Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Anh (chị) hãy vận dụng những kiến thức đã học trong các chuyên đề lý luận của triết học Mác – Lênin, từ đó vạch ra những bài học phương pháp luận có thể vận dụng được vào trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.29 KB, 9 trang )

tiểu luận triết học
đề bài:

Anh (chị) hãy vận dụng những kiến thức đã học trong các chuyên đề lý luận
của triết học Mác Lênin, từ đó vạch ra những bài học phơng pháp luận có thể vận
dụng đợc vào trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn?

Bài làm:
Triết học đã ra đời từ rất sớm, dù ở phơng Đông hay phơng Tây đều coi triết
học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt đợc
chân lý, đợc quy luật, đợc bản chất của sự vật.
Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết học.
Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có các điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống
triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét thế giới trong tính chỉnh
thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và
bản thân con ngời. Khái quát lại, có thể cho rằng: triết học là một hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con ngời về thế giới, về bản thân con ngời và vị trí của con ngời
trong thế giới đó.
Quá trình phát triển lâu dài của triết học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
và gồm nhiều trờng phái triết học khác nhau. Trong đó, tiến bộ và toàn diện nhất
1


chính là triết học Mác Lênin. Triết học Mác Lênin giải quyết vấn đề mối quan
hệ giữa vật chất với ý thức trên lập trờng duy vật, nghiên cứu những quy luật chung
nhất của tự nhiên xã hội và t duy, từ đó định hớng cho hoạt động nhận thức, hoạt
động thực tiễn của con ngời nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội theo con đờng tiến
bộ. Triết học Mác Lênin đã xây dung nên phơng pháp luận biện chứng duy vật, đó
là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc
xác định phơng pháp cũng nh trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng phơng
pháp hợp lý có hiệu quả tối đa. Phép biện chứng duy vật phản ánh các mối liên hệ,


các quy luật chung nhất về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội, t duy; đóng
vai trò là phơng pháp luận chung nhất cho sự phát triển của các ngành khoa học, đáp
ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại và hoạt động thực tiễn.
Từ những kiến thức đã đợc học trong các chuyên đề lý luận của triết học Mác
Lênin, ta có thể rút ra nhiều bài học phơng pháp luận để vận dụng vào trong quá
trình hoạt động nhận thức cũng nh hoạt động thực tiễn.
Bài học thứ nhất: Tôn trọng thực tiễn khách quan. Tôn trọng khách quan là tôn
trọng vai trò quyế định của vật chất. Điều này đòi hỏi trong nhận thức và hành động
con ngời phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phơng tiện
cho hành động của mình. Để đảm bảo nguyên tắc tôn trọng khách quan thì mọi mục
đích, đờng lối, chủ trơng con ngời đặt ra không đợc xuất phát từ ý muốn chủ quan mà
phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu chín muồi và tính tất yếu của đời sống vật
chất trong từng giai đoạn cụ thể. Chỉ có những mục đích, đờng lối, chủ trơng xuất
phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu và tính tất yếu của hiện thực mới đúng và mới có
khả năng trở thành hiện thực. Ví dụ: mỗi học viên học cao học, để tốt nghiệp thì mỗi
ngời sẽ phải hoàn thành một bản luận văn, luận văn đó rất có ý nghĩa đối với mỗi học
viên, nó là tổng hợp các kiến thức trong quá trình học tập và nghiên cứu cùa mình.
Khi lựa chọn đề tải thì ta cần phải xét xem đề tài của mình làm có ý nghĩa thực tiễn
hay không, có phù hợp với thực tế khách quan hay không, có đáp ứng đợc nhu cầu
thực tế hay không, vì nếu không xem xét đến những vấn đề đó sẽ dẫn đến xa rời thực
tế, không có ý nghĩa thực tế, đề tài cho dù đợc ngời học viên thấy hay, thấy thích, nhng nó chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan của ngời học viên, do vậy vi phạm nguyên
tắc tôn trọng khách quan, những đề tài đó sẽ khó có khả năng trở thành hiện thực và
nh vậy, công sức nghiên cứu bỏ ra của ngời học viên đó sẽ không có ý nghĩa.
Để đảm bảo nguyên tắc tôn trọng khách quan thì khi đã có mục đích, đờng lối,
chủ trơng đúng, phải tổ choc đợc lực lợng vật chất để thực hiện nó. Mục đích, đờng
lối, chủ trơng, thuộc lĩnh vực t tởng. Tự bản thân t tởng không thể trở thành hiện thực
mà phải thông qua hoạt động của con ngời. Mặt khác, khi lịch sử đặt ra cho con ngời
những nhiệm vụ phải giải quyết thì nó cũng đã sản sinh ra những điều kiện vật chất
để giải quyết nhiệm vụ đó nên vấn đề trọng yếu trớc tiên, quyết định con ngời thành
công hay thất bại là con ngời có tìm ra, có huy động đợc, có tổ chức đợc những yêu

tố vật chất thành lực lợng vật chất để thực hiện mục đích, đờng lối, chủ trơng của
mình hay không.
Thời kì chiến tranh, chúng ta đã rất thành công trong việc huy động, tổ chức
sức mạnh của mỗi ngời, mỗi vùng và sức mạnh của cả nớc; sức mạnh trong và ngoài
nớc; sức mạnh của quá khứ, hiện tại, tơng lai tạo nên một lực lợng vật chất khổng lồ
của chiến tranh nhân dân, đánh bại những thế lực hơn chúng ta nhiêu lần về tiềm lực
kinh tế và quân sự để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Ngày nay, với
qwuan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng , chúng ta xác định: Động lực
chủ yếu để phát triển đất nớc là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực của các thành phần kinh
tế và của toàn xã hội cũng chính là tạo lực lợng vật chất để thực hiện nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới.
Bài học thứ hai: Phát huy tính năng động chủ quan của con ngời. Phát huy tính
năng động chủ quan là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát
huy vai trò nhân tố con ngời trong việc vật chất hóa những tính chất ấy. Phát huy tính
năng động chủ quan biểu hiện rất đa dạng và phong phú. Phát huy tính năng động
chủ quan là phải tôn trọng tri thức khoa học. Tri thức khoa học là tri thức trân thực về
thế giới, đợc khái quát từ thực tiễn và đợc thực tiễn kiểm nghiệm. Tri thức khoa học
giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của cón ngời vì nó là một trong những
2


động lực phát triển xã hội. Mọi bớc tiến trong lịch sử nhân loại đều gắn liền với
những thành tựu mới của tri thức khoa học. Trí thức khoa học thể hện trong các khoa
học khác nhau phản ánh những lĩnh vực khác nhau của thề giới, song bản thân các
lĩnh vực khác nhau này không tồn tại cô lập, tách rời nhau nên tri thức khoa học phản
ánh chúng cũng không cô lập, tách rời nhau. Việc phân chia thành khoa học tự
nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội, khoa học nhân văn hay khoa học cơ
bản, khoa học ứng dụng, chỉ có tính tơng đối. Vì vậy, tôn trọng trí thức khoa học

không chỉ là chống sự tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, xem thờng khoa học mà
còn là không tuyệt đối hóa một loại khoa học nào đó trong hệ thống các khoa học.
Đây là tiền đề giúp con ngời không chỉ hoạt động có hiệu quả trong ngành nghề của
mà còn giúp con ngời thực hiện hoạt động ấy theo những giá trị nhân văn của xã hội.
Nhận thực sâu sắc tầm quan trọng của khoa học trong bối cảnh phức tạp của thế giới
hiện nay, đối với cách mạng Việt Nam, Đảng và nhà nớc ta khẳng định giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu trong đó, Nền giáo
dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học,
hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác Leenin và t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng nhằm
mục đích đào tạo những con ngời toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, them mỹ
và nghề nghiệp, trung thành vời lý tởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với khoa học, Đảng và Nhà nớc chủ trơng thực
hiện cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên,
khoa học công nghệ Phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học
và công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng và
tôn vinh nhân tài, kể cả ngời Việt Nam ở nớc ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện
cho mở rộng giao lu và hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, thu hút chuyên gia
giỏi của thế giới đóng góp vào sự phát triển của đất nớc bằng nhiều hình thức thích
hợp.
Để phát huy tính năng động chủ quan còn cần phải làm chủ tri thức khoa học
và truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định
hớng cho quần chúng hành động. Từ tôn trọng tri thức khoa học đến làm chủ đợc tri
thc khoa học là một quá trình. Việc vơn lên làm chủ trí thức khoa học là một quá
trình. Việc vơn lên làm chủ tri thức khoa học không chỉ liên quan đến quan niệm của
con ngời về khoa học mà còn liên quan đến năng lực, nghị lực, quyết tâm của con ngời và những điều kiện vật chất để thực hiện nó. Mặt khác, sức mạnh và hiệu quả của
các tri thức khoa học phục thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào quần chúng, nên
sự thâm nhập này trở thành một trong những điều kiện trực tiếp để phát huy vao trò
nhân tố con ngời trong hoạt động vật chất hóa tri thức. Vơn lên làm chủ tri thức khoa
học, truyền bá tri thức khoa học là hoạt đọng vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính

xã hội và liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống. ở nớc ta hiện nay, việc khơi
dậy trong nhân dân lòng yêu nớc, ý chí quật cờng, phát huy tài năng của ngời Việt
Nam, quyết tâm đa nớc nhà thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu, việc đầu từ có trọng
điểm trong hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học; việc chủ trơng xã hội hóa giáo
dục để cả nớc trở thành một xã hội học tập, chủ trơng sử dụng tối u những phơng
tiện thông tin đại chúng cũng nh đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền; việc động
viên các nhà khoa học bám sát cơ sở sản xuất, hớng dẫn nhân dân nắm bắt và làm
chủ những tri thức mới về khoa học và công nghệ mà Đảng, Nhà nớc và toàn dân
đang tiến hành là những hoạt động sống động về việc phát huy tính năng động chủ
quan phù hợp với yêu cầu và điều kiện của xã hội hiện đại.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa là những ý nghĩa
phơng pháp luận cơ bản, vừa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt động
thực tiễn. Những yêu cầu này khác nhau nhng thống nhất và quan hệ hữu cơ với nhau
nên hoạt động của con ngời chỉ đạt hiệu quả tối u khi thực hiện chúng đồng bộ và
chống lại những quan điểm, những biểu hiện đối lập với chúng.
Bài học thứ ba: Cần phải toàn diện trong nhận thức và thực tiễn. Ton diện
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc phơng pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ sở lý luận của
nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi
hỏi, muốn nhận thức đợc bản chất của sự vật, hiện tợng chúng ta phải xem xét sự tồn
tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau
3


trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tợng khác; tránh xem xét phiến diện một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từ mặt, từng mối liên hệ và phải
nắm đợc đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tợng; tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ;
tránh sai lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản
chất thành bản chất hoặc ngợc lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất
sự vật, hiện tợng. Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phơng

pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có
thể có của sự vật, hiện tợng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tợng
trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính, cùng cac mối liên hệ của chúng. Mốn thực sự hiểu đợc sự vật, cần phải nhìn
bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp
của sự vật đó, phải tính đến tổng hòa những mối quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với
những sự vật khác. Tuy nhiên, theo Lênin, chúng ta không thể làm đợc điều đó hoàn
toàn đầy đủ, nhng sự cầ thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng không phạm
sai lầm và cứng nhắc. Sở dĩ chúng ta không làm đợc điều đó hoàn toàn đầy đủ bởi
trong quá trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tợng phải trải qua nhiều giai đoạn
tồn tại, phát triển khác nhau, trong mỗ giai đoạn đó không phải lúc nào sự vật, hiện tợng cũng bộc lộ tất cả các mối liên hệ bên trong và bên ngoài của nó. Hơn nữa, tất cả
những mối liên hệ ấy chỉ đợc biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định. Và bản
thân con ngời, những chủ thể nhận thức với những phẩm chất và năng lực của mình
luôn bị chế ớc bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó không thể bao quát đợc hết
những mối liên hệ bên trong và bên ngoài các sự vật hiện tợng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức đợc sự vật, hiện tợng chúng ta
cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con ngời. Mối liên hệ
giữa sự vật, hiện tợng với nhu cầu của con ngời rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh
nhất định, con ngời chỉ phản ảnh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tợng phù
hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con ngời về sự vật, hiện tợng
mang tính tơng đối, không đầy đủ, trọn vẹn. Nắm đợc điều đó sẽ tránh tuyệt đối hóa
những tri thức đã có về sự vật, hiện tợng và tránh coi những tri thức đã có là những
chân lý bất biến, tuyệt đối, cuối cùng về sự vật, hiện tợng mà không bổ xung, phát
triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự
vật, hiện tợng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có nh vậy
mới thấy đợc vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng nh của toàn bộ quá trình
vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tợng. Theo Lênin,
phép biện chứng đòi hỏi ngời ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan
hệ trong sự phát triển cụ thể của các mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở
chỗ này, một mẩu ở chỗ kia. Nh vậy xem xét toàn diện nhng không bình quân, dàn

đều mà có trọng tâm, trọng điểm, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối
liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
của sự vật, hiện tợng để khái quát, rút ra mối liên hệ chủ yếu nhất, bản chất nhất,
quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của chúng.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với
chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Chủ nghĩa chiết trung cũng chú ý đến nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tợng nhng không rút ra đợc bản chất, mối liên
hệ cơ bản của sự vật, hiện tợng, mà xem bình quân, kết hợp vô nguyên tắc các mối
liên hệ khác nhau, tạo thành một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng tong, mất
phơng hớng và bất lực trớc chúng. Thuật ngụy biện đa cái không cơ bản thành cái cơ
bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy
biện đều là những biểu hiện của phơng pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự
vật, hiện tợng. Sự khác nhau giữa chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện với phép
biện chứng duy vật nằm ở chỗ, nếu thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung áp dụng
chủ quan tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái niệm thì phép biện chứng
duy vật phản ánh sự vận động, phát triển trong tính toàn diện của quá trình vật chất
và sự thống nhất của quá trình đó. Từ đó ta thấy, logíc của quá trình hình thành quan
điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật, hiện tợng sẽ phải trải qua nhiều giai
đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức mỗi mặt, mối
liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tợng rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
4


của sự vật, hiện tợng đó và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để
rút ra tri thức về bản chất của sự vật, hiện tợng.
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng bộ
trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tợng phải áp dụng đồng
bộ một hệ thống các biện pháp, các phơng tiện khác nhau để tác động làm thay đổi
các mặt, các mối liên hệ tơng ứng của sự vật, hiện tợng. Song trong từng bớc, từng
giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lợng giải quyết.

Trớc đây, trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ, trên cơ sở phân tích toàn diện
bản chất xã hội Việt Nam là thuộc địa nửa phong kiến, Đảng ta chỉ rõ hai mâu thuẫn
cơ bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà trớc hết là nông dân
với giai cấp địa chủ, phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân với đế quốc
xâm lợc và bọn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần tập chung lực lợng giải quyết, sau đó giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ nhân dân dới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn vẹn. Ngày
nay, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nớc theo
định hớng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả lĩnh
vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình đổi mới vừa qua đã chứng minh
tính đúng đắn của những quan điểm đó.
Trong mọi hoạt động cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Việc nghiên cứu
trong các ngành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngợc lại phải trong mối liên
hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có nhiều sự vật, hiện tợng đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lính vực xã hội, nguyên tắc toàn
diện cũng có vai trò quan trọng. Chúng ta không thể hiểu đợc bản chất một hiện tợng
xã hội nếu tách rời nó ra khỏi những mối liên hệ, những tác động qua lại với các hiện
tợng xã hội khác. Trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới của cách
mạng Việt Nam hiện nay, nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ tác động,
sẽ không đánh giá đúng đắn tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất nớc trong từng giai
đoạn cụ thể và do vậy không đánh giá hết những khó khăn, những thuận lợi trong
việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nớc theo mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.
Bài học thứ t: Phát triển trong nhận thức và thực tiễn. Phát triển cũng là một
trong các nguyên tắc phơng pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát
triển của phép biện chứng duy vật. Theo đó, phát triển là sự vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển
là một trờng hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phơng thức tồn

tại và vận động của sự vật, hiện tợng cùng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn
thiện hơn. Do vậy, để nhận thức đợc sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tợng
chúng ta phải thấy đợc sự thống nhất giữa sự biến đổi về lợng với sự biến đổi về chất
trong quá trình phát triển; phải chỉ ra đợc nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là
tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn; phải xác định xu hớng phát triển của sự vật,
hiện tợng do sọ phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời
của sự vật, hiện tợng mới; sự vật, hiện tợng mới ra đời phù hợp với quy luật vận động
và phát triển, bởi vậy phải ủng hộ cải mới, cái tiến bộ.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu khi xem xét sự vật, hiện tợng, phải đặt nó trong
trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tợng
trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy đợc khuynh hớng phát triển của nó trong tơng lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tợng, khái
quát những hình thức biểu hiện của sự biến đổi đó để tìm ra khuynh hớng biến đổi
chính của nó. Để xem xét sự vật, hiện tợng trong sự vận động và phát triển; để phát
hiện ra các quy luật quy định sự chuyển hóa về chất của nó; để xem xét sự vật, hiện tợng trong giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác, cần chỉ ra nguồn
gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn. Điều quan trọng là phải xem xét sự vật,
hiện tợng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập; phát hiện những khuynh hớng
mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa các khuynh hớng ấy. Điều kiện
của một sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới trong sự tự vận động của
5


chúng, trong sự phát triển tự phát của chúng, trong đời sống sinh động của chúng là
sự nhận thức chúng với tính cách là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Cách xem xét sự vật, hiện tợng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập; phát
hiện những khuynh hớng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa những
khuynh hớng ấy có vai trò quan trọng không những trong nhận thức sự vật, hiện tợng
với tính cách là đối tợng nhận thức đang vận động, phát triển, mà còn có vai trò quan
trọng trong việc giải thích toàn bộ sự đa dạng của các thuộc tính khác và đối lập nhau
vốn có trong các trạng thái khác nhau về chất của chúng; có va trò quan trọng để chỉ
ra những chuyển hóa từ trạng thái về chất này sang trang thái về chất khác và sang

mặt đối lập với nó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải
qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức
khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức tác động
phù hợp hoặc để thúc đẩy, hoặc để hạn chế sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải nhạy cảm với cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó
phát triển thay thế cái cũ; phải chống lại quan điểm bảo thủ trì trệ Sự thay thế cái
cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ,
chiến thắng cái cũ. Trong quá trình đó, nhiều khi cái mới hợp quy luật thất bại tạm
thời, tạo nên con đờng phát triển quanh có, phức tạp. Nhận thức đợc nh vậy sẽ vững
tin ở cái mới, tìm mọi cách vợt qua mọi cản trở trên cón đờng phát triển, tạo điều
kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ. Trong quá trình thay thế cái cũ phải biết kế thừa
dới dạng lọc bỏ và cái tạo yếu tố tích cực đã đạt đợc, phát triển sáng tạo chúng trong
cái mới.
Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về con đờng tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở nớc ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở phân tích xu h ớng
phát triển của thời đại và điều kiện cụ thể của nớc ta, Đảng ta luôn kiên định con đờng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh. Nớc ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất
nhỏ, tụt hậu quá xa so với nhiều nớc trên thế giới, vì vậy phải đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng ta luôn chú ý đến
vấn đề xã hội, từng bớc giải quyết vấn đề công bằng xã hội, đồng thời phải bảo vệ
môi trờng nhằm đảm bảo phát triển một cách bền vững.
Trong suốt thời kỳ quá độ, cũng nh từng giai đoạn phát triển của đất nớc, Đảng
ta luôn chú ý phát hiện ra các mâu thuẫn và tìm ra phơng hớng giải quyết mâu thuẫn
để phát triển đất nớc. Trong thời kỳ quá độ là một thời kỳ đấu trành phức tạp của dân
tộc ta với các thế lực thù địch, là thời kỳ đấu tranh giữa cái mới với cái cũ và cái mới
sẽ từng bớc chiến thắng cái cũ. Đảng ta cũng xác định động lực phát triển đất nớc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về nội lực, là đại đoàn kết toàn dân, trên

cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và độ ngũ trí thức do Đảng ta lãnh đạo; là
kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; phát huy mọi tiềm năng và các
tiềm lực của các thành phần kinh tế. Về ngoại lực, là sức mạnh của thời đại, sức
mạnh đoàn kết quốc tế. Trong đó nội lực quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết
với nhau thành sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nớc.
Bài học thứ năm: cần thực hiện nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nhận thức và
thực tiễn. Nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nhận thức và thực tiễn cũng là một trong
những nguyên tắc phơng pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Đặc trng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình thành,
tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tợng trong điều kiện, môi trờng cụ thể, hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Điểm xuất phát của nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nhận thức
và thực tiễn là sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tợng diễn ra trong
không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác
nhau thì các mối liên hệ, hình thức phát triển của sự vật, hiện tợng cũng khác nhau,
bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong xuốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng
trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau đó.
Theo triết học Mác-Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế
giới khách quan trong quá trình lịch sử cụ thể của từng sự phát sinh, phát triển,
chuyển hoá của sự vật, hiện tợng; biểu hiện tính lịch sử - cụ thể của sự phát sinh và
6


các giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tợng. Mỗi sự vật, hiện tợng đều có quá trình
phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể,
bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau, trong không gian và theo thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử
- cụ thể đòi hỏi để nhận thức đầy đủ đợc sự vật, hiện tợng, chúng ta phải xem xét sự
vật, hiện tợng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hoá trong các hình thức
biểu hiện, với những bớc quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình
tồn tại của sự vật, hiện tợng trong không gian và thời gian cụ thể; găn với điều kiện,

hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tợng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tợng trong sự vận động và phát triển trong từng giai
đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn là yếu tố quan tang nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch
sử cụ thể. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đợc Lênin nêu rõ và cô đọng, xem xét mỗi
vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tợng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử
nh thế nào, hiện tợng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng
trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành nh thế nào.
Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tợng,
trong sự vận động, trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tạo lại đợc sự phát triển
của sự vật, hiện tợng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ
của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tợng xuyên qua lăng kính của
những ngẫu nhiên lịch sử, những bớc quanh co, những gián đoạn theo trình tự không
gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là nó mô tả sự
kiện cụ thể theo trình tự nghiệm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tợng. Giá trị của
nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ nó mà có thể phản ánh đợc sự vận động lịch sử phong
phú đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tợng để qua đó, nhận
thức đợc bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức đợc vận động có tính phổ
biến, là phơng thức tồn tại của vật chấ, nghĩa là phải nhận thức đợc sự vận động làm
cho sự vật, hiện tợng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhật định và hình thức
của vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ đợc những giai đoạn cụ thể mà
nó đã trải qua trong giai đoạn phát triển cụ thể của mình; phải biết phân tích mỗi tình
hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải
thích đợc những thuộc tính, những mỗi liên hệ tất yếu, những đặc trng chất và lợng
vốn có của sự vật, hiện tợng.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn
ra trong sự vật, hiện tợng, nhận thức những trạng thái chất lợng thay thế nhau, mà
còn yêu cầu chỉ ra đợc các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của
sự vật, hiện tợng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoà thành sự vật,

hiện tợng mới thông qua sự phủ định, chỉ ra đợc rằng, thông qua phủ định của phủ
định, sự vật, hiện tợng mới là sự kế tục sự vật, hiện tợng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện
tợng cũ trong dạng đã đợc lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tợng mới. Nh
vậy, chỉ khi đã tìm đợc mối liên hệ khách quan tất yếu giữa các trạng thái chất lợng,
tạo nên lịch sử hình thành và phát triển các sự vật, hiện tợng đang nghiên cứu; tạo
nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hoá của nó, quy định giai đoạn phát
triển này sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hoá
thành trạng thái khác hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các
đặc trng chất lợng và số lợng đặc thù của nó, nhận thức đợc bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tợng
trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể
của sự vật, hiện tợng trong quá trình hình thành và phát triển cũng nh diệt vong của
chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tợng và từ đó mới có
định hớng đúng cho hoạt động thực tiễn của con ngời. Đối với việc nghiên cứu quá
trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phục thuộc
của quá trình đó vào sự phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và
thành tựu khoa học trớc đó.
Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử cụ thể nói riêng
và các nguyên tắc khác nói chung, nhng nguyên tắc lịch sử cụ thể không kết hợp
các sự kện rêng lẻ, mô tả các sự kiện mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả
7


giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa, vai trò của chúng
để tạo nên bức tranh khoa học về quá trình lịch sử.
Nhận thức sự vật, hiện tợng theo nguyên tắc lịch sử cụ thể là cần thấy các
mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng nh trong các không gian tồn
tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trng của sự vật, hiện tợng; tránh
khuynh hớng giáo điều, chung chung, trừu tợng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề
phòng khunh hớng tuyệt đối hoá tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tợng trong cả

quá trình vận động biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tợng là điều tất
yếu.
Khái quát từ góc độ lịch sử, Mác và Ăngghen cho rằng, cách mạng xã hội chủ
nghĩa chỉ có thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả hoặc ở các nớc t bản chủ nghĩa tiên
tiến. Khi chủ nghĩa t bản đã biến đổi, phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
quan điểm đó của Mác và Ăngghen đợc Lênin phát triển bằng quan điểm cách mạng
xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi trớc tiên ở một hoặc vài nớc, ở khâu yếu nhất
của chủ nghĩa t bản. Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta
đã lựa chọn con đờng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta đề ra đờng lỗi xây dựng nền kinh tế thị trờng, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; u tiên phát triển lực lợng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hớng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trởng kinh tế đi liền với văn hoá, từng
bớc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trờng; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cờng an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Các nguyên tắc phơng pháp luận của phép biện chứng duy vật thống nhất chặt
chẽ với nhau. Sự thống nhất giữa các nguyên tắc phơng pháp luận của phép biện
chứng duy vật là chúng đều đợc rút ra từ nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện
chứng duy vật, phản ánh sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và t duy. Sự
khác nhau giữa chúng là một nguyên tắc đợc rút ra từ sự phản ánh từng mặt nhất định
của hiện thực. Mỗ một nguyên tắc có thể đợc xây dựng trên cơ sở không phải của
một mà có thể của vài nguyên lý, phạm trù, quy luật, nên khi vận dụng các nguyên
tắc phơng pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật, điều quan trọng nhất là
phải nhận thức đợc chúng trong mối liên hệ hữu cơ với nhau ở các giai đoạn phát
triển của nhận thức và thực tiễn.
Bài học thứ năm: cần thống nhất giữa lý luận và thực tiễn . Sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con ng ời với thế giới khách quan.

Con ngời luôn luôn tác động tích cực vào thế giới khách quan tự nhiên và xã hội,
cải biến thế giới khách quan và thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức
của con ngời và sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy
định sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và
cộng đồng. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Thực tiễn phải đợc chỉ đạo bởi lý luận; ngợc lại lý luận phải đợc vận dụng vào thực
tiễn, tiếp tục bổ xung và phát triển trong thực tiễn. Lý luận phải luôn luôn bám sát
thực tiễn, phản ánh đợc yêu cầu của thực tiễn, khái quát đợc những kinh nghiệm của
thực tiễn. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận
chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Lý luận đợc hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn là mục địch cho hoạt động
thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử luôn đợc lý luận khái
quát. Chín vì lý luận phản ánh thực tiễn dới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở
thành phơng pháp luận cho thực tiễn. Từ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, ta cần phải khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều, bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn. Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hoá những kinh nghiệm
thực tiễn trớc đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay
đổi. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả, một mặt phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng cờng
học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ xung vận dụng lý luận phù hợp thực tiễn. Trái
8


với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hoá lý luận, tuyệt đối hoá kiến
thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách
máy móc, không tính toán đến điều kiện lịch sử cụ thể mỗi nơi mỗi lúc. Để khắc
phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Lý luận phải luôn gắn liền với thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn,
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển

sáng tạo cùng với thực tiễn.
Trên đây là mộ số bài học phơng pháp luận rút ra từ các chuyên đề lý luận của
triết học Mác Lênin, những bài học này có nghĩa rất quan trọng, nếu đợc vận
dụng một cách đúng đắn vào trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn sẽ tạo đợc hiệu quả rất to lớn. Nghiên cứu một cách sâu sắc triết học Mác
Lênin sẽ còn giúp ta có đợc nhiều bài học hơn nữa phục vụ cho các hoạt động nhận
thức, hoạt động thực tiễn của con ngời, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, những bài
học phơng pháp luận của triết học Mác Lênin sẽ giúp định hớng cho ta luôn đi
theo con đờng đúng đắn.

9



×