoạt, học
tập, có những cải tiến để hoạt động nhà trường, lớp học nói chung và hoạt động dạy học
nói riêng ngày càng tốt hơn.
“Hộp thư cá nhân” để học sinh trao đổi thông tin, liên lạc với nhau, thắt chặt mối
quan hệ thân thiện để cùng vươn lên trong học tập và rèn luyện.
Hộp thư cũng là một hình thức nhằm xây dựng môi trường dân chủ trong trường
học, tăng cường sự chủ động của học sinh trong sinh hoạt, học tập. Qua đó thể hiện rõ
đặc trưng của trường học mới VNEN.
- Bản đồ cộng đồng
Mỗi trường có một bản đồ khá lớn, dễ quan sát, trên đó xác định vị trí từng gia
đình học sinh. Tác dụng của bản đồ này là tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường và
cộng đồng, tạo cho học sinh có ý thức gắn bó với nơi mình đang sống.
- Bàn ghế học tập
Tất cả các lớp học được tổ chức dạy học theo nhóm. Vì vậy, để thực hiện các hoạt

động dạy học được thuận lợi, bàn học của học sinh được thiết kế cho 6 học sinh ngồi
học. học sinh dễ dàng tách “bàn mẹ” thành các “bàn con” để làm việc, học tập cá nhân
hoặc nhóm nhỏ hơn. Đây là kiểu bàn thường thấy ở nhiều nước khác khi áp dụng hình
thức tổ chức dạy học theo nhóm.
- Bộ máy lớp học VNEN
Mỗi lớp học đều có ban quản lí lớp học. Chủ tịch, các Phó chủ tịch Hội đồng tự
quản của trường, của lớp,… do học sinh trong lớp bầu, thông qua một kì tranh cử và bỏ
phiếu tín nhiệm. Trong lớp còn tổ chức thành các tiểu ban như : tiểu ban Thông tin, tiểu
ban về Trật tự, tiểu ban về Văn hóa, Thể dục - thể thao,… Mỗi tiểu ban đều có kế hoạch
hoạt động phù hợp với công việc. Ban quản lí lớp là cầu nối giữa nhà trường với gia
đình và cộng đồng. Việc tổ chức Ban quản lí lớp nhằm xây dựng ý thức tự quản lớp học
cho học sinh, giúp học sinh giảm bớt vất vả về quản lí lớp, nhất là khi lớp có nhiều

14


nhóm với các trình độ khác nhau, hoặc quản lí học sinh bán trú, nội trú. Qua tổ chức ban
quản lí lớp, học sinh học được bài học đầu tiên về dân chủ, về trách nhiệm công dân,
tăng cường tính đoàn kết, tinh thần đồng đội, sự hợp tác,.... Trên cơ sở phát triển tính tự
giác, tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, giáo viên tổ chức cho học sinh tự đánh giá
bản thân, như: mỗi học sinh tự điểm danh hằng ngày, tự đánh giá kết quả bài làm của
mình (qua nhiều hình thức thích hợp, trong đó có Phiếu tự đánh giá kết quả học tập),
không quay cóp, gian lận trong kiểm tra,… Việc tự quản của học sinh cũng góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, xây dựng tư cách công dân cho các em.
2.2.3. Biện pháp thực hiện khi triển khai dạy học VNEN
2.2.3.1. Công tác tuyên truyền với các tổ chức xã hội, với phụ huynh học sinh
Để thực hiện thí điểm mô hình đạt hiệu quả, Nhà trường chủ động báo cáo với Đảng
uỷ, Chính quyền địa phương và tổ chức họp phụ huynh để giới thiệu, tuyên truyền, trao
đổi những nội dung liên quan đến chương trình, tài liệu hướng dẫn học tập, cách thức tổ
chức lớp học và các hoạt động học tập của học sinh các lớp học VNEN nhằm giúp nhân

dân, các bậc phụ huynh có nhận thức, hiểu biết đúng đắn về chương trình mà nhà trường
đang thực hiện để cùng chia sẻ, ủng hộ, phối kết hợp trong vấn đề thực hiện chương trình
(hỗ trợ về vật liệu trang trí góc địa phương, hỗ trợ con em thực hiện tốt các hoạt động ứng
dụng tại gia đình và tham gia cùng giáo viên trang trí lớp học,...).
2.2.3.2. Chỉ đạo tổ chức trang trí và sắp xếp lớp học theo các góc
Cách sắp xếp bàn ghế cũng được thay đổi, thay vì bàn ghế được sắp theo hàng
ngang như trước đây, các lớp học VNEN đã sắp xếp lại bàn ghế theo nhóm học sinh. Sự
thay đổi trong cách sắp xếp bàn ghế tạo ra sự thay đổi về vị trí chỗ ngồi, từ đó tạo ra sự
thay đổi về tâm thế học tập và quan hệ tương tác của học sinh.
Lớp học cơ bản được bố trí đảm bảo lớp/ phòng để chủ động trong việc dạy học cũng
như trang trí phù hợp với yêu cầu tổ chức lớp học VNEN do Bộ quy định. Đầu năm học
nhà trường trang trí đầy đủ các góc học tập như : 10 bước học tập, sơ đồ cộng đồng, nội quy
lớp học, sơ đồ hội đồng tự quản…. Trang bị các góc học tập theo phân môn như: Góc toán,
Góc Tiếng Việt, Góc TNXH ...và hướng dẫn các em phát huy hiệu quả các góc học tập.
Góc học tập để tài liệu như sách giáo khoa, phiếu bài tập, logo, đồ dùng học tập của từng
môn. Trước khi các em bước vào tiết học (thay vì giáo viên phát đồ dùng học tập như trước
đây) thì các nhóm trưởng đến các góc học tập để lấy đồ dùng cho nhóm hoạt động...Việc
trang trí lớp học tạo được môi trường giáo dục thân thiện, gần gũi với các em...
2.2.3.3. Công tác chỉ đạo các hoạt động dạy học
- Đầu năm học các nhà trường triển khai tổ chức tập huấn cấp trường vào đầu
tháng 8 hàng năm. Đối tượng tham gia tập huấn gồm ban giám hiệu và tất cả giáo viên
trong toàn trường. Nội dung tập huấn chủ yếu phương pháp giảng dạy các môn học theo
mô hình VNEN; cách trang trí không gian phòng học; tổ chức lớp học và đánh giá kết
quả học tập của học sinh theo mô hình VNEN…

15


- Sau tập huấn, nhà trường đã tổ chức cho giáo viên dạy thực nghiệm các môn học,
nhằm giúp giáo viên nắm vững cách thức tổ chức các hoạt động trong một tiết học VNEN.

- Trong một bài dạy VNEN giáo viên cần phải thực hiện và tuân thủ 5 bước dạy đối
với giáo viên và 10 bước học đối với học sinh. Để các nhóm trưởng có thể điều hành hoạt
động trong nhóm hiệu quả giáo viên cần phải dành thời gian tập huấn kĩ cho nhóm
trưởng. Nhóm trưởng thay vai trò của giáo viên điều hành tất cả các hoạt động của nhóm.
- Lựa chọn nhóm trưởng: Giáo viên thực hiện ngay từ đầu năm học, những học
sinh được lựa chọn làm nhóm trưởng thường do giáo viên chỉ định và giới thiệu, nhất là
đối với học sinh lớp 2. Đối với học sinh lớp 3, 4, 5 các em có thể tự bầu nhóm trưởng
trên cơ sở định hướng của giáo viên. Khi lựa chọn nhóm trưởng cần phải căn cứ vào
năng lực thực tế của mỗi học sinh. Tuy nhiên, các thành viên nên luân phiên nhau nắm
giữ vai trò nhóm trưởng, bởi vì thay đổi nhóm trưởng nghĩa là thay đổi phong cách quản
lý nhóm sẽ tạo nên hứng thú mới cho thành viên.
Bồi dưỡng nhóm trưởng : lựa chọn thời gian và địa điểm để tổ chức bồi dưỡng, tốt nhất
là trong 2 tuần đầu của tháng 8. Giáo viên dành một khoảng thời gian thoả đáng để đến từng
nhóm hướng dẫn các em thao tác điều khiển hoạt động. Cần lưu ý các em bám sát lô gô
hướng dẫn và 10 bước học tập của học sinh. Đối với mỗi bài học hay hoạt động, căn cứ vào
lô gô hướng dẫn mà nhóm trưởng phân công hoạt động cá nhân, cặp hay cả nhóm. Giáo viên
cũng cần lưu ý đặc trưng của mô hình VNEN là hoạt động nhóm nên cá nhân cũng trong
nhóm và cặp trong nhóm nên mọi hoạt động phải qua sự điều hành của nhóm trưởng.
- Luân phiên thay đổi nhóm trưởng : để tất cả học sinh đều có khả năng điều hành
nhóm. Để nhóm trưởng phát huy vai trò, hiệu quả, giáo viên phải có kế hoạch bồi dưỡng
nhóm trưởng thường xuyên, liên tục và giúp đỡ các em còn lúng túng. Những tháng đầu
năm học, hướng cho các em lựa chọn những học sinh khá giỏi, sau chuyển dần vai trò
nhóm trưởng sang những học sinh trung bình, đến cuối năm học, có thể khuyến khích
một vài em học sinh yếu làm nhóm trưởng. Có như vậy mới kích thích sự ganh đua, tạo
môi trường học tập công bằng, rèn luyện kỹ năng lãnh đạo cho tất cả các thành viên
trong nhóm, trong lớp.
- Công tác bồi dưỡng đội ngũ: Bồi dưỡng đội ngũ trong tổ khối là yếu tố quyết
định. Do đó, ban giám hiệu trực tiếp tham gia sinh hoạt chuyên môn với tổ để chỉ đạo
thực hiện công tác dạy học theo mô hình mới; thường xuyên dự giờ, khảo sát chất
lượng, tư vấn về trang trí lớp học ở các lớp VNEN để kịp thời rút kinh nghiệm, điều

chỉnh phương pháp dạy học của giáo viên cho phù hợp, đạt kết quả. Chỉ đạo giáo viên
tích cực, chủ động tự học, tự bồi dưỡng, tự làm đồ dùng dạy học, chia sẻ và học hỏi kinh
nghiệm đồng nghiệp qua các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn, tổ chức cho giáo viên cốt
cán và cán bộ quản lý đi học kinh nghiệm tại các huyện bạn.
- Định hướng việc thực hiện phân phối chương trình của một số môn học: Ban
giám hiệu cùng với giáo viên nghiên cứu thống nhất thực hiện, bám sát mục tiêu để
phân bố nội dung từng hoạt động cho phù hợp, đảm bảo tiến độ thực hiện các hoạt động

16


giáo dục: ví dụ môn Đạo đức nhà trường chủ động chọn nội dung bài phù hợp với chủ
điểm, tổ chức đánh giá giáo viên dựa trên cách đánh giá hiện hành…
- Tổ chức các hoạt động dạy học và đánh giá quá trình học tập của học sinh :
+ Cách thức tổ chức các hoạt động dạy học và đánh giá quá trình học tập của học
sinh được thực hiện theo thông tư 30 về Ban hành Quy định đánh giá học sinh tiểu học
ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ GD&ĐT
+ Tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức thông qua quá trình học sinh tự tìm tòi,
khám phá và chiếm lĩnh kiến các thức, kĩ năng mới. Vì vậy dạy học theo VNEN chuyển
trọng tâm đánh giá sang đánh giá quá trình học của học sinh. Do vậy, Nhà trường tổ
chức cho cán bộ, giáo viên tập huấn lý thuyết gắn với thực hành các môn học để nắm
bắt cách thức đánh giá bằng nhận xét sao cho sát : VD : Bài làm tương đương với điểm
giỏi (nhận xét: Bài làm tốt cần phát huy; bài làm tương đương với điểm khá thì nhận
xét: bài làm khá tốt cần lưu ý cách trình bày, bài làm trung bình: nhận xét: bài làm còn
sai nhiều, cần cố gắng hơn…
2.2.4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học theo mô hình VNEN
2.2.4. 1. Đối với ban giám hiệu các trường tiểu hoc
Ban giám hiệu phải nhận thức đầy đủ về mô hình VNEN, quan tâm, chỉ đạo sát sao
chuyên môn khối dạy học mô hình VNEN; Tăng cường dự giờ, tư vấn, rút kinh nghiệm;
Tổ chức các chuyên đề chuyên môn trong khối dạy VNEN rút kinh nghiệm; Lên thời

khóa biểu phù hợp, đảm bảo tính sư phạm; Khuyến khích giáo viên linh hoạt, sáng tạo
trong dạy học.
Cụ thể : Ban giám hiệu thường xuyên kiểm tra giáo viên về: Sổ nhật kí giảng dạy
và nhật ký đánh giá học để tư vấn điều chỉnh kịp thời. Chỉ đạo cho giáo viên Tổng phụ
trách Đội tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các trò chơi trong sinh hoạt tập thể, các
trò chơi trong học thể dục, các trò chơi dân gian, ... để giáo viên có các trò chơi phong phú
tổ chức trong khởi động ở đầu các tiết học. Mỗi giáo viên phải viết nhật kí giảng dạy những
vấn đề bất cập về sách, những khó khăn của học sinh, những giải pháp thực hiện đạt hiệu
quả, nhật ký đánh giá học sinh. Mỗi lớp đều phải thành lập “Nhóm bạn học ở nhà và gọi
nhau đi học ở trường” để cùng làm bài tập ứng dụng và rủ nhau đi học để duy trì tỷ lệ
chuyên cần “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”....
2.2.4. 2. Đối với Tổ chuyên môn
- Chủ động lên kế hoạch sinh hoạt chuyên môn trong tổ, nội dung sinh hoạt phải đi
vào chiều sâu và chất lượng (nêu lên được những tồn tại, những khó khăn bất cập,
những vướng mắc gặp phải trong quá trình dạy học. Tổ chức thảo luận và thống nhất
trong tổ những điều chỉnh, những giải pháp khắc phục tồn tại trong thời gian tiếp theo).
- Tăng cường dự giờ, tư vấn, rút kinh nghiệm cho giáo viên trong tổ. Tổ chức vào
ngày thứ sáu hàng tuần từ 1 đến 2 tiết dạy để giáo viên trong khối trao đổi chuyên môn
với nhau (về phương pháp, cách thức tổ chức lớp, cách điều hành của nhóm trưởng, học
sinh có thực sự tự học không ? có tự giác, tích cực không ?, có thực hiện đúng các bước

17


lên lớp không ?, các nhóm có hoạt động đều tay, sôi nổi không ?, nhóm trưởng điều
hành nhóm có tốt không ?, các hoạt động học diễn ra có đúng trình tự và lôgic không ?,
học sinh hoàn thành các hoạt động nêu trong sách không ?, học sinh có hiểu bài, nắm
được bài, hoàn thành mục tiêu bài học không ?, sự giúp đỡ của nhóm, của giáo viên với
học sinh yếu như thế nào?, câu lệnh cùng những ngữ liệu đã rõ ràng và dễ hiểu đối với
học sinh không ?, thời gian dành cho mỗi hoạt động của bài hợp lí chưa? Nếu chưa hợp

lí thì điều chỉnh như thế nào?.
Phiếu đánh giá giờ dạy theo mô hình VNEN, cần quan tâm đến Hoạt động của giáo
viên (biêt kết hợp 5 bước dạy học của giáo viên và 10 bước học tập của học sinh, bao
quát lớp, động viên, khích lệ học sinh kịp thời,...).; hoạt động học của học sinh (hợp tác
tốt, tự giác, độc lập, tích cực học tập, mạnh dạn, tự tin trao đổi, báo cáo kết quả,...), và
hiệu quả học tập của học sinh (nắm chắc kiến thức, vận dụng linh hoạt vào thực tế, biết
chia sẻ với mọi người,....).
- Ngoài ra còn tổ chức các chuyên đề ở các môn học hoạt động giáo dục mà giáo
viên còn lúng túng (Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Đạo đức, Thủ công (Kỹ thuật) rút
kinh nghiệm trong tổ để có phương pháp giảng dạy tốt.
- Thường xuyên kiểm tra giáo viên: Sổ nhật kí giảng dạy và nhật ký đánh giá học
để tư vấn điều chỉnh kịp thời. Đồng thời đề xuất với nhà trường những khó khăn bất cập
và xin ý kiến chỉ đạo để triển khai điều chỉnh nhằm giúp giáo viên trong tổ thực hiện tốt
hơn sổ nhật kí dạy học.
2.2.4. 3. Đối với giáo viên
+ Mô hình trang trí lớp học do nhà trường tự nghiên cứu và thiết kế; giáo viên phải
làm nhiều đồ dùng dạy học theo chủ đề tháng, in phiếu bài, bảng theo dõi tiến độ của
học sinh hàng ngày...
- Nghiên cứu kĩ bài dạy (mục đích cần đạt, câu lệnh, lôgô...) để trao đổi với các
giáo viên trong khối điều chỉnh cho phù hợp cả về nội dung kiến thức lẫn tổ chức các
hoạt động; nắm chắc 5 bước giảng dạy và 10 bước học tập để tổ chức dạy học trên lớp
đạt hiệu quả.
- Viết vào nhật kí giảng dạy và nhật ký đánh giá học, cập nhật những khó khăn của
học sinh, những giải pháp thực hiện đạt hiệu quả trong quá trình giảng dạy.
- Hướng dẫn học sinh lựa chọn và bình bầu những bạn mạnh dạn, nhanh nhẹn, học
lực khá giỏi vào ban tự quản và nhóm trưởng để tập huấn cho nhóm trưởng và ban tự
quản kĩ năng điều hành nhóm học tập cũng như tổ chức vui chơi.
- Mỗi lớp đều phải thành lập “Nhóm bạn học ở nhà và gọi nhau đi học ở trường”
để cùng làm bài tập ứng dụng và rủ nhau đi học để duy trì tỷ lệ chuyên cần.
- Tăng cường kiểm tra bài tập ứng dụng. Tăng cường (phần đọc và viết) vào đầu

buổi học.
- Phân nhóm nhiều đối tượng để học sinh hỗ trợ nhau học tập.

18


- Giáo viên quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn đối với những học sinh yếu (phải nhẹ
nhàng, tôn trọng, gần gũi, giải thích từ từ, lôgic các kiến thức có liên quan để học sinh
hiểu ra vấn đề; không nổi nóng, quat tháo học sinh. Thường xuyên động viên, khuyến
khích khi các em có tiến bộ.
- Trong dạy học phải bao quát lớp, qui định các kí hiệu để học sinh thực hiện theo
lệnh và kiểm tra giám sát, giúp đỡ các nhóm kịp thời. Nhất thiết phải tổ chức bước khởi
động để tạo hứng thú cho học sinh bước vào tiết học.
- Đối với học sinh yếu, trước khi tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích khám
phá rút ra kiến thức mới, giáo viên cần linh hoạt kết hợp tính kế thừa của phương pháp
dạy học truyền thống để giao nhiệm vụ đồng loạt, rõ ràng cho các nhóm thực hiện (có
thể gợi ý cho học sinh thực hiện). Việc làm này chỉ thực hiện ở thời gian đầu khi học
sinh chưa quen tự lập trong học tập. Đối với những bài có kênh hình và kênh chữ không
phù hợp hoặc quá trừu tượng với học sinh, giáo viên mạnh dạn điều chỉnh và giảng giải,
phân tích để học sinh hiểu.
- Tăng cường dạy tiếng việt (nói, đọc, viết) ở tất cả các môn học. Phân loại đối
tượng học sinh để giao việc phù hợp và bồi dưỡng, phụ đạo học sinh
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
1. Hiệu quả kinh tế (giá trị làm lợi tính thành tiền-nếu có)
Sáng kiến tuy không trực tiếp tạo ra giá trị kinh tế (bằng tiền), song sáng kiến đã
gián tiếp tạo ra giá trị kinh tế tương đối lớn.
2. Hiệu quả về mặt xã hội (Giá trị làm lợi không tình thành tiền)
2.1. Giá trị làm lợi cho môi trường
Sáng kiến đã thực sự làm phong phú thêm môi trường kiến thức cho người dạy và
người học, giúp giáo viên và học sinh nâng cao hiệu quả mỗi giờ dạy và giờ học.

- Thay đổi cách dạy, cách học theo mô hình VNEN.
- Tạo hứng thú cho giáo viên và học sinh trong dạy và học; giờ học trở nên sinh
động; phát huy tính tự chủ của học sinh; tăng cường kỹ năng sống... cho nên mô hình
ngày càng được nhân rộng.
- Chất lượng dạy và học tiểu học ngày càng được nâng lên, nhất là các kỹ năng
sáng tạo, ứng dụng thực tiễn...
- Đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa.
- Kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi
mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp
dạy và học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lý lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy
và học... góp phần đổi mới các hoạt động sư phạm, nhất là cách thức tổ chức lớp học
giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập, giáo dục; hiểu rõ quyền
và trách nhiệm trong môi trường giáo dục và được rèn các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng
tham gia, hợp tác trong các hoạt động.

19


- Thay đổi về cách thức tổ chức lớp học, Phương pháp dạy học
- Phát huy tích cực nguồn kinh phí, trang thiết bị đồ dùng dạy học, triển khai đầu
tư cho công tác tập huấn, sinh hoạt chuyên môn, trang trí lớp học, tu sửa cơ sở vật chất,
hỗ trợ ăn trưa cho các học sinh điểm làng…”
- Giáo viên hạn chế việc giảng giải thuyết trình nhiều trước lớp mà dành nhiều
thời gian để tập trung vào việc quan sát, hướng dẫn, hỗ trợ quá trình học tập cho các em.
- Học sinh, các em cũng đã thay đổi được thói quen học tập, làm quen với cách học
theo nhóm. Các em được rèn luyện một cách toàn diện không chỉ về kiến thức mà còn về
các kỹ năng như là: kỹ năng sống, giao tiếp, hợp tác và các em tự tin trước tập thể, phát huy
tối đa tính tích cực và tự giác, chủ động và các em có hứng thú hơn trong việc học tập.
- Mô hình dạy học VNEN đã mang lại hiệu quả cao trong công tác giảng dạy của
giáo viên và công tác học tập của học sinh.

Làm tốt công tác nâng cao nhận thức cho giáo viên, phụ huynh học sinh và cộng
đồng thông qua việc tổ chức các cuộc họp với cha mẹ học sinh để giới thiệu, quán triệt
việc thực hiện mô hình; đã huy động cha mẹ học sinh phối hợp tham gia làm sơ đồ cộng
đồng, tham gia đóng góp vận dụng bước đầu cho góc địa phương, phối hợp với giáo
viên ở phần Ứng dụng vv...bên cạnh đó một số thầy cô giáo đã chủ động mời cha mẹ
học sinh đến thăm lớp, dự giờ và tham gia một số hoạt động do Hội đồng tự quản tổ
chức như: Ngày hội đọc sách, ngày Tết cổ truyền, ngày hội trăng rằm,...bởi vậy, đa số
phụ huynh học sinh đều có chung nhận định: Mô hình dạy học VNEN mang lại nhiều
kết quả đáng phấn khởi, phụ huynh vui mừng vì được tham gia vào các hoạt động
hướng dẫn, đánhgiá con em ngay tại gia đình, tới tận nhà trường, nhiều bậc cha mẹ tự
hòa về sự tiến bộ, mạnh dạn, tự tin của chính con em mình bởi các kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau được phát huy tối đa, các em tự
tin, phấn khởi khi tới trường, tới lớp để tham gia học tập, trải nghiệm cùng thầy cô và
bạn bè.
Đánh giá học sinh trong dạy học theo VNEN chuyển trọng tâm sang đánh giá quá
trình học của học sinh.
- Với mô hình VNEN, học sinh được tự học. Giáo viên chỉ đứng ra tổ chức, hướng
dẫn học sinh chủ động tự học tập.
- Học sinh phát huy được “5 tự”: tự học, tự sáng tạo, tự tin, tự giác, tự chủ. Đảm
bảo mục tiêu: chuyển Giáo dục sang tự Giáo dục; Việc dạy của Giáo viên sang thành
việc học của học sinh; Dạy học theo lớp chuyển thành học theo nhóm và học theo thầy
thành học theo sách. Học sinh phát huy tốt kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác,
kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Hội đồng tự quản do các em tự bầu có chức
năng nhiệm vụ của từng vị trí, bước đầu các em đã dần quen với công việc tự điều hành.
Với “Hoạt động ứng dụng” phụ huynh học sinh được tham gia trong việc học tập, giúp
đỡ con cái tăng sự hiểu biết và vốn sống thực tế rất nhiều.

20



- Thực hiện chương trình VNEN mở ra cơ hội để sự phối hợp nhà trường với các
đoàn thể, giữa giáo viên với phụ huynh và cộng đồng xã hội chặt chẽ hơn. Phụ huynh trực
tiếp tham gia giáo dục con em mình, trực tiếp tham gia đánh con em mình thông qua việc
thực hành kỹ năng của con em. Nhà trường thường xuyên liên lạc và phối hợp với phụ
huynh và các tổ chức xã hội, vấn đề xã hội hóa giáo dục giáo dục tiến hành rất tốt.
- Học sinh khá, giỏi tăng mạnh so với học sinh các lớp đại trà; và điều đáng nói là
học sinh sớm được hình thành các năng lực, kỹ năng cần thiết khác trong xã hội mới:
các em tự nhiên, tự tin hơn trong giao tiếp; các năng lực khác như tự tìm tòi, sáng tạo
cũng được khơi gợi; dư luận và phụ huynh đồng tình, ủng hộ và mong muốn tham gia
vào công việc chung của nhà trường, của lớp để thể hiện trách nhiệm.
- Công tác xã hội hóa quá trình giáo dục không cần hô hào mà đã trở thành nhu cầu
tự thân, tạo ra không khí lao động sáng tạo ở mỗi nhà trường, mỗi giáo viên chúng tôi,
điều mà trước đây không thể có được.
2.2. Giá trị làm lợi cho an toàn lao động
Mỗi giờ học diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái, học sinh hào hứng học tập.
- Mô hình VNEN đã thay đổi hoàn toàn cách dạy và học của giáo viên và học sinh.
Học sinh tự tin, có nhiều kỹ năng cuộc sống tốt, phát huy được tính tích cực, chủ động thật
sự trong học sinh. Thay đổi hẳn tư duy dạy học một chiều của giáo viên, với vai trò tổ chức,
hướng dẫn và trợ giúp đúng lúc đã giúp học sinh phát huy được khả năng của bản thân, hợp
tác nhóm và VNEN đã đưa gia đình cộng đồng tham gia có trách nhiệm vào hoạt động giáo
dục nhà trường. Với ưu thế như trên cần được đút rút kinh nghiệm và nhân rộng trong
trường học. Việc đầu tư cho các đơn vị triển khai chưa được quan tâm đúng mức gây tâm lý
đã khổ còn thiệt trong cán bộ quản lý và giáo viên.
2.3. Giá trị làm lợi khác
Với sự đầu tư công sức của giáo viên, và người thầy có được cách nhìn và phương
pháp đúng đắn về chuyên đề mới này. Cùng với sự ham học hỏi tìm tòi của học sinh, tôi
nhận thấy kết quả học tập của các em tiến bộ rõ rệt qua từng giai đoạn. Kết quả rèn
luyện, học tập, hình thành phẩm chất, năng lực đạt kết quả tốt; các em đã hình thành
được thói quen và niềm say mê, ý thức tự giác học tập.
Qua khảo sát thực tế về chất lượng (qua kết quả những bài kiểm tra, bài khảo sát,

giao lưu các cấp) cuối năm học tôi nhận thấy kết quả như sau:
- Giáo viên đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, tổ chức các hoạt
động giáo dục, xây dựng mô hình lớp học kiểu mới, phối kết hợp với Cha mẹ học sinh
và các tổ chức xã hội, đánh giá học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất và năng
lực học sinh còn hạn chế : Thực hiện tốt 69/194 = 35,6%, khá 78/194 = 40,2%, trung
bình 4 1/194 = 21,1%, chưa tốt 6/194 = 3,1%.
- Kết quả đánh giá hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh

21


Khối
lớp

Số học
sinh

Hình thành và phát triển

Hình thành và phát triển

một số phẩm chất

một số năng lực

Đạt

Chưa đạt

Đạt


Chưa đạt

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

Một

769

767

99.7

2

0.3


764

99.3

5

0.7

Hai

783

780

99.6

3

0.4

777

99.2

6

0.8

Ba


782

778

99.5

4

0.5

776

99.2

6

0.8

Bốn

657

651

99.1

6

0.9


650

98.9

7

1.1

Năm

693

686

99.0

7

1.0

685

98.8

8

1.2

Cộng


3684

3662

99.4

22

0.6

3652

99.1

32

0.9

- Kết quả kiểm tra cuối năm các môn học đánh giá bằng điểm số cuối năm học
Khối
lớp

Số học
sinh

Một

Điểm 9-10


Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm < 5

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

769

178

23.15

364


47.33

216

28.09

11

1.43

Hai

783

177

22.61

360

45.98

236

30.14

10

1.28


Ba

782

187

23.91

359

45.91

223

28.52

13

1.66

Bốn

657

146

22.22

298


45.36

201

30.59

12

1.83

Năm

693

176

25.40

299

43.15

208

30.01

10

1.44


Cộng

3684

864

23.45

1680

45.60

1084

29.42

56

1.52

- Kết quả đánh giá cuối năm
+ Khối lớp 1 : Hoàn thành : 99,5%; chưa hoàn thành : 0,05%
+ Khối lớp 2 : Hoàn thành : 99%; chưa hoàn thành : 0,1%
+ Khối lớp 3 : Hoàn thành : 99%; chưa hoàn thành : 0,1%
+ Khối lớp 4 : Hoàn thành : 99%; chưa hoàn thành : 0,1%
+ Khối lớp 5 : Hoàn thành : 99,5%; chưa hoàn thành : 0,05%
2.4. Bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai mô hình VNEN
Qua một thời gian chỉ đạo triển khai thưc hiện mô hình trường học mới cho 7
trường tiểu học trên địa bàn huyện, là một chuyên viên trực tiếp phụ trách, tôi rút ra một
số kinh nghiệm sau:

- Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhằm tạo ra sự đồng thuận, thống nhất
và phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường khi tham gia các hoạt động
giáo dục, trong đó sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội giữ vai trò nòng cốt.

22


Tạo được sự tin tưởng và hứng thú cho phụ huynh học sinh để họ cùng chia sẻ, ủng hộ
và hợp tác trong quá trình triển khai mô hình.
- Thường xuyên tổ chức, triển khai các lớp tập huấn. Tổ chức tập huấn cụ thể, đầy
đủ cho cán bộ quản lý, giáo viên về mô hình VNEN. Mỗi cán bộ quản lý, giáo viên phải
nắm vững cơ cấu của tài liệu học tập, hình thức tổ chức dạy học, cách đánh giá học sinh
để từ đó vận dụng trong thực tế ở lớp mới đạt hiệu quả. Giáo viên phải tự nghiên cứu,
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt là bồi dưỡng kĩ năng dạy
học theo nhóm.
- Cần sự đổi mới đồng bộ trong cách đánh giá học sinh, quản lý và đánh giá giáo
viên. Ban giám hiệu cần tăng cường dự giờ để xây dựng góp ý cho giáo viên. Tổ chức
thao giảng, hội giảng cấp trường, cụm trường theo mô hình VNEN làm nền móng cho
các lớp học sau.
- Phải coi việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn hàng tháng ở trường là nhiệm vụ quan
trọng, cần thay đổi bổ sung việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn thường xuyên, đây là cách
bổ sung cho giáo viên về trình độ, kỹ năng dạy theo mô hình mới.
- Làm tốt công tác quản lý, thực hiện việc quản lí theo kế hoạch và bằng kế hoạch, cần
tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, tư vấn việc triển khai thực hiện Dự án tại
cơ sở. Đổi mới nội dung và phương pháp kiểm tra, đánh giá. Thực hiện dạy, dự giờ theo
đúng quy định. Thực hiện công tác kiểm tra nội bộ đảm bảo kế hoạch, kết quả đánh giá, xếp
loại giáo viên thực chất hơn so với những năm học trước
- Cần thiết phải tăng cường dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 1, học sinh đọc thông,
viết thạo thì sẽ tự học theo mô hình VNEN có hiệu quả. Cả giáo viên và học sinh phải
thật sự nỗ lực thay đổi thích hợp cách dạy và cách học để chất lượng dạy và học ngày

càng hiệu quả hơn.
- Các nhà trường phải làm tốt công tác huy động cộng đồng tham gia xây dựng các
góc học tập, các công cụ hỗ trợ học tập, chỉnh trang cơ sở vật chất lớp học. Làm tốt công
tác tham mưu với cấp Ủy đảng, chính quyền địa phương, với ngành giáo dục để tranh thủ
sự lãnh đạo chỉ đạo các cấp một cách sát sao, cụ thể nhất.
- Coi trọng bồi dưỡng, tập huấn cán bộ, giáo viên về Mô hình VNEN; kiểm tra đôn
đốc, tư vấn cho cán bộ quản lí, giáo viên, cha mẹ học sinh về Mô hình VNEN. Luôn định
hướng phát triển nhân rộng mô hình VNEN cho các trường còn lại để cùng thu hút được sự
quan tâm vào cuộc của cộng đồng, chính quyền địa phương và đánh thức sự năng động, sự
thay đổi của Ban giám hiệu các trường tiểu học.
- Thường xuyên sâu sát tới các trường tham gia Dự án và nhân rộng mô hình để
phát hiện, nhân rộng những cá nhân, những trường triển khai thí điểm hoặc nhân rộng
Mô hình VNEN có chất lượng, hiệu quả.
- Tham mưu kịp thời, cụ thể với UBND các cấp, với các Sở ngành liên quan, các tổ
chức xã hội,... để có nguồn kinh phí đối ứng kịp thời hỗ trợ cho công tác quản lý cấp tỉnh.
IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền

23


Tôi cam kết không vi phạm bản quyền về sáng kiến (lấy trên mạng, sao chép của
người khác,...).
Trực Ninh, ngày 25 tháng 05 năm 2015

PHÒNG GD&ĐT TRỰC NINH

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

( xác nhận, đánh giá, xếp loại)
...............................................................................................

............................................................................................. .
............................................................................................. .
............................................................................................. .
............................................................................................. .
............................................................................................. .

NguyÔn Hång S¬n

.............................................................................................

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH

( xác nhận, đánh giá, xếp loại)
...................................................................................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................................................................

24



×