Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Tìm hiểu biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh của học sinh khối lớp 10 trường trung học phổ thông Trần Văn Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.4 KB, 44 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học
MỤC LỤC

Lý Thị Thanh Trúc

Phần I : Những vấn đề chung
I.
Lí do chọn đề tài
II.
ĐốI tượng và phạm vi nghiên cứu
III.
Mục tiêu nghiên cứu
IV.
Nhiệm vụ nghiên cứu
V.
Phương pháp nghiên cứu
VI.
Giả thiết khoa học
VII. Cơ sở và thờI gian nghiên cứu
Phần II : Kết quả nghiên cứu
Chương I :Cơ sở lí luận về biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh cho học sinh
I.
Khái niệm
II.
Vai trò của môn tiếng Anh trong chương trình đào tạo
III.
Bản chất quá trình dạy và học môn tiếng Anh
IV.
Vai trò của hứng thú đốI vớI việc học môn tiếng Anh
V.
Các biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh khi giảng dạy môn


tiếng Anh
Chương II : Thực trạng hứng thú học tập môn tiếng Anh khốI 10 trường trung học phổ
thông Trần Văn Thành
I.
Vài nét về tình hình của trường THPT Trần Văn Thành
1.Vài nét về tình hình kinh tế xã hộI địa phương
2. Tình hình trường THPT Trần Văn Thành
II.
Thực trạng về biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh của giáo
viên trường THPT Trần Văn Thành
III.
Mức độ hứng thú học tạâp môn tiếng Anh của học sinh khốI 10 trường
tHPT Trần Văn Thành
IV.
Kết quả học tập môn tiếng Anh của học sinh khốI 10 trường THPT Trần
Văn Thành
V.
Đánh giá chung
Phần III : Kết luận và đề xuất ý kiến về cảI tiến biện pháp gây hứng thú học tập môn
tiếng Anh cho học sinh
I.
Kết luận
II.
Những ý kiến đề xuất về cảI tiến biện pháp gây hứng thú học tập môn
tiếng Anh cho học sinh
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Tài liệu tham khảo

1



Đề tài nghiên cứu khoa học

Lý Thị Thanh Trúc

Phần một: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Cùng với xu thế hội nhập toàn cầu và giao lưu văn hoá giữa các nước như
hiện nay, sự gia tăng về nhu cầu học ngoại ngữ là điều không thể tránh khỏi.
Được xem là ngôn ngữ chung trên thế giới, từ lâu tiếng Anh đã trở nên vô cùng
phổ biến và là ngôn ngữ thứ hai của rất nhiều quốc gia trên thế giới nói chung,
ở Việt Nam nói riêng. Do đó, có thể khẳng định rằng việc dạy và học môn tiếng
Anh chiếm vị trí rất quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta.
Chính vì ý thức được tầm quan trọng cùng với sự tác động to lớn của tiếng Anh
đối với sự phát triển to lớn của xã hội, Nhà nước cũng như Ngành Giáo Dục đã
đề ra các chính sách khuyến khích học tập, phổ biến chương trình dạy tiếng
Anh đến các bậc học và gần đây là cả ở bậc tiểu học. Việc phổ cập tiếng Anh ở
các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông ngày càng phát sinh những
đòi hỏi ngày càng cao không chỉ về trình độ mà còn về phương pháp giảng dạy
của giáo viên. Vì vậy nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra là làm thế nào nâng cao
được chất lượng đào tạo bên cạnh việc thúc đẩy hứng thú, khơi gợi niềm say
mê học tập tiếng Anh nơi học sinh. Và có thể nói, vấn đề này đã, đang và sẽ
không ngừng thu hút sự quan tâm của nhiều giáo viên có tâm huyết trong nghề.
Đầu học kỳ II năm học 2002-2003, theo sự phân công thực tập của nhà
trường, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp 10 trường
Trung học phổ thông Trần Văn Thành. Qua quá trình quan sát và giảng dạy, tôi
nhận thấy rằng bên cạnh phần lớn các học sinh rất nhiệt tình say mê học tiếng
Anh, vẫn có không ít những học sinh xem thường và không thích học môn này.
Điều này dẫn đến kết quả bộ môn lẫn kết quả học tập toàn diện của các em

không được khả quan. Với vai trò của một giáo viên giảng dạy bộ môn, tôi rất
băn khoăn và cảm thấy mình có trách nhiệm phải suy nghĩ biện pháp để giúp
các em thay đổi thái độ học tập, có cái nhìn mới đúng đắn hơn và hứng thú hơn
đối với việc học tiếng Anh. Ngoài ra, do đã được trang bị những kiến thức về
tâm lý học, giáo dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn, tôi muốn vận dụng
những gì mình đã tiếp thu ở trường sư phạm để giúp đỡ những học sinh chưa
học tốt môn tiếng Anh, tăng hứng thú học tập của các em và qua đó rút ra bài
học kinh nghiệm cho bản thân nhằm góp phần thiết thực nâng cao chất lượng
2


Đề tài nghiên cứu khoa học
dạy học.

Lý Thị Thanh Trúc

Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu biện pháp gây hứng thú
học tập môn tiếng Anh của học sinh khối lớp 10 trường trung học phổ thông
Trần Văn Thành”.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp gây hứng thú học tiếng Anh của học sinh.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp gây hứng thú học tập bộ môn
tiếng Anh của học sinh khối 10 trường THPT Trần Văn Thành huyện Châu Phú.
Không đi sâu vào nghiên cứu cơ chế tâm lý.
Đề tài nghiên cứu thực trạng diễn ra trong năm học 2003-2004.

III. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:

Hiểu được thực trạng và biện pháp gây hứng thú học tập bộ môn tiếng
Anh của học sinh để từ đó có biện pháp làm cho học sinh thích thú học tập môn
này.

IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu lý luận về học tập, phương pháp dạy học môn tiếng Anh ở
trường trung học phổ thông.
2. Khảo sát thực trạng về hứng thú và kết quả học tập bộ môn tiếng Anh
khối lớp 10 trường Trung học phổ thông Trần Văn Thành và biện pháp gây
hứng thú học tập của giáo viên.
3. Đánh giá kết quả đạt được, rút ra kết luận và đề xuất ý kiến về cải tiến
biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh cho học sinh.

3


Đề tài nghiên cứu khoa học
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Lý Thị Thanh Trúc

V.1. Cơ sở phương pháp luận:
-Các quan điểm triết học Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu.
-Lý thuyết hệ thống.
V.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
1. Phương pháp đọc sách và nghiên cứu tài liệu (các tài liệu có liên
quan đến đề tài) để tìm hiểu cơ sở lý luận.
2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:
-Mục đích sử dụng: dùng phương pháp điều tra bằng phiếu để biết
hứng thú học tập cuả học sinh.

-Chọn mẫu: chọn 03 lớp 10 một cách ngẫu nhiên (do vào đầu năm
học, học sinh lớp 10 đã được phân bố đều theo trình độ vào các lớp) tổng số
120 phiếu.
3. Phương pháp quan sát:
Dự 06 tiết dạy tiếng Anh của giáo viên (rải đều ở 03 lớp).
Dự 03 buổi tự học, học thêm của học sinh.
4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Xem hồ sơ, sổ sách của giáo viên.
Xem tập học, bài làm của học sinh.
Xem các số liệu sơ kết, tổng kết của các đợt kiểm tra chất lượng, thi
học kỳ.
5. Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn:
Mục đích: tìm hiểu động cơ, tinh thần, thái độ dạy và học, biện pháp
gây hứng thú học tập.
Chọn mẫu phỏng vấn:


03 giáo viên tiếng Anh dạy khối lớp 10.



Tổ trưởng chuyên môn tiếng Anh.



Phó Hiệu trưởng chuyên môn
4


Đề tài nghiên cứu khoa học

• Hiệu trưởng


Lý Thị Thanh Trúc

10 học sinh lớp 10 (chọn ngẫu nhiên)

VI. GIẢ THHUYẾT KHOA HỌC:
Còn một bộ phận học sinh khối lớp 10 thiếu hứng thú học tập môn tiếng Anh và
làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học bộ môn. Nếu như có biện pháp tốt hơn
gây hứng thú học tập cho học sinh thì chất lượng học tập sẽ tốt hơn.

VII. CƠ SỞ VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
1. Cơ sở:
Trường trung học phổ thông Trần Văn Thành thị trấn Cái Dầu, huyện
Châu Phú.
2. Thời gian:
Từ 02/2004 đến 04/2004.

5


Đề tài nghiên cứu khoa học

Lý Thị Thanh Trúc

Phần hai: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG
THÚ HỌC TẬP BỘ MÔN TIẾNG ANH CHO HỌC SINH


I. KHÁI NIỆM:
1. Hứng thú:
Theo từ điển bách khoa tiếng Việt: “Hứng thú là hình thức biểu hiện tình
cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một cách hào hứng về
mục đích hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy đủ hơn đối tượng
trong đời sống hiện thực” và “Hứng thú tạo nên ở chủ thể khát vọng được tiếp
cận và đi sâu vào đối tượng, làm nảy sinh cảm xúc tích cực (hài lòng, phấn
khởi, yêu thích,...), nâng cao mức tập trung, chú ý và khả năng làm việc. Khi
được làm việc phù hợp với hứng thú, dù phải vượt qua khó khăn, con người
vẫn cảm thấy thoải mái và đạt kết quả cao”.
Trong tâm lý học,cho đến nay, vấn đề tìm hiểu hứng thú như thế nào vẫn
đang là vấn đề được tranh luận. Theo X. A. Ananhin: “Hứng thú là một hiện
tượng độc lập trong đời sống tâm lý cá nhân”. Không tán thành với ý kiến của
ông, một số nhà tâm lý học Xô Viết lại quy cho hứng thú là: “nhu cầu đã được
nhận thức”. Trong khi đó, một số người coi hứng thú là thái độ nhận thức, một
số coi là xu hướng chú ý và gần đây đa số các nhà tâm lý học lại có xu hướng
thiên về định nghĩa: “Hứng thú là thái độ nhận thức của cá nhân đối với hiện
thực”. [5,Tr.234] Quan niệm này mang tính phiến diện.Thế còn mối quan hệ
giữa nhận thức và hứng thú thì sao? Mỗi hứng thú đều bao hàm một mức độ
nào đó, một thái độ nhận thức của cá nhân đối với đối tượng; tuy nhiên, không
thể quy hứng thú về thái độ này. Còn hứng thú và chú ý? Thật ra, hứng thú ,dĩ
nhiên cũng không thể đồng nhất với chú ý. Chú ý có thể hướng về những đối
tượng mà ta không thấy thích thú gì nhưng vì lý do có ý thức về tầm quan
trọng, về sự cần thiết mà phải nghiên cứu đối tượng đó. Bên cạnh đó, không
phải bất kỳ một thái độ cảm xúc nào cũng gây nên hứng thú – là một biểu hiện
6


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc

xu hướng đặc biệt của cá nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định
của cuộc sống xung quanh, đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối cố định
của con người đối với các hoạt động.
Hứng thú có ý nghĩa quan trọng trong đời sống và trong hoạt động của
con người. Con người thường cảm thấy sống hạnh phúc và đầy đủ khi có hứng
thú. Hứng thú muôn màu, muôn vẻ cũng như những hoạt động đa dạng của
con người. Căn cứ vào nội dung và chiều hướng của hứng thú mà người ta
chia nó thành nhiều loại, chẳng hạn như hứng thú vật chất, hứng thú đọc sách,
hứng thú phát minh,…
Từ những khái niệm về hứng thú như trên, tôi nhận thấy rằng hứng thú là
thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa
đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại niềm thích thú, khoái cảm cho cá
nhân đó trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao
độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động ở bề rộng và chiều sâu của
hứng thú.
2. Học tập:
Học tập là quá trình hoạt động của học sinh một cách tự giác, tích cực;
nhận sự chỉ dẫn của giáo viên nhằm tiếp thu nền văn hoá của nhân loại để
chuyển thành trí tuệ và nhân cách của bản thân để trở thành người lao động
thông minh và sáng tạo.
Hứng thú học tập là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân khi đứng
trước mâu thuẫn giữa nhiệm vụ học tập do giáo viên đề ra với trình độ tri thức
của học sinh, làm cho các em say mê tìm tòi sáng tạo để tìm ra lời giải đáp phù
hợp với yêu cầu của giáo viên đề ra.
Giáo viên là người tổ chức nhận thức cho học sinh; học sinh là chủ thể
của nhận thức, sử dụng các phương tiện học tập dưới sự hướng dẫn của giáo
viên và sự hỗ trợ của tập thể lớp để tiếp thu tri thức thành kỹ năng, kỹ xảo.
Quá trình nhận thức của học sinh đi theo quy luật nhận thức chung của
loài người: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng trở về thực tiễn”, và
như vậy, yếu tố trực quan sinh động trong quá trình dạy học như những sự vật,

hiện tượng, mô hình, tranh vẽ, chuyện kể của giáo viên tác động vào giác quan
của học sinh tạo nên những biểu tượng – đó là những tài liệu cảm tính cần
thiết. Trên cơ sở những tài liệu cảm tính ấy, học sinh tư duy trừu tượng, và
7


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các em sẽ gạt bỏ những cái vụn vặt, thứ
yếu, chỉ giữ lại những dấu hiệu bản chất. Kết quả là học sinh nắm được những
khái niệm khoa học dưới dạng định nghĩa, định lý, công thức hay nguyên tắc.
Sau đó, người giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh vận dụng các khái niệm mới
hình thành vào thực tiễn thông qua việc giải bài tập thực hành hay thí nghiệm,
giải quyết những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong cuộc sống.
3. Hứng thú học tập môn tiếng Anh:
Hứng thú học tập môn tiếng Anh là xu hướng tâm lý của học sinh có nhu
cầu đúng đắn về học tập môn này. Học sinh có hứng thú thường chú ý cao độ
trong học tập trên lớp và ngoài giờ; thường xuyên say mê rèn luyện kỹ năng
nghe, đọc, nói, viết ; tích cực vận dụng vào giao tiếp và cuộc sống; đam mê tìm
hiểu, nghiên cứu; không ngừng nâng cao trình độ học tiếng Anh và luôn thực
hiện tốt những yêu cầu do giáo viên đề ra.
Chính vì thế, ta có thể nói khi có được hứng thú, học sinh sẽ say mê tìm
tòi trong học tập và một khi đã có hứng thú học tập môn tiếng Anh thì việc học
giỏi môn này sẽ không là trở ngại lớn đối với các em.

II. VAI TRÒ CỦA MÔN TIẾNG ANH TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG:
Trong giai đoạn giao lưu hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở đất
nước ta hiện nay, việc tự trang bị tri thức khoa học hiện đại đã trở thành một
nhu cầu tất yếu đối với giới trẻ. Trong đó, ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh đóng

vai trò rất quan trọng vừa là chìa khoá mở ra thành công trong tương lai, vừa là
yếu tố cơ hội mang đến những vận may cho nghề nghiệp và thành đạt sau này.
Xét theo khía cạnh xã hội, việc học tiếng Anh đã trở thành trào lưu ở Việt
Nam hay đơn giản hơn có thể gọi là “mốt”. Tuy vẫn có trường hợp chưa xác
định được mục đích rõ ràng cho việc học của mình nhưng đa số các bạn trẻ
đều nhận thấy tầm quan trọng của khả năng biết thêm một ngoại ngữ quốc tế
như thế nào. Điều này lí giải tại sao hàng loạt các trung tâm ngoại ngữ đã mở
ra trên cả nước với hình thức và quy mô đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng này. Đối với học sinh, sinh viên, tiếng Anh đã trở thành công cụ để
tiếp nhận tri thức khoa học tiên tiến, có được tiêu chuẩn thiết yếu khi du học,
tìm kiếm được việc làm tốt trong tương lai. Và không chỉ riêng họ ý thức được
8


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
điều này, ngay đến cán bộ, công nhân viên chức ở các lĩnh vực ngành nghề
không phân biệt tuổi tác ngày ngày vẫn đến các trung tâm ngoại ngữ trau dồi
kiến thức. Bởi họ hiểu rằng việc học tiếng Anh không những giúp họ hoàn
thành tốt công tác của mình, đặc biệt trong lĩnh vực giao tiếp mà còn là hình
thức giúp họ không bị tụt hậu so với thời đại. Thậm chí đến lứa tuổi thiếu nhi
cũng thích học tiếng Anh để giao tiếp với người nước ngoài, chơi game và sâu
xa hơn là để có được kiến thức nền về ngoại ngữ ngay từ nhỏ. Như vậy, không
có gì là quá phóng đại khi nhận định rằng trong xã hội hiện nay mọi lứa tuổi,
mọi ngành nghề đều cần đến tiếng Anh.
Xét theo khía cạnh văn hóa, tiếng Anh đả trở thành nhịp cầu nối liền các
nền văn hoá trên thế giới. Bởi như chúng ta đã biết về việc học một ngoại ngữ
không có nghĩa chỉ học về ngôn ngữ mà còn là cả một quá trình tìm hiểu về con
người, đất nước, truyền thống của quốc gia ấy. Thông qua việc học tiếng Anh,
chúng ta hiểu thêm về nền văn minh khác đầy hấp dẫn và mới lạ. Vì vậy, lúc

này ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh – xét theo khía cạnh lớn hơn đã trở thành
một phần của việc giao lưu văn hoá nhân loại.
Chính từ việc ý thức rõ tầm quan trọng và khả năng tác động to lớn của
tiếng Anh đối với sự phát triển của xã hội, trong những năm gần đây, Chính
phủ ta, cụ thể là ngành giáo dục đã sớm phổ biến chương trình dạy tiếng Anh
vào các bậc học từ đại học, cao đẳng đến phổ thông và cả bậc tiểu học. Cụ thể,
theo qui định của Bộ giáo dục về phân phối chương trình môn Anh văn thì tổng
thời gian trong một năm học là 99 tiết đối với các khối lớp 10, 11,12; chiếm thời
lượng khá lớn so với tổng số tiết các môn học khác. Học ngoại ngữ - tiếng Anh
không còn là sự bắt buộc về tính chất mà thực tế đã trở thành nhu cầu chung
xuất phát từ lợi ích hiển nhiên của nó. Và thực tế này khiến chúng ta nhận thức
được nhiệm vụ quan trọng của những nhà sư phạm trong thời điểm hiện tại là
làm thế nào nâng cao chất lượng học tập môn tiếng Anh của học sinh, thúc đẩy
các em hứng thú học tập đạt kết quả cao hơn, tốt hơn cũng chính là góp phần
củng cố vị thế xứng đáng của môn tiếng Anh trong chương trình đào tạo.

III. BẢN CHẤT QUÁ TRÌNH DẠY VÀ HỌC MÔN TIẾNG ANH:
Xuất phát từ tính chất đặc thù của môn tiếng Anh, quan điểm giao tiếp
(communicative) mang tính chủ đạo. Quan điểm giao tiếp quy định “tính giáo
9


Đề tài nghiên cứu khoa học
tiếp” của hoạt động dạy-học ngoại ngữ.

Lý Thị Thanh Trúc

Môn ngoại ngữ đòi hỏi nhận thức và sự giải quyết hợp lý các mối quan hệ
giữa kiến thức và kỹ năng đây cũng chính là trung tâm, là mục đích cuối cùng
của quá trình dạy-học. Kiến thức là phương tiện, là nền tảng. Tuy nhiên, nếu

chỉ có kiến thức mà không có kỹ năng thì sẽ không có khả năng giao tiếp,
ngược lại nếu chỉ có kỹ năng mà không có kiến thức thì khả năng giao tiếp
cũng bị hạn chế, không phát triển được.
Quá trình dạy-học ngoại ngữ thực chất là quá trình hoạt động rèn luyện kỹ
năng dưới các hình thức nghe-nói-đọc-viết. Muốn rèn luyện được đòi hỏi phải
có môi trường tình huống đa đạng trong cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do
người giáo viên tạo ra dưới dạng các tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm
cách ứng xử bằng ngoại ngữ sao cho phù hợp với từng tình huống giao tiếp cụ
thể. Khi học ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng, học sinh vừa học ngôn
ngữ đồng thời tiếp cận với một đất nước khác, một nền văn hoá xa lạ. Mức
động tiếp cận càng cao thì quá trình dạy học sẽ diễn ra càng thuận lợi và đạt
hiệu quả. Điều này đòi hỏi sự vận dụng nhiều phương tiện dạy học, thiết bị
nghe nhìn, nghe nói và nhiều hình thức dạy học linh hoạt.
Chính vì tầm quan trọng to lớn của tiếng Anh, nhiệm vụ được đặt ra hiện
tại là làm sao để học sinh nhận thức được tầm quan trọng ấy và nhiệm vụ trọng
yếu của người giáo viên làm kích thích niềm hứng thú của học sinh đối với việc
học môn này bằng sự vận dụng đa dạng phù hợp với các biện pháp.

IV. VAI TRÒ CỦA HỨNG THÚ ĐỐI VỚI VIỆC HỌC MÔN TIẾNG ANH:
Trong các tuyển tập tài liệu về tâm lý và giáo dục học, chúng ta đã xét đến
một số quy luận chung của quá trình nắm vững kiến thức, những phương pháp
và thủ thụât quan trọng nhất của việc phát huy tính tích cực trong nhận thức
của học sinh nhằm hiểu và lĩnh hội được tài liệu học tập. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy rằng ngay cả những phương pháp hoàn hảo nhất không phải bao giờ
cũng dẫn tới mục đích như mong muốn. Về thực chất, hệ thống các phương
pháp và thủ thuật mà giáo viên áp dụng trong bài giảng thi lên lớp là chung cho
mọi học sinh. Thế nhưng, sự tiếp thu của các em là khác nhau dẫn đến kết quả
khác nhau mà phát triển cũng khác nhau. Trong số này sẽ có những học sinh
yếu bên cạnh những em học khá, giỏi, những em nhanh trí hay chậm hiểu, có
10



Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
em ham tìm tòi, hiểu biết nhưng cũng có em lại bàng quang với việc học. Như
thế có nghĩa là vấn đề không chỉ dừng ở bản thân các phương pháp giảng dạy.
Còn có điều gì đó ảnh hưởng cơ bản đến kết quả học tập và những nhà sư
phạm phải tính đến khi tổ chức công tác dạy học ở nhà trường.
Hàng loạt những công trình nghiên cứu sinh lý học cho thấy rằng khả
năng tiềm tàng của bộ óc trong hoạt động trí tuệ của con người còn lâu mới
được sử dụng hết. Thực tế, chỉ khoảng 10-15% khả năng đó được sử dụng và
do vậy dẫn đến sự khác biệt về khả năng trí tuệ mà ta có thể nhận thấy giữa
người này với người khác. Điều này không hẳn phụ thuộc vào bản tính sinh
học của họ mà chủ yếu là vào những ảnh hưởng khác nhau của môi trường và
sự giáo dục. Chính điều này cũng được thể hiện qua những dẫn liệu thực tiễn
ở trường học. Thực tế có rất nhiều trường hợp học sinh học kém ở tiểu học
nhưng khi được trải qua quá trình giảng dạy rèn luyện của giáo viên giỏi ở các
lớp trung học cơ sở lại bắt đầu có những tiến bộ rõ rệt và bộc lộ tiềm năng lớn
trong học tập. Tuy nhiên, cũng thật đáng tiếc khi không có ít những trường học
những học sinh giỏi hoặc xuất sắc ở tiểu học, trung học cơ sở lại đột nhiên có
biểu hiện sút kém ở bậc trung học phổ thông. Hiển nhiên trong những trường
hợp trên, nguyên nhân không phải là bản tính sinh học mà là những biến đổi
trong chất lượng học tập khi học sinh chuyển từ giáo viên này sang giáo viên
khác. Trong khi đó, cũng có trường hợp giáo viên giỏi, nắm vững phương pháp
dạy bộ môn của mình nhưng một số học sinh vẫn không đặc biệt say sưa học
tập và có thái độ thụ động trong giờ học. Điều này sẽ được lý giải như thế nào?
Ở đây, ta đã đụng chạm đến một “nhân tố bên trong” có ảnh hưởng đến tính
tích cực nhận thức của học sinh, bất kỳ một tác động bên ngoài nào cũng thông
qua sự tiếp ứng tâm lý học nhất định – tích cực hoặc tiêu cực. Chính phản ứng
này sẽ xác định tính chất của tính tích cực của học sinh. Khi tiếp nhận những

tác động bên ngoài (sự giảng dạy) một cách tích cực, các em dễ biểu lộ tính
tích cực nhận thức và cố gắng lĩnh hội bài. Ngược lại nếu tác động bên ngoài là
tiêu cực thì tính tích cực của các em (thái độ trong lớp) sẽ mang tính tiêu cực.
Chính vì thế vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên là phải hình thành ở học sinh
tâm trạng tích cực đối với học tập và khiêu gợi những kích thích bên trong của
sự tích cực nhận thức. Hay nói cách khác, khi vận dụng những phương pháp
và thủ thuật giảng dạy nào đó, giáo viên phải quan tâm, đầu tư sao cho chúng
có tác dụng xúc cảm cần thiết và làm cho chúng vừa trở nên những tài liệu dễ
11


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
hiểu, sinh động hơn vừa để kích thích tâm trạng bên trong của học sinh đối với
học tập.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà tâm lý học L. I. Bôgiôvích đã viết rằng:
“Tuyệt đại đa số học sinh kém thường có thái độ tiêu cực đối với học tập”. Bà
nhận xét: “Một số em thì… không thích học tập, một số khác thì lại càng bàng
quang đối với kết quả của mình, số em khác nữa thì thiếu tin tưởng vào bản
thân và lo sợ học kém”. Theo L. I. Bôgiôvích [1,Tr167]. Điều này có nghĩa là
nếu chúng ta muốn học sinh chăm chú nghe giảng thì việc chỉ nêu tên của đề
tài tiết học và thông báo những vấn đề cơ bản của bài giảng là hoàn toàn chưa
đủ. Cần phải gây cho học sinh một tâm tư xúc động tích cực (thái độ) có liên
quan trực tiếp với lòng mong muốn hoạt động nhận thức. Do đó, không thể
thiếu được yếu tố gây hứng thú cho hoạt động nhận thức của học sinh.
Hứng thú đó là nhu cầu nhuốm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây
động cơ và làm cho hoạt động của con người có tính chất hấp dẫn. Khi hoạt
động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở nên hào
hứng, thoải mái và dễ dàng. Khi đó, học sinh sẽ không cần đến sự động viên
bên ngoài đối với học tập mà làm việc với sức mạnh của sự say mê bên trong

nhằm đáp ứng nguyện vọng của bản thân. Nó lý giải tại sao việc gây ra hứng
thú nắm vững kiến thức của học sinh lại tạo nên những kích thích bên trong
mạnh mẽ đối với học tập. Trên cơ sở của nhu cầu và hứng thú sẽ hình thành
động cơ học tập đúng đắn của học sinh. Nhưng làm thế nào để kích thích học
sinh niềm hứng thú học tập? Chúng ta cần phải tạo nên mâu thuẫn trong quá
trình nghiên cứu tài liệu mới, đưa ra những ví dụ và sự kiện rõ ràng, những
khái quát lý thuyết trình bày có nội dung sâu sắc, sinh động – đó là những
phương pháp quan trọng nhất. Đặc điểm riêng của việc gây hứng thú ở học
sinh sẽ giúp các em cảm giác niềm vui sướng của thành công, tin tưởng vào
sức mình, vào khả năng vượt qua những khó khăn thử thách.
Khi giáo dục hứng thú học tập của học sinh cần lưu ý rằng học sinh không
thể hứng thú với tất cả các môn học. Hứng thú mang tính chất chọn lọc và
thông thường mỗi học sinh chỉ thật sự say mê một vài môn học mà thôi. Tuy
vậy, khi đã có hứng thú vững chắc đối với một môn nào đó, các môn khác cũng
sẽ có được sự ảnh hưởng tích cực về thái độ học tập. Ở đây cả những nhân tố
trí tuệ cũng như những nhân tố đạo đức đều có ý nghĩa. Sự phát triển mạnh mẽ
về trí tuệ do việc nghiên cứu sâu sắc một môn học sẽ góp phần làm cho việc
12


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
học tập các môn khác được dễ dàng và có hiệu quả cao hơn. Mặt khác, những
tiến bộ trong học tập ở bất kỳ môn học nào cũng sẽ củng cố ở học sinh lòng tự
hào về bản thân và thúc đẩy các em làm việc một cách chuyên cần.
Sự có mặt của những hứng thú học tập là hình thức biểu hiện của thái độ
học tập tốt. Hứng thú học tập phụ thuộc vào ý nghĩa của tài liệu học sinh nghiên
cứu rõ ràng ở mức độ nào đối với các em, tài liệu đó có liên quan như thế nào
với những hứng thú bên ngoài phạm vi học tập, phụ thuộc vào các phương
pháp dạy học có tính chất đa dạng như thế nào. Tuy nhiên trong khi giáo dục

hứng thú học tập cho học sinh, không nên lạm dụng tính chất lý thú vào không
nên để cho học sinh chỉ quen với những hứng thú gián tiếp. Những hứng thú
được tạo ra không nên chỉ do tính lý thú quyết định mà còn phải do sự nhận
thức sâu sắc được ý nghĩa của môn học, tầm quan trọng của tri thức đối với
cuộc sống. Trong trường hợp đó, học sinh sẽ toàn tâm toàn lực làm cả những
việc trước đây không hứng thú.

V. CÁC BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH:
Xuất phát từ vai trò quan trọng của hứng thú, chúng ta nhận thấy rằng làm
thế nào để gây được hứng thú nơi người học là việc làm rất quan trọng và cần
thiết. Điều này đòi hỏi người dạy phải thiết kế sao cho phù hợp với ý đồ dạy
học của mình và thực hiện trên lớp. Nội dung ngôn ngữ của các hoạt động đó
có thể là một trong các thành tố ngôn ngữ như ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng hay
một trong bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết hoặc phối hợp cùng một lúc hai hay
nhiều những yếu tố trên. Một hoạt động có thể tập trung vào sự chuẩn xác
ngôn ngữ hay khả năng sử dụng trôi chảy về ngôn ngữ.
Các hoạt động phổ biến trên lớp cho dù theo quan điểm và phương pháp
khác nhau nhưng cũng đều hướng đến một số nhận thức chung của quá trình
dạy và học. Dựa vào mục đích của các hoạt động dạy và học ngoại ngữ, có thể
xếp các hoạt động thành những nhóm sau:
1) Các hoạt động vào bài / chuẩn bị bài mới.
2) Các hoạt động giới thiệu.
3) Các hoạt động thực hành.
4) Các hoạt động ghi nhớ.
13


Đề tài nghiên cứu khoa học
5) Các hoạt động tiếp thu.


Lý Thị Thanh Trúc

6) Các hoạt động ứng dụng.
7) Các hoạt động nhằm phát triển kỹ năng học.
8) Các hoạt động nhằm cung cấp phản hồi.
9) Các hoạt động đánh giá.
* Các hoạt động vào bài:
Là các hoạt động nhằm tạo dựng một không khí thuận lợi cho tiết học
hoặc chuẩn bị về tâm lý và kiến thức cho bài học mới.
* Các hoạt động giới thiệu:
Là các hoạt động mà thông qua chúng, nội dung mới được giới thiệu. Nội
dung mới với những quan điểm dạy học và soạn sách giáo khoa ngày nay
không chỉ là ngữ liệu mới như cấu trúc ngữ pháp hay từ vựng mới mà còn có
thể là một chức năng ngôn ngữ, một đặc điểm ngôn bản hoặc một thủ pháp
học. Và không phải là bài học nào cũng có hoạt động giới thiệu. Ví dụ trong một
bài dạy nghe thì không nhất thiết phải có hoạt động giới thiệu cách nghe.
Nhưng trong một bài nghe khác thì được bắt đầu bằng một hoạt động giúp
người học cách thực hiện bài nghe đó. Các hoạt động giới thiệu lúc này có thể
tương đương với các hoạt động trước khi nghe và cũng tương tự như vậy đối
với dạng bài học đọc hiểu.
* Các hoạt động thực hành:
Đây là những hoạt động được thực hiện sau phần giới thiệu để học sinh
tự thực hành, củng cố những gì đã học và tự điều chỉnh nếu có những vấp váp.
Những hoạt động này thường để giúp học sinh củng cố những gì đã học và
chuẩn bị cho hoạt động mới tiếp theo.
* Các hoạt động ghi nhớ:
Là các hoạt động mà thông qua chúng học sinh ghi nhớ được các thông
tin ngữ liệu cần thiết, những hoạt động này thường được dùng để giúp học sinh
củng cố những điều đã học .
* Các hoạt động tiếp thu:

Bao gồm các hoạt động nghe hiểu, đọc hiểu để phát triển hoặc thể hiện
khả năng hiểu biết ngôn bản hoặc văn bản của học sinh. Các hoạt động hiểu có
14


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
thể ở các cấp độ khác nhau như hiểu nghĩa đen của bài, hiểu hàm ý, hiểu để
rút ra ý kiến, kết luận, dự đoán vào thông tin hiểu được, đánh giá dựa vào nội
dung có kết hợp với quan điểm cá nhân.
* Các hoạt động ứng dụng:
Là các hoạt động đòi hỏi người học sử dụng một cách sáng tạo những
điều đã được giới thiệu và đã thực hành nhưng hoạt động này thường còn đòi
hỏi học sinh phải phối hợp các kiến thức và kỹ năng từ các nguồn khác nhau
để ứng dụng điều đã học vào một tình huống, ngữ cảnh mới để diễn đạt ý
tưởng, tình cảm, nhu cầu hoặc để diễn đạt kinh nghiệm riêng của mình.
* Các hoạt động nhằm phát triển kỹ năng học:
Là các hoạt động nhằm phát triển những thủ pháp học cụ thể. Ví dụ, thủ
pháp đoán nghĩa từ hệ thống của từ pháp thông dụng qua các bài tập chú trọng
vào tiền tố, hậu tố, trật tự từ hoặc nghe hiểu, sử dụng các yếu tố đã biết để
đoán nghĩa các câu, đoán nội dung qua đầu đề của bài.
* Các hoạt động phản hồi:
Là các hoạt động qua đó người học có được những phản hồi về học tập,
dựa vào đó có thể so sánh biết được mức độ nắm bắt và tiến bộ của mình.
* Các hoạt động đánh giá:
Là những hoạt động giúp cho cả người dạy và người học đánh giá được
mức độ thành công của một hoạt động hay của một bài học nhằm rút ra bài học
kinh nghiệm cho việc giảng dạy sau này hoặc chỉ để thuần tuý đánh giá trình độ
học sinh.
Đối với các giờ học trên lớp dù đó là bài học nào, dạy ngữ liệu (ngữ pháp,

từ vựng) hay dạy kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) đều phải sử dụng một hoặc
nhiều hoạt động kể trên dựa vào mục đích đã đặt ra, người dạy lựa chọn và
sắp xếp các hoạt động sao cho phù hợp với giờ dạy cụ thể của mình, công việc
ấy sẽ tạo nên sự khác biệt của một giờ dạy có phương pháp với một giờ dạy
không có phương pháp và thành công của việc lựa chọn, sắp xếp các hoạt
động đó cũng chính là thành công của giờ dạy và từ đó có thể gây cho học sinh
sự hứng thú say mê học tập môn tiếng Anh.
Ngoài ra, trong giảng dạy nói chung và trong việc dạy ngoại ngữ nói riêng,
những giáo cụ trực quan (tranh ảnh, vật thật, bưu thiếp, bìa hình, bản đồ, bản
15


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
biểu, phim ảnh,…) đóng vai trò rất quan trọng và hỗ trợ rất tích cực cho việc
nâng cao hiệu quả dạy học. Giáo cụ trực quan có thể được sử dụng trong mọi
hoạt động của quá trình dạy học từ bước giới thiệu ngữ liệu đến bước thực
hành làm đa dạng và phong phú hơn rất nhiều các thủ thuật và hoạt động dạy
học khác nhau. Tùy điều kiện cụ thể, người dạy sẽ áp dụng vào các hoạt động
một các phù hợp và đúng đắn. Từ đó, làm cho tiết học sinh động hơn, khiến
học sinh cảm thấy phấn khởi và hứng thú hơn trong học tập các môn đặc biệt
là môn tiếng Anh nói riêng.

16


Đề tài nghiên cứu khoa học

Lý Thị Thanh Trúc


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỨNG THÚ TẬP MÔN
TIẾNG ANH KHỐI LỚP 10 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TRẦN VĂN THÀNH
I. VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH CHUNG CỦA TRƯỜNG THPT TRẦN VĂN THÀNH:
1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội của địa phương:
Thị trấn Cái Dầu là Trung Tâm hành chính về kinh tế của huyện Châu
Phú, nằm dọc theo một đọan của Quốc lộ 91.
Thị trấn Cái Dầu giáp xã Bình Mỹ, Bình Long và Vĩnh Thạnh Trung, dân
cư sống san sát, đông đúc theo các tuyến đường với tổng số 19.167 nhân
khẩu.
Toàn thị trấn có 4 khóm, tổng diện tích là 621 ha. Đa số nhân dân theo
đạo phật, còn lại là đạo hoà hảo, thiên chúa và tin lành. Nhân dân sống chủ yếu
bằng nghề nông, buôn bán và tiểu thủ công nghiệp, đời sống tương đối ổn
định.
Về trật tự, an ninh xã hội: được sự quan tâm của chính quyền địa
phương, vấn đề an ninh trật tự luôn được đảm bảo và ít xảy ra hiện tượng quấy
rối nghiêm trọng.
Về lao động, thương binh xã hội: thường xuyên chăm lo đời sống những
gia đình khó khăn. Thị trấn đã xây dựng một số nhà tình nghĩa, phụng dưỡng
bà mẹ Việt Nam anh hùng, chương trình xoá đói giảm nghèo được tích cực phổ
biến và thực hiện.
Về chăm sóc sức khoẻ: thị trấn Cái Dầu có 1 trạm Y tế với đội ngũ Y Tá,
Bác Sĩ được đào tạo chuyên sâu và hệ thống trang thiết bị khá tiên tiến, hiện
đại.
Thị trấn Cái Dầu thường xuyên là đơn vị dẫn đầu cả huyện về các phong
trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, phong trào văn nghệ, thể
thao…
Về giáo dục: đa phần con em của các gia đình trong độ tuổi đi học đều
được cấp sách đến trường do người dân có ý thức khá về chăm lo học tập cho
17



Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
các em. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế và vị trí địa lí không thuận tiện nên vẫn
còn một bộ phận phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức vệc học của
con cái nên vẫn tồn tại một số hiện tượng bỏ học, tập trung chủ yếu ở khối 10.
Nhìn chung công tác giáo dục và đào tạo ở địa phương là khá tốt, trình
độ dân trí trung bình khá.
2/ Tình hình trường THPT Trần Văn Thành:
a.Về cán bộ Giáo Viên – Công Nhân Viên:
Môn

Nam

Nữ

Vào ngạch

Hợp đồng

Chưa TN

Tập sự

Đảng viên

3

2


1

3

0

0

0

3

6

4

2

3

3

5

0

0

Văn


6

2

4

6

0

0

0

1

Sử

3

3

0

3

0

0


0

0

Địa

2

1

1

2

0

0

0

0

GDCD

2

2

0


2

0

0

0

1

Anh

7

3

4

6

0

0

1

2

Pháp


2

0

2

1

0

0

1

1

Toán

9

9

0

7

1

0


1

0

Tin

2

0

2

2

0

0

0

0



4

2

2


3

0

0

1

1

Hoá

4

3

1

4

0

0

0

0

Sinh


3

1

2

3

0

0

0

0

KTC

2

2

0

2

0

0


0

0

TDục

4

4

0

2

0

2

0

0

59

38

21

49


4

7

4

9

BGH
Nhân
Viên

Tổng
cộng

Tổng số

-

Ban Giám Hiệu: 3

-

Hiệu trưởng: Trần Kim Phiên

-

Hiệu phó chuyên môn: Đoàn Văn Thị
18



Đề tài nghiên cứu khoa học
- Hiệu phó ngoài giờ: Ngô Thị Thu Dung
-

Thư viện + thiết bị: 1

-

Văn thư + giáo vụ: 1

-

Bảo vệ + phục vụ: 2

Lý Thị Thanh Trúc

* Nhìn chung, phần lớn đội ngũ giáo viên đều có tay nghề vững và có
kinh nghiệm. Các thầy cô đều tích cực tận tâm trong công tác giảng dạy lẫn
giáo dục. Tập thể cán bộ , công nhân viên, giáo viên có tinh thần đoàn kết hỗ
trợ lẫn nhau trong công việc. Được đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ban
Giám Hiệu nhà trường cùng với những điều kiện thuận lợi nên trong những
năm qua trường luôn là đơn vị dẫn đầu của huyện về chất lựơng giảng dạy lẫn
phong trào.
b/ Tình hình học sinh:
Lớp

Học sinh


Đầu năm học

Cuối HKI

Đầu năm học

Cuối HKI

Khối 10

10

10

444

424

Khối 11

10

10

417

414

Khối 12


9

9

385

384

Tỏng cộng

29

29

1.246

1.222

Tất cả học sinh đều học ngoại ngữ là Tiếng Anh. Bên cạnh đó, học sinh
ở các khối lớp còn được học thêm một ngoại ngữ là Tiếng Pháp và được cộng
điểm vào trung bình học kì theo mức độ điểm số cụ thể của từng em theo quy
định.
*Hầu hết học sinh của trường là con em của những hộ dân tại địa
phương. Khoảng 70% các em xuất thân từ gia đình làm nghề nông và điều kiện
đi lại xa xôi, không được thuận tiện lắm cho việc học hành. Một bộ phận học
sinh thuộc gia đình ở Trung tâm thị Trấn, làm nghề buôn bán nên thuận tiện
hơn. Nhìn chung, kết quả học tập khá tốt nhưng vẫn thật sự chưa cao so với
nhiều trường trong tỉnh.

19



Đề tài nghiên cứu khoa học
c/ Tình hình cơ sở vật chất:

Lý Thị Thanh Trúc

Toàn trường có tổng cộng 42 phòng được sử dụng cho những mục đích
khác nhau: giảng dạy, thư viện…
Cụ thể:

STT

Mục đích sử dụng

Số phòng

Ghi chú

1

Phòng học

27

Có 3 phòng tạm

2

Phòng thí nghiệm, thực hành


4

Có 1 phòng vi tính

3

Phòng làm việc

6

4

Phòng Giáo Viên

1

5

Phòng truyền thống

1

6

Phòng thư viện

1

7


Nhà vệ sinh

2

Cộng

1 của giáo viên
1 của học sinh

42
*Do tách ra từ trường trung học phổ thông Cái Dầu, nên bước đầu

trường còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất dù trên cơ bản là
tương đối đủ phòng đáp ứng cho công tác giảng dạy. Đặt biệt, đối với bộ môn
Anh Văn, phòng Lab và các thiết bị nghe nhìn như máy cassette, đầu video,
đầu đĩa, dường như vẫn còn xa lạ đối với học sinh và chưa được trang bị cho
trường. Nhà trường hiện đã và đang đầu tư để cải thiện tình hình này một cách
tích cực.
d/ Môi trường sư phạm:
Trường THPT Trần Văn Thành, nằm trên trục giao thông chính của
huyện ( quốc lộ 91) nên khá thuận tiện cho việc đi lại. Cảnh quan tương đối
thoáng đãng và thuận lợi trong công tác giảng dạy. Hiện nay, trường đang phát
động học sinh đóng góp thực hiện trồng cây xanh tạo bóng mát và không khí
xanh sạch cho trường. Trong tương lai, với sự quan tâm và đầu tư thích đáng
của chính quyền địa phương và nhân dân, trường sẽ phấn đấu trở thành
trường đạt chuẩn quốc gia.
20



Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
Về tập thể giáo viên: Bên cạnh lớp giáo viên dày dặn kinh nghiệm là thế
hệ giáo viên trẻ có bản lĩnh. Nội bộ giáo viên đoàn kết, trong sạch giúp đỡ lẫn
nhau hoàn thành trách nhiệm được giao.
*Nhìn chung, trường trung học phổ thông Trần Văn Thành là một môi
trường sư phạm thuận lợi cho mỗi giáo viên phát huy năng lực và tính sáng tạo
của mình.
e/ Thuận lợi và khó khăn của trường:
*Thuận lợi:
-Được cấp Uỷ - Chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ về
mọi mặt.
-Được sở giáo dục và đào tạo An Giang chỉ đạo, hướng dẫn sâu sát về
chuyên môn.
-Các ban ngành, đoàn thể có liên quan luôn nhiệt tình hỗ trợ và giúp đỡ.
-Nhân dân địa phương ngày càng nhận thức đúng tầm quan trọng của
việc học đối với con em mình.
-Đội ngũ cán bộ, công chức khá hùng hậu. Nhiều thầy cô công tác lâu
năm có kinh nghiệm trong giảng dạy và công tác, một số tuy còn trẻ nhưng hầu
hết đều nhiệt tình và gắn bó với nghề nghiệp.
-Cơ sở vật chất tạm thời đủ cung ứng cho việc dạy và học.
*Khó khăn:
-Cơ sở vật chất tuy tạm đủ nhưng vẫn còn khó khăn do cho trường
Trung học cơ sở Cái Dầu học gởi.
-Các trang thiết bị dùng để dạy và học tuy được cấp nhưng còn ít; một
số đã lạc hậu, chưa đáp ứng nhu cầu hiện nay.
-Còn thiếu: hàng rào tường; nhà để xe cho cán bộ, giáo viên; lối đi nội
bộ; sân sinh hoạt chưa hoàn chỉnh.
*Trên cơ sở những thuận lợi nhất định của mình, nhà trường đang từng
bước phát huy những mặt mạnh và dần khắc phục được những điểm yếu

những khó khăn trong công tác giảng dạy, giáo dục nhằm đưa trường tiếp tục
đi lên xứng đáng là trường trọng điểm của địa phương.

21


Đề tài nghiên cứu khoa học

Lý Thị Thanh Trúc

II/ THỰC TRẠNG VỀ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN TIẾNG
ANH CỦA GIÁO VIÊN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÀN VĂN
THÀNH:
Xuất phát từ đặc thù của bộ môn ngoại ngữ là một môn học khó đòi hỏi
sự tiếp cận ở mức độ nhất định và khả năng tập trung chú ý cao độ của học
sinh cho nên nhiệm vụ của người giáo viên dạy ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh
nói riêng có khác hơn so với những bộ môn khác. Bên cạnh nhiệm vụ truyền
đạt đầy đủ kiến thức cần cung cấp, người giáo viên Anh văn còn phải tạo được
bầu không khí thoải mái, dễ chịu, tạo thế chủ động tự tin cho học sinh nhằm
giúp các em tiếp thu bài dễ dàng hơn. Qua quá trình quan sát và dự giờ dạy
của giáo viên trong thời gian thực tập, tôi đã nắm đựơc tình hình thực tế về
biện pháp gây hứng thú học tập môn tiếng Anh của giáo viên nhà trường như
sau:
*Về hình thức và thủ thụât vào bài: (Warm–up or Warmer or lead in)
Các hoạt động vào bài thường rất quan trọng dù chiếm thời gian rất ít so
với thời lượng của cả bài học. Tuỳ theo từng bài dạy cụ thể mà giáo viên nhà
trường đã đề ra những hoạt động cụ thể như: tự giới thiệu mình, chào, hỏi
thăm sức khoẻ, tán gẫu, tập trung sự chú ý, ổn định lớp hay gây hứng thú bằng
cách bắt đầu ngay một hoạt động học tập như cho học sinh quan sát tranh rồi
hỏi đáp về bức tranh đó hoặc tổ chức cho học sinh chơi một trò chơi ngôn ngữ

( Clap the board, Hangman, Shark attack, Guess the words, Lucky numbers…).
Đa số các giáo viên đều cố gắng thực hiện đa dạng hoạt động vào bài của
mình để kích thích sự hứng thú học tập cuả các em trong tiết dạy. Tuy nhiên,
nhìn chung việc áp dụng này không liên tục. Do nhiều lý do khách quan lẫn chủ
quan như bài mới có khối lượng kiến thức nhiều giáo viên sợ không đủ thời
gian, sợ lớp ồn, ảnh hưởng đến các lớp xung quanh, thời lượng dạy môn tiếng
Anh thường là 2 tiết liên tiếp nhau, nên giáo viên dạy tiếp tục, bỏ qua giai đoạn
này. Thông thường, để tiết kiệm thời gian và theo kịp phân phối chương trình,
giáo viên hay đi thẳng vào bài mới hoặc chỉ điểm danh mức độ chuyên cần của
học sinh, trả bài, sửa bài tập. Chẳng hạn, vào ngày 10/2/2004, giáo viên vào
bài bằng cách kiểm tra sĩ số lớp rồi bắt đầu bài mới ngay khiến học sinh không
cảm thấy phấn chấn khi bắt đầu học, dẫn đến không khí học tập ở nửa tiết đầu
khá buồn tẻ và đơn điệu, không tạo được môi trường học tập thuận lợi cho học
22


Đề tài nghiên cứu khoa học
sinh.

Lý Thị Thanh Trúc

*Giới thiệu ngữ liệu mới ( presentation)
Qua các tiết dạy đã dự, tôi nhận thấy các giáo viên đều tạo dựng đựơc
các tình huống ( situations) và ngữ cảnh ( setting up contexts ) khá linh hoạt và
sinh động. Để giới thiệu ngữ nghĩa ( meaning ) của từ mới, giáo viên thường cố
gắng sử dụng vật thật ( real objects) hay tranh vẽ (pictures) để minh hoạ. Ví dụ
như vào ngày 9/2/2004, giáo viên giới thiệu bức tranh để dạy từ “ Individual “
cũng rất hiệu quả, giúp các em dễ hiểu và dễ nhớ từ vựng. Ngoài ra, việc sử
dụng vật thật cũng kích thích sự tò mò, háo hức trong quá trình học tập của học
sinh. Chẳng hạn như tiết dạy reading ngày 08/03/2004, để giúp học sinh hình

dung các lọai tiền, giáo viên đã giới thiệu bộ sưu tập tiền đồng và tiền giấy đến
các em khiến không khí học tập phấn khích hẳn lên. Bên cạnh đó, khi giới thiệu
các cấu trúc ngữ pháp, giáo viên đã áp dụng cấu trúc ngữ pháp đó vào đoạn
hội thoại như tiết dạy sáng 10/02/2004 và cho học sinh thực tập, hoạt động này
giúp các em ở tư thế chủ động trong tiếp thu bài mới.
Có một điều đặc biệt trong các tiết dạy tôi được tham dự đó là sáng kiến
kinh nghiệm của một giáo viên sử dụng ‘thẻ vàng’, ‘thẻ đỏ’ để cộng điểm
khuyến khích cho học sinh khi các em tham gia phát biểu đúng và tích cực. Đây
là một hoạt động rất hữu ít để thúc đẩy các em tham gia xây dựng bài và hứng
thú hơn trong học tập (sẽ được giải thích thêm ở phần bài học kinh nghiệm)
* Kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh ( Checking comprehension)
Việc kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh được thực hiện tốt thì việc
luyện tập tiếp theo mới đạt hiệu quả. Các giáo viên ở đây đã có áp dụng một số
chi tiết nhỏ để giúp học sinh bọc lộ khả năng tiếp thu của mình nhưng không bị
gò ép, buồn chán bằng cách cho các em thực hiện theo cặp các câu hỏi và trả
lời ( comprehension questions) thực hiện các bài tập lắp ghép ( matching) kiểm
tra đúng sai (True/False)...
*Tuy các biện pháp được áp dụng khá tốt trong quá trình giảng dạy
nhưng nhìn chung giáo viên không thực hiện thường xuyên và liên tục. Điều
này dẫn đến thực trạng các em học sinh tuy có phần nào ham thích nhưng
chưa thật sự hứng thú với việc học môn Tiếng Anh.
**Như vậy khi nói đến các hoạt động diễn ra trong giờ dạy ngoại ngữ , cụ
thể là giờ dạy môn Anh văn ; đối với giờ dạy cấu trúc ngữ pháp (grammar) ,
23


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
giáo viên sẽ cho học sinh luyện tập đoạn hội thoại được lồng ghép cấu trúc mới
vào rồi giải thích. Sau đó, học sinh sẽ có khả năng tự rút ra các công thức để

thực hiện phần luyện tập. Đối với tiết dạy đọc (reading),giáo viên sẽ bắt đầu nội
dung bài dạy bằng cách giới thiệu từ mới – đây là phần giáo viên áp dụng dụng
cụ trực quan cho những từ vựng cụ thể hay dùng tình huống để giới thiệu từ
vựng trừu tượng. Sau đó sẽ là giai đoạn học sinh đọc bài khoá dưới sự dẫn dắt
của giáo viên để bước qua phần đọc hiểu. Do sử dụng phương pháp mới –
phương pháp giao tiếp ( communicative approach) - chủ yếu phát huy tính tích
cực của học sinh nên đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo của các em ; thời lượng cho
phần dạy từ hay rút ra cấu trúc tương đối ít khiến học sinh khá áp lực khi tiếp
thu kiến thức mới; các em thường thụ động ít giơ tay phát biểu vì không chuẩn
bị bài hoặc sợ viết bài mới không kịp… trong các tiết dạy Further practice ( mà
chủ yếu là nói), các giáo viên chưa phát huy hết khả năng tham gia của học
sinh vì thông thường chỉ cho các em đọc bài hội thoại có sẵn trong sách mà
không vận dụng thêm các trường hợp liên quan đến thực tế để các em thực
hành, điều này làm cho tiết luyện tập nói trở nên đơn điệu và chỉ dừng lại ở
mức độ sách giáo khoa, chưa tạo được môi trường luyện tập hiệu quả. Bên
cạnh đó , khi đối chiếu so sánh giữa kết qủa học tập và việc giảng dạy trên lớp
cũng cho thấy học sinh chưa có khả năng ứng dụng tốt các kiến thức đã học.
Trên lớp , học sinh đọc trôi chảy ,làm bài tập đúng ,trả lời câu hỏi đọc hiểu tốt
thì đã được xem như hiểu bài; thế nhưng khi yêu cầu các em ứng dụng ngữ
liệu vừa học vào tình huống mới hoặc khi làm bài kiểm tra, các em chưa thực
hiện được và ở một số lớp, đa số học sinh khá thụ động trong giờ học , không
tham gia phát biểu xây dựng bài ( trừ những em khá, giỏi).
+Từ những quan sát như trên, tôi nhận thấy các giáo viên trường Trung
học phổ thông Trần Văn Thành có sử dụng phương pháp mới nhằm tạo sự
hứng thú học tập môn Anh Văn cho học sinh nhưng kết quả thực sự chưa cao
và một phần lớn học sinh chưa có hứng thú học tập nên về chất lượng học tập
vẫn chưa tiến bộ rõ nét.
III/ MỨC ĐỘ HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN TIẾNG ANH CỦA HỌC SINH KHỐI
10 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRẦN VĂN THÀNH:
Trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu khoa học, bên cạnh việc dự

giờ một số tiết của giáo viên trong tổ bộ môn, phỏng vấn các cán bộ và giáo
viên chuyên trách cùng một vài học sinh, tôi đã không ngừng theo dõi tình hình
24


Đề tài nghiên cứu khoa học
Lý Thị Thanh Trúc
học tập của các em, trò chuyện, quan sát giờ tự học và điều tra hứng thú học
tập môn Tiếng Anh bằng cách phát phiếu câu hỏi để các em hoàn thành ( Mẫu
xem phụ lục I ). Sau khi thực hiện, tôi thu được các kết quả như sau:
+Về hứng thú học tâp bộ môn:
Qua điều tra tôi nhận thấy rằng tỉ lệ những học sinh thích và hứng thú
học môn Tiếng Anh ( 34,48%), chiếm ưu thế hơn so với những môn học khác (
Toán 31,89%, Lý 8,62% ). Tuy nhiên, qua một số biểu hiện cụ thể khác cho
thấy các em chưa thật sự yêu thích môn này. Chỉ có 28,45% học sinh thực sự
yêu thích môn Tiếng Anh so với 41,37% không thích học môn này lắm, 25%
không thích và 5,17% học sinh sợ sệt khi đến tiết học. Đa số học sinh còn thụ
động trong giờ học, các em còn thiếu tự tin và thoải mái khi tham gia phát biểu
xây dựng bài, chỉ có 11,21% học sinh hăng hái giơ tay phát biểu trong khi có
đến 52,59% chỉ có ý kiến khi được gọi và còn lại là 35,34% do sợ sai và nhút
nhát nên chỉ ngồi thụ động trong giờ học. Ngoài ra, trong các tiết tự sửa bài tập
hoặc ôn tập của các em, chỉ một bộ phận học sinh chăm chú và thực hiện
nghiêm túc, còn lại đa phần đều tỏ vẻ không hứng thú lắm và chỉ mong mau hết
thời gian để ra về. Như vậy, nhìn chung mức độ hứng thú học tập môn tiếng
Anh của học sinh nơi đây chỉ dừng lại ở mức độ khá và sự ham thích không
đồng bộ, chủ yếu tập trung vào các em học khá giỏi.
+ Về nhu cầu học Tiếng Anh của học sinh:
Từ các kết quả thu được, tôi nhận thấy hầu hết học sinh đều có nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc học tập môn Anh Văn, cụ thể có
94,83% học sinh cho rằng Tiếng Anh có vai trò rất quan trọng và cần thiết cho

quá trình hội nhập của đất nước. Bên cạnh đó, các em cũng xác định được
mục đích học Tiếng Anh là để cung cấp kiến thức cho nghề nghiệp tương lai và
giao tiếp trong xã hội (93,97%). Chỉ có một số ít học sinh (4,31%) cho rằng
không cần thiết. Tuy nhiên, từ nhận thức đến hành động vẫn còn khoảng cách
khá lớn, trên cơ sở những nhận thức đúng đắn này, các em có chủ động tìm
đến truyện hay sách báo viết bằng Tiếng Anh ( 44,83%), nghe nhạc, tiếng Anh
để giải trí đồng thời luyện nghe (14,06% rất thích; 25,86% thích; 42,24% thỉnh
thoảng có nghe). Các em cũng có nhu cầu tìm hiểu thông tin thế giới thông qua
việc truy cập vào các trang web bằng tiếng Anh nhưng có lẽ vì phương tiện này
chưa được phổ biến, chủ yếu tập trung ở khu vực chợ trung tâm của thị trấn
nên chỉ có 2,58 % học sinh thường xuyên truy cập, còn lại là 17,24 % học sinh
25


×