Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Tài liệu về văn hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.74 KB, 79 trang )

T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN

MỤC LỤC :
*****


Văn hóa là hệ thống các biểu tượng thông tin
– Tr 2 –



Biểu tượng là “đơn vị cơ bản” của văn hóa
– Tr 16 –



Đi tìm bản sắc văn hóa thông qua hệ thống các biểu tượng
– Tr 32 –



Về mối quan hệ tương tác giữa Văn minh và Văn hóa
– Tr 39 –



Văn hóa học là 1 khoa học liên ngành
– Tr 51 –




Một số vấn đề về nghiên cứu và đào tạo Văn hóa học tại
trường Đại học Văn hóa Hà Nội
– Tr 63 –

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 1


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN

VĂN HÓA LÀ HỆ THỐNG CÁC BIỂU TƯỢNG
- THÔNG TIN XÃ HỘI
TS. Nguyễn Văn Hậu
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Có nhiều cách tiếp cận văn hoá là do đứng ở nhiều góc độ khác nhau để
nghiên cứu về lĩnh vực này, từ cách tiếp cận văn hoá theo kiểu "tinh thần
luận", "nhận thức luận" cho đến kiểu "thao tác luận"v.v... Mỗi phương pháp
tiếp cận lại có nhiều quan niệm, nhiều cách định nghĩa về văn hoá khác nhau.
Song, nhìn chung những quan niệm khác nhau đó đều bộc lộ một điểm chung
nhất - Văn hoá là lớp thăng hoa trên cái tự nhiên, của con người và xã hội loài
người.
Dưới góc độ của xã hội học thì văn hoá là sản phẩm của con người, là quan
niệm về cuộc sống, tổ chức cuộc sống và là toàn bộ cách ứng xử của con người
trong cuộc sống đó. Văn hoá chính là điểm hội tụ sáng nhất, là tinh hoa của trí tuệ
loài người. Nó là cái để phân biệt giữa con người với con vật.
Văn hoá được xem là một lĩnh vực đặc biệt của đời sống xã hội. Nó là trung
tâm định hướng giá trị và điều tiết mọi hoạt động của con người, đồng thời còn là
quá trình "nhân hoá" chính bản thân con người trong đời sống xã hội.

Ngày nay, có hàng trăm cách xác định khoa học về văn hoá và nó được tiếp
cận từ nhiều lĩnh vực khoa học, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Điều đó cho
thấy các nhà khoa học đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề văn hoá.
Qua lăng kính của xã hội học văn hoá và bằng phương pháp tiếp cận hệ thống
để xem xét về bản chất xã hội của văn hoá ta có thể hình dung ra một số nhóm tiếp
cận văn hoá khác nhau như sau.

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 2


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
Nhóm một: Văn hoá như là thuộc tính bản chất của đời sống xã hội.
a. Văn hoá là một thuộc tính của xã hội - Quá trình xã hội hoá cá nhân.
Trường phái tâm lý học - xã hội cho rằng văn hoá như là quá trình xã hội hoá
cá nhân trong đời sống xã hội. Quan điểm này đã nhấn mạnh vào tính chất di
truyền xã hội, chính là khả năng học tập của con người. Nhiệm vụ chính của xã hội
là phải định hướng và đưa mỗi cá nhân với tư cách là thành viên của nhóm hội
nhập vào nền văn hoá chung của toàn xã hội. Kênh quan trọng nhất của quá trình
này chính là kênh giáo dục.
Ruth Bennedict đã nhận định rằng: "Văn hoá là lối sống mà con người học
được chứ không phải là sự kế thừa sinh học” (1).
b. Văn hoá là một thuộc tính của nhân cách - Quá trình cá nhân hoá xã
hội.
Quan niệm của tâm lý học - xã hội cũng khẳng định nhân cách chính là bản
chất của con người có trong đời sống xã hội và coi văn hoá như là một thuộc tính
của nhân cách.
Jean Ladriere cho biết: "Văn hoá là toàn thể những môn học cho phép một cá
nhân trong một xã hội nhất định, đạt tới một sự phát triển nào đó về cảm năng, về

ý thức phê phán và các năng lực nhận thức, các khả năng sáng tạo, nói gọn lại là
đạt tới một sự nẩy nở nào đó nhân cách của hắn"(2).
Nhóm hai: Văn hoá như là một dạng hoạt động của đời sống xã hội.
a. Văn hoá là các dạng hoạt động trong hệ thống xã hội tổng thể.
Quan niệm của xã hội học đã coi văn hoá như là mặt cắt ngang của hệ thống
xã hội tổng thể. Qua đó nhìn ra được toàn bộ sự vận động và những mối tương tác
có trong đời sống xã hội. Nói khác đi quan niệm này đã xem hệ thống xã hội như là
hệ thống văn hoá.
Nhà xã hội học Herskovist trong cuốn "Man and his work" cho rằng "Văn hoá
là lối sống của một tập đoàn người và xã hội là tập thể được tổ chức bởi các cá
nhân tuân theo lối sống đó. Nói rõ hơn thì xã hội là tổ chức của con người, còn
những hoạt động của họ là văn hoá" (3).

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 3


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
V. Dobrianốp nhà xã hội học Mácxít, người Bungaria cũng nhận định rằng:
Bất cứ một xã hội nào cũng tồn tại bởi ba yếu tố hợp thành nên hệ thống tương tác
xã hội, đó là: Hoạt động xã hội - Chủ thể xã hội - Quan hệ xã hội.
- Những dạng hoạt động xã hội cơ bản là: Hoạt động tái sản sinh ra loài Hoạt động sản xuất vật chất - Hoạt động sản xuất tinh thần - Hoạt động giao tiếp Hoạt động điều tiết (quản lý).
- Chủ thể xã hội bao gồm: Cá nhân - Nhóm - Thể chế xã hội - Xã hội tổng thể.
- Quan hệ xã hội gồm có: Quan hệ sản xuất - Quan hệ tiêu dùng - Quan hệ
trao đổi - Quan hệ phân phối (4)
b. Văn hoá là một dạng hoạt động đặc thù - Hoạt động sáng tạo ra các
sản phẩm văn hoá mang tính biểu tượng.
Theo quan niệm của Đoàn Văn Chúc thì văn hoá được xem như một dạng
hoạt động xã hội đặc biệt - Hoạt động rỗi - Hoạt động sản xuất và tiêu dùng các

"Tác phẩm văn hoá" mang tính biểu tượng, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của
con người trong đời sống xã hội.
Quan niệm này cho rằng: Trong bất kỳ thời đại nào, con người cũng đều dùng
thời giờ cho bốn loại hoạt động sau đây:
1- Những hoạt động thuộc lao động sản xuất để bảo đảm sự sống còn cho cá
nhân và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người (hoạt động làm việc).
2- Những hoạt động thuộc quan hệ giao tiếp cá nhân trong đời sống xã hội.
Đó là bổn phận xã hội của mỗi cá nhân (hoạt động giao tiếp).
3- Những hoạt động thoả mãn nhu cầu vật chất của con người (hoạt động sinh
hoạt).
4- Những hoạt động thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người (hoạt động vui
chơi - giải trí).
Loại hoạt động thứ tư là dạng hoạt động diễn ra không nhiều trong ngày. Đó
là thời giờ còn lại của mỗi người sau khi đã hoàn thành ba loại hoạt động trên. Đó
là loại hoạt động mà cá nhân được hoàn toàn tự do lựa chọn theo sở thích để thực
hiện nhằm thoả mãn nhu cầu giải trí - tái sáng tạo ra các giá trị văn hoá. Về tính

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 4


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
chất, có thể gọi là hoạt động này là hoạt động rỗi - Hoạt động giải trí, nó diễn ra
trong khoảng "thời gian rỗi" của mỗi người (5).
Marx là người đầu tiên nhận thấy thời giờ rỗi là nơi đem lại giá trị cho con
người. Marx viết: "Tiết kiệm thì giờ lao động là tăng thêm thì giờ tự do, tức là
thì giờ dành cho sự phát triển toàn diện của cá nhân, sự phát triển tác dụng trở
lại sức lao động và làm tăng sức lao động. Về phương diện sự sản xuất trực tiếp,
thì giờ tiết kiệm được có thể coi là dùng để sản xuất ra vốn cố định, một vốn cố

định làm nên con người". (Cơ sở của sự phê phán khoa kinh tế chính trị, nhà xuất
bản Anthropos, Paris, 1967, tr.229 bản tiếng Pháp)(6).
Bản chất của thời giờ rỗi là thời gian của sự hồi suy tái sáng tạo. Trong khuôn
khổ của nhu cầu giải trí thì hình thức mang vác sự hồi suy là các "tác phẩm văn
hoá" mang tính biểu tượng. Sự hồi suy là sự tự biểu hiện bản thân mình vào đời
sống xã hội và điều đó mang lại sự thoả mãn nhu cầu sáng tạo - nhu cầu văn hoá
của mỗi cá nhân với tư cách là thành viên sáng tạo của đời sống xã hội. Văn hoá
được xem là hoạt động rỗi trong thời giờ rỗi.
Nhóm ba: Văn hoá như là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do
loài người sáng tạo ra.
Quan niệm triết học về văn hoá đã nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của con
người trong lịch sử hình thành nên "hệ giá trị xã hội" và xem "hệ giá trị" như là
cột trụ của văn hoá.
"Văn hoá là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần được nhân loại sáng tạo ra
trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, các giá trị ấy nói lên trình độ
phát triển của lịch sử loài người" (7).
Theo các nhà triết học thì văn hoá là toàn bộ hệ thống các giá trị - xã hội do
con người sáng tạo nên và theo nghĩa rộng nhất người ta có thể cho rằng bất cứ
một thứ gì do con người làm ra đều thuộc về văn hoá. Với nhận thức như vậy thì
văn hoá bao gồm cả hai lĩnh vực: Lĩnh vực văn hoá tinh thần như tư tưởng, ngôn
ngữ, tín ngưỡng - tôn giáo, nghệ thuật, thi ca, ứng xử .v.v.. thuộc về giá trị tinh thần.
Còn lại là lĩnh vực văn hoá vật chất như nhà cửa, đường xá, cầu cống, quần áo, đèn,
quạt, bàn ghế v.v.. và các đồ dùng vật chất khác đều thuộc giá trị vật chất. Cả hai
lĩnh vực này của văn hoá đều nhằm vào sự thoả mãn toàn bộ những nhu cầu vật chất
và tinh thần của con người trong đời sống xã hội.

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 5



T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
Nhóm bốn: Văn hoá như là một tiểu hệ thống của toàn bộ hệ thống xã hội
- tiểu hệ thống văn hoá tinh thần.
Bằng cách tiếp cận văn hoá theo nghĩa hẹp (chuyên biệt) xem văn hoá như là
tiểu hệ thống của hệ thống xã hội toàn diện, quan điểm này nhấn mạnh vào chiều
cạnh tư tưởng thuộc phương diện văn hoá tinh thần của con người.
"Văn hoá là phương diện tinh thần của thế giới nhân tạo, là toàn bộ yếu tố
tinh thần ổn định có ở mỗi con người, hoặc nhóm người, gắn liền với cái gọi là
"ký ức thế giới" hay "ký ức xã hội". Chúng được vật thể hoá thành hiện vật
văn hoá và thành ngôn ngữ" (Abrơham Môlơ)(8).
Quan niệm này nhấn mạnh văn hoá chỉ là mặt biểu hiện của đời sống tinh
thần, nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của con người trong đời sống xã hội.
Từ đó có sự phân biệt giữa văn hoá vật chất - văn hoá kỹ thuật (Technical culture)
với văn hoá tinh thần (Spiritual culture).
- Văn hoá vật chất chỉ ra phương thức hành động của con người để tồn tại
trong đời sống vật chất, thường được gọi là văn minh (civilisation). Mặt này luôn
biến động theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật.
- Văn hoá tinh thần bao gồm các lĩnh vực như: văn hoá - nghệ thuật, vui chơi
giải trí, tôn giáo, tín ngưỡng, lối sống, phong tục, tập quán v.v... và những phương
diện thuộc về trình độ ứng xử của con người được gọi là văn hoá (Culture).
Hai mặt này cùng song song tồn tại và phát triển trong đời sống xã hội. Chúng
luôn có mối quan hệ biện chứng và hổ tương với nhau. Văn hoá chính là hạt nhân
cốt lõi và là linh hồn của văn minh. Lúc này văn hoá trở thành nền tảng tinh thần,
là động lực tác động đến đời sống vật chất, thúc đẩy cho nền văn minh phát triển.
Với cách nhìn như thế văn hoá được xem là một tiểu hệ thống của toàn bộ hệ
thống xã hội.
Nhóm năm: Văn hoá như là hệ thống các biểu tượng - thông tin xã hội.
Cũng từ cách tiếp cận văn hoá theo nghĩa hẹp (chuyên biệt) quan niệm của
trường phái xã hội học hiện đại xem văn hoá như là một tiểu hệ thống của hệ thống

xã hội toàn thể - một bộ phận xã hội đặc biệt chuyên sản xuất ra các hệ thống biểu
tượng thông tin (Symbol systems and the information) cho đời sống xã hội.
Trong tác phẩm "Xã hội loài người" của: Gerhard Lenski, Partrick Nolan và
Jean Lenski, các tác giả này đã đưa ra một mô hình xã hội toàn thể với năm thành
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 6


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
phần căn bản của xã hội loài người. Đó là năm tiểu hệ thống xã hội cùng tồn tại
tương đối độc lập, nhưng chúng lại có sự tác động hỗ tương với nhau trong một hệ
thống chung - đời sống xã hội.
Năm tiểu hệ thống xã hội này tương ứng với năm yếu tố căn bản như sau:
Dân số - Sản xuất vật chất - Sản xuất và sử dụng các biểu tượng thông tin (văn
hoá) - Tổ chức xã hội - Thể chế xã hội.
Toàn bộ hệ thống này được mô hình hoá như một khối hình trụ - biểu thị cho
hệ thống xã hội toàn thể với năm đoạn cắt lát đều nhau, mỗi đoạn tương ứng với
một yếu tố trong năm yếu tố căn bản nói trên. Phần đáy khối trụ là yếu tố Dân số,
tiếp theo là các yếu tố khác, còn lại phần trên cùng khối trụ là yếu tố thể chế xã
hội. Năm thành phần căn bản đó tạo nên năm tiểu hệ thống trong toàn bộ hệ thống
xã hội.
Ở mặt cắt ngang của tiểu hệ thống thể chế xã hội lại được chia cắt thành sáu
phần đều nhau giống như các múi cam trong một quả cam. Chúng tương ứng với
sáu thể chế xã hội cơ bản, đó là: Thể chế gia đình và dòng họ - thể chế kinh tế thể chế giáo dục - thể chế chính trị - thể chế tôn giáo - các thể chế khác.
Sáu thể chế này cắt dọc khối trụ ra sáu phần đều nhau xuyên qua năm tiểu hệ
thống xã hội căn bản. Như vậy ở mỗi tiểu hệ thống xã hội căn bản cũng bao hàm
trong nó sáu mặt biểu hiện của sáu thể chế xã hội nói trên.
Bằng cách tiếp cận hệ thống để tìm hiểu đời sống xã hội một cách toàn diện
như vậy ta nhận thấy trong lòng của tiểu hệ thống văn hoá cũng bao hàm sáu mặt

biểu hiện của văn hoá là: văn hoá- gia đình, văn hoá - giáo dục, văn hoá - kinh
tế, văn hoá- chính trị, văn hoá - tôn giáo - văn hoá khác như văn hoá - nghệ
thuật, văn hoá sinh thái v.v..(9).
Tóm lại, quan niệm của nhóm này đã xem văn hoá như là trung tâm của toàn
bộ hệ thống xã hội. Nó chi phối và điều tiết tất cả mọi thể chế và cơ cấu xã hội
khác bằng hệ thống các biểu tượng thông tin. Những giá trị - chuẩn mực và các
"khuôn mẫu hành vi" nằm trong lòng các biểu tượng thông tin đã tác động trở
lại để điều tiết và định hướng giá trị cho toàn xã hội, thúc đẩy xã hội vận động và
phát triển. Biểu tượng thông tin chính là hình thái biểu hiện của các giá trị xã hội.
Có thể nói văn hoá là hệ thống các biểu tượng - thông tin xã hội.
- Với cách tiếp cận xem văn hoá như là hệ thống các biểu tượng - thông tin
xã hội như trên, ta có thể nhận ra ngay có sự tương đồng trong các cách tiếp cận
khác nhau về văn hoá. Tuy mỗi quan niệm có sự khác nhau về góc nhìn. Song, tựu
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 7


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
trung mỗi cách tiếp cận đều có thể xem văn hoá như là một tiểu hệ thống đặc biệt
của hệ thống xã hội toàn diện, chuyên sản xuất ra các hệ thống biểu tượng thông
tin cho đời sống xã hội. Nói khác đi, tiểu hệ thống biểu tượng - thông tin xã hội
chính là tiểu hệ thống văn hoá.
- Đối với quan niệm xem văn hoá như là thuộc tính bản chất của đời sống
xã hội thì yếu tố làm nên nhân cách của con người chính là quá trình xã hội hoá và
cũng là quá trình văn hoá hoá của mỗi cá nhân thông qua các hệ thống biểu tượng thông tin xã hội. Đó là hệ thống các "khuôn mẫu hành vi", trong nó hàm chứa
những giá trị và chuẩn mực xã hội cùng những kinh nghiệm đã được xã hội hình
thành và thừa nhận nhằm giúp cho mỗi cá nhân có thể hội nhập vào nền văn hoá
chung của toàn xã hội. Quá trình này chính là quá trình hình thành nhân cách của
mỗi cá nhân trong đời sống xã hội.

Nhân cách xã hội bao gồm những lề lối hành động của cá nhân đối với cộng
đồng xã hội, thông qua những vai trò xã hội mà các cá nhân nhập vai theo đó mà
hành động. Sự thực hiện các vai trò xã hội là sự biểu hiện nhân cách của hắn theo
một "khuôn mẫu văn hoá" nào đó đã được biểu tượng hoá thành những biểu tượng
- thông tin xã hội. Hệ thống biểu tượng - thông tin xã hội là tiểu hệ thống văn hoá.
- Đối với quan niệm cho rằng văn hoá như là một dạng hoạt động của đời
sống xã hội thì nhóm này nhận định chủ thể tương tác xã hội cũng chính là chủ thể
văn hoá. Bởi lẽ, trong cùng một lúc anh ta đóng nhiều vai trò khác nhau, vừa là chủ
thể sáng tạo đồng thời lại là khách thể nhận thức, vừa là người tiêu dùng lại là
người sản xuất ra các sản phẩm văn hoá - một trong những sản phẩm của đời sống
xã hội.
Hoạt động xã hội ở đây không chỉ được xem là những hoạt động sản xuất ra
các sản phẩm xã hội nhằm thoả mãn những nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội mà
còn là những hoạt động trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm đó. Trong
các dạng hoạt động này có hoạt động sản xuất tinh thần.
Quan hệ xã hội cũng được xem xét một cách toàn diện như quan hệ giữa cá
nhân với nhóm xã hội, quan hệ giữa trao đổi với phân phối, quan hệ sản xuất với
tiêu dùng các sản phẩm xã hội, thông qua những thể chế xã hội. Trong đó quan hệ
tiêu dùng mang nhiều đặc trưng văn hoá.
Mô hình tương tác xã hội này đã trình ra những yếu tố cho sự phân tích toàn
diện về các mặt biểu hiện khác nhau của các hệ thống cấu trúc, các cơ cấu, sự vận
hành và sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Song qua mô hình này ta đã
nhận thấy được trong năm tiểu hệ thống hoạt động xã hội cơ bản thì có thể coi hoạt
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 8


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
động sản xuất tinh thần tương ứng với hoạt động sản xuất ra các hệ giá trị và

chuẩn mực xã hội tạo thành các "khuôn mẫu hành vi" được đối tượng hoá trở thành
hệ thống các biểu tượng - thông tin xã hội. Đó cũng chính là một tiểu hệ thống văn
hoá.
- Đối với quan niệm xem văn hoá như là tổng thể các giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra, thì ta có thể xem các giá trị tinh thần là cái làm
nên tiểu hệ thống văn hoá - trung tâm sản xuất ra hệ thống các biểu tượng - thông
tin xã hội. Trong đó đã hàm chứa toàn bộ những giá trị - chuẩn mực và các "khuôn
mẫu hành vi" của đời sống xã hội.
- Riêng với quan niệm xem văn hoá như là một tiểu hệ thống đặc biệt của
toàn bộ hệ thống xã hội thì nhóm này cho rằng văn hoá chỉ là mặt biểu hiện của
đời sống tinh thần. Cho nên tiểu hệ thống xã hội đặc biệt này cũng được xem như
là một tiểu hệ thống văn hoá, chuyên sản xuất ra hệ thống các "khuôn mẫu hành
vi" trong nó đã hàm chứa toàn bộ các giá trị và chuẩn mực xã hội. Nó hình thành
nên hệ thống các biểu tượng thông tin - xã hội nhằm giúp cho con người hoàn
thiện các vai trò của mình trong đời sống - xã hội.
Như vậy, có thể nói rằng mọi cách tiếp cận văn hoá cho dù có đứng ở góc
cạnh nào để tìm hiểu về văn hoá đi chăng nữa, thì bản chất của văn hoá cũng
không ngoài hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, nó được "khuôn mẫu hoá" để trở
thành những "khuôn mẫu hành vi". Quá trình "khuôn mẫu hoá" cũng là quá trình
"biểu tượng hoá" trở thành các "biểu tượng - thông tin xã hội" để tạo điều kiện cho
mỗi cá nhân nắm bắt được nhanh chóng các giá trị và chuẩn mực xã hội. Qua đó
giúp họ hoàn thiện và định hình nhân cách, để trở thành con người xã hội - con
người có văn hoá (Cultured man)
Do cách tiếp cận của bài viết này xem văn hoá như là hệ thống các biểu
tượng - thông tin xã hội, cho nên cần phải làm rõ ý nghĩa của hai khái niệm: Biểu
tượng và thông tin nhằm làm sáng tỏ được các quan điểm nói trên .
L. White cho rằng: “Văn hoá là cơ chế của các hiện tượng, vật thể, hành
động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu
tượng hoặc phụ thuộc vào các biểu tượng đó” (10).
Quan điểm này cho rằng văn hoá là sản phẩm của con người, cũng là dấu hiệu

riêng chỉ có ở loài người. Đó chính là sự hiểu biết, tình cảm và trí khôn của con
người được biểu hiện ra bằng hệ thống các biểu tượng nhằm phân biệt giữa người
với vật. Một số nhà nhân học văn hoá gọi con người là động vật biết sử dụng biểu
tượng Homo- symbolling.
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 9


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
- Vậy biểu tượng là gì ? - Có thể hiểu biểu tượng là hình ảnh tượng trưng
được phô bày ra khiến người ta cảm nhận một giá trị trừu xuất nào đó.
Từ điển La Rousse viết : “ Biểu tượng là dấu hiệu hình ảnh, con vật sống
động, hay đồ vật biểu hiện một điều trừu tượng , nó là hình ảnh cụ thể của một
sự vật hay điều gì đó”.
Biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tác động chủ yếu đến thính giác
và thị giác gây cho con người những rung động, cảm xúc về chúng theo nhiều mức
độ khác nhau. Biểu tượng có mặt hầu hết trong các biểu hiện của cuộc sống. Thực
chất, cuộc sống ngoài những nhận thức bằng tư duy lý tính mang tính logic, nhưng
còn biết bao điều không thể hiểu biết trực tiếp được . Nên người ta đã dùng một vật
môi giới làm trung gian để có thể hiểu được những điều khó hiểu. Ta gọi nó là biểu
tượng (Les Symboles) như: “Hoa cúc" biểu tượng cho sự thủy chung ; “Bồ câu"
biểu tượng của hoà bình ; “Rùa” biểu tượng của sự trường tồn .” Hoa sen” biểu
tượng cho sự thanh cao , “Cái bắt tay” biểu tượng cho tình hữu nghị v...v...
Biểu tượng mở rộng trường ý thức trong mọi lĩnh vực và được biểu hiện
bằng nhiều hình thái khác nhau. Từ trong huyền thoại , tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội
truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán v.v... cho đến đời sống văn học nghệ
thuật, quảng cáo, mỹ thuật. Người ta ngày càng tìm cách “giải mã" ngôn ngữ biểu
tượng để mở rộng sự hiểu biết và đi sâu vào thế giới thông tin, cũng là để làm chủ
một “năng lượng tinh thần” của một loại hình riêng biệt - siêu ngôn ngữ (super

language).
Biểu tượng còn là một hình thái ngôn ngữ đặc trưng của con người và là “Tế
bào” của văn hoá (L.White) cho nên, khi tìm hiểu về biểu tượng, cũng là đang tìm
hiểu về văn hoá. Thế giới văn hoá chính là thế giới của biểu tượng (11).
Quá trình tìm hiểu và nhận thức về biểu tượng là quá trình nắm bắt và truyền
đạt các thông tin . Qua đó con người có thể nhận thức sâu sắc về đời sống của
chính mình nhằm góp phần biến đổi một cách lớn lao trong sự phát triển toàn diện
về nhân cách của anh ta.Vì thế biểu tượng có một chức năng chung nhất là sự điều
tiết và định hướng trở lại đời sống. Đó là tính văn hoá của biểu tượng.
Theo toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International Thesauruss on
Cultural Development) Unesco đã định nghĩa như sau: "Văn hoá là một tập hợp
hệ thống các biểu tượng quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số
đông người có thể giao tiếp được với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng
riêng biệt"(12).

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 10


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
Cách tiếp cận văn hoá theo nghĩa hẹp của Unesco không có sự đối lập hoàn
toàn với cách tiếp cận văn hoá khác. Bởi ở góc độ nào đó để nghiên cứu về văn hoá
đi chăng nữa thì văn hoá không ngoài ý nghĩa là toàn bộ sự hiểu biết của con người
tích luỹ được trong quá trình hoạt động thực tiễn -lịch sử được đúc kết thành các
giá trị và chuẩn mực xã hội. Hệ giá trị xã hội biểu hiện thông qua hệ thống các
biểu tượng. Biểu tượng là đơn vị cơ bản của văn hoá, nó làm nên toàn bộ đời sống
văn hoá và chi phối mọi hoạt động của con người trong đời sống xã hội. Văn hoá
được xem là hệ thống các biểu tượng - thông tin xã hội.
Điểm then chốt không thể thiếu được trong văn hoá là phải có sự truyền đạt

thông tin. Nghĩa là phải có được sự cụ thể hoá, phải có nguồn gốc lịch sử và được
lịch sử chọn, đồng thời phải được truyền bá và được vận hành trong lòng đời sống
xã hội. Hệ thống văn hoá một mặt là kết quả của hành vi, mặt khác là điều kiện của
hành vi của con người .
- Về khái niệm thông tin (Information) đó là những hình ảnh phản ánh về một
sự vật hiện tượng nào đó có trong thế giới chung quanh, nói khác đi nó là một dạng
đặc biệt của sự vận động xã hội. Những thông tin được truyền đi cho nhau biết
thuộc mọi lĩnh vực của đời sống con người. Quá trình này được thông qua một vật
trung gian đó là các biểu tượng văn hoá. Các biểu tượng luôn có năng lực chuyên
chở các thông tin. Nó giúp cho mọi người có thể nắm bắt nhanh những ý nghĩa
những giá trị, chuẩn mực xã hội, mà các phương tiện khác khó có thể thực hiện
được
Bằng những kinh nghiệm đã trải qua cùng với trình độ hiểu biết của bản thân
mỗi con người mà họ có thể rút ra được nhiều hơn về những thông tin còn chìm
khuất trong lòng biểu tượng. Bởi lẽ, biểu tượng cho phép mỗi cá nhân tiến hành sự
suy nghĩ và phát huy nhiều hơn về tính liên tưởng khi tiếp cận với nó. Biểu tượng
có năng lực bày tỏ rất nhiều về mặt ý nghĩa, vì bản thân nó mang nhiều đặc tính
huyền ảo, tính phức tạp và tính đa nghĩa với nhiều dạng vẻ khác nhau tương ứng
với sự từng trải và vốn sống của mỗi con người. Từ đó có thể có sự khác nhau
trong việc “giải mã ” các biểu tượng và sự khác nhau trong chiều nhận thức, về sự
tiếp nhận thông tin của mỗi cá nhân, của nhóm và cả cộng đồng dân tộc. Mỗi dân
tộc đều có quyền chọn lựa cho mình những thông tin mang tính giá trị định hướng
sao cho có sự phù hợp đối với truyền thống văn hoá và quyền lợi của dân tộc mình.
Hệ thống biểu tượng và sự đa dạng của các thông tin bao trùm hết cả đời sống
văn hoá xã hội. Tuy nhiên vẫn phải tuân thủ theo một chiều hướng nào đó, dường
như có sự tổ chức, có sự sắp đặt theo một khuôn mẫu định sẵn đã và đang tồn tại
trong cộng đồng - xã hội. Cho nên, mọi ứng xử, mọi suy nghĩ, mọi hành động xã
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 11



T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
hội đều bị chi phối bởi khuôn mẫu định sẵn đó - Khuôn mẫu văn hoá truyền thống
- nguyên tượng (Archetypes).
Thông tin văn hoá nói chung thì không có sự hạn chế. Nhưng sự tiếp nhận hay
bác bỏ một thông tin nào đó lại do tất cả cộng đồng quyết định. Nó bao gồm những
thông tin, những giá trị thuộc về cái gì là , chân, thiện, mỹ, là quan trọng đối với
sự tồn vong hay sự phát triển của cả cộng đồng - xã hội.
Biểu tượng thông tin giống như là “một đơn vị của kinh nghiệm". Nó có thể
chỉ ra được bản chất của mỗi giá trị mà nó chuyên chở. Bởi vì các loại hệ thống
biểu tượng ít nhiều đều thuộc tính lịch sử. Nó được rút ra từ các dữ kiện và những
kinh nghiệm có trong lịch sử. Tất cả mọi người đều có khả năng của sự từng trải ,
của kinh nghiệm sống. Vì thế cũng có năng lực nhận thức, đánh giá và sáng tạo ra
các biểu tượng - thông tin xã hội (văn hoá).
Mỗi nền văn hoá đều có sự truyền đạt các thông tin - những giá trị định hướng
của toàn cộng đồng - xã hội nhằm thoả mãn những nhu cầu, những khát vọng của
con người. Nó được truyền tải thông qua hệ thống các “biểu tượng thông tin" có
trong mọi mặt của đời sống xã hội. Thông tin có trong huyền thoại, trong nghi thức
lễ hội, trong văn học nghệ thuật và trong nhiều lĩnh vực khác. Phần nhiều thông tin
chứa đựng trong lĩnh vực văn hoá là thuộc về tư tưởng, nếp nghĩ, hành vi ứng xử
của con người đối với tự nhiên, môi trường và xã hội trong suốt chiều dài lịch sử,
đã được đúc kết thành những khuôn mẫu văn hoá - hệ giá trị và chuẩn mực văn
hoá, là do có sự trải qua biết bao kinh nghiệm của nhiều thế hệ để trở thành bản
lĩnh, tính cách của cả một cộng đồng - xã hội.
Chúng ta có thể hình dung ra được thế giới thông tin có trong mọi nền văn
hoá, bao gồm một số chủ đề chính như sau:
- Những thông tin thiên về đời sống tâm linh, đáp ứng được nhu cầu niềm tin
và tín ngưỡng của con người. Những nhu cầu mà con người đang khát vọng vươn
tới để tự hoàn thiện chính bản thân mình, nó được thể hiện trong tôn giáo, trong tín

ngưỡng dân gian, trong nghi thức lễ hội truyền thống .v.v... Nó thuộc về lĩnh vực
văn hoá - tâm linh.
- Những thông tin về môi trường sinh thái nhằm giúp con người có thể thích
nghi với môi trường chung quanh. Đó là sự hiểu biết về đời sống của động thực
vật, về môi trường khí hậu và môi trường thời tiết v.v... Nó thuộc về lĩnh vực văn
hoá - sinh thái.

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 12


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
- Những thông tin về nhóm xã hội, về quan hệ trong giao tiếp xã hội, về ứng
xử giữa cá nhân với nhóm, về phong tục và tập quán xã hội v.v... Nó thuộc về lĩnh
vực văn hoá - lối sống.
- Những thông tin về chính xã hội đó, về nguồn gốc xã hội, về dân tộc và các anh
hùng trong lịch sử, về các sự kiện lịch sử .v.v... Nó thuộc về lĩnh vực văn hoá - xã hội.
- Những thông tin về mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, về quá trình hình
thành nhân cách của con người trong đời sống xã hội. Nó thuộc về lĩnh vực văn
hoá - giáo dục.
- Những thông tin về tổ chức - quản lý đời sống xã hội, về thiết chế - thể chế
xã hội, về quyền hạn và nghĩa vụ xã hội v.v... Nó thuộc về lĩnh vực văn hoá chính trị.
- Những thông tin về cung và cầu trong qui trình sản xuất và tiêu dùng, về các
qui luật của giá cả và tiền tệ, về sức phát triển của đời sống vật chất, về qui luật
cạnh tranh trong kinh doanh v.v... Nó thuộc về lĩnh vực văn hoá - kinh tế.
- Những thông tin về các giá trị chuẩn mực xã hội giúp con người tiến bộ
trong quan niệm về đúng và sai, phải và trái, tốt và xấu v.v... Nó thuộc về lĩnh vực
văn hoá - đạo đức.
- Những thông tin về đời sống thẩm mỹ, về qui luật của cái đẹp, về xu hướng

nghệ thuật, về thị hiếu thẩm mỹ v.v... Nó thuộc về lĩnh vực văn hoá - nghệ thuật.
- Những thông tin về dân số, về kế hoạch hoá gia đình, về mối quan hệ trong
đời sống gia đình, về hôn nhân và nuôi dạy con cái, về dòng họ và huyết thống
v.v... Nó thuộc về lĩnh vực văn hoá - gia đình.
Mỗi lĩnh vực trên đây được truyền tải bằng những thông tin chứa đựng đầy
những quan niệm, những phương thức đánh giá cùng với những phương án hành
xử theo đúng các nguyên tắc, các chuẩn mực và giá trị mà xã hội đã qui định cho
từng lĩnh vực chuyên biệt. Tất cả đều thông qua hệ thống các biểu tượng - các
khuôn mẫu văn hoá. Nó tạo thành các hệ thống thông tin của toàn xã hội, để điều
tiết và định hướng độ lệch chuẩn xã hội, giúp xã hội tồn tại và phát triển.
Qua phân tích trên đây ta thấy hướng tiếp cận xem văn hoá như hệ thống các
biểu tượng - thông tin xã hội, không hoàn toàn có sự đối lập với các phương thức
tiếp cận văn hoá khác, mà bản thân cách tiếp cận này có hạt nhân hợp lý và có sự

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 13


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
bổ sung thêm về một phương pháp nghiên cứu nhằm hoàn thiện thêm một bước đối
với các cách tiếp cận trước đó về đối tượng nghiên cứu là văn hoá.
Theo định nghĩa của Unesco về văn hoá, ta thấy yếu tố cốt lõi của văn hoá
chính là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội. Song "giá trị" thuộc về thế giới của "ý
niệm", nằm chìm khuất trong đầu óc của con người nên khó có thể nắm bắt trực
tiếp được nó. Do vậy, để có thể hiểu được, nắm bắt được các giá trị, phải nhờ đến
một vật trung gian làm môi giới, ngoại hiện những "đối tượng vắng mặt" này ra
ngoài để nhận biết nó thật rõ ràng và cụ thể. Vật thay thế đó chính là hệ thống các
biểu tượng thông tin. Cho nên khi nói văn hoá là hệ thống các biểu tượng - thông
tin xã hội tức là hiểu văn hoá bằng hướng tiếp cận với hình thái biểu hiện của nó,

còn bản chất cốt lõi làm nên đời sống của văn hoá vẫn là toàn bộ hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội. Hệ thống biểu tượng thông tin chỉ là hình thức, là phương tiện
chuyên chở các hệ giá trị, là điều kiện tốt nhất để bộc lộ ra các ý nghĩa còn chìm
sâu trong nhận thức của con người. Có thể nói các thành tố làm nên văn hoá, đó là
tổ hợp "tam vị nhất thể" gồm ba yếu tố : Giá trị - Chuẩn mực - Biểu tượng thông
tin.
Biểu tượng thông tin chính là mặt biểu đạt của hệ giá trị và chuẩn mực, nó
được biểu thị bằng toàn bộ vốn di sản văn hoá và hệ ứng xử văn hoá của cộng đồng
người. Toàn bộ tổ hợp này làm nên hệ thống văn vật của một nền văn hoá chính
thống.
Hệ biểu tượng - thông tin xã hội hàm chứa trong lòng nó những giá trị xã hội
truyền thống, đã được cả cộng đồng xã hội chấp nhận là những thành tố cốt lõi làm
nên bản sắc riêng của cả một cộng đồng - dân tộc. Nhờ có hệ thống biểu tượng
thông tin mới có thể phân biệt được sự khác nhau về văn hoá giữa cộng đồng này
với cộng đồng khác. Ngoài ra nó còn có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi
hoạt động của những con người sống trong cộng đồng xã hội đó.
Do vậy, nhìn từ góc độ xã hội học để tiếp cận văn hoá ta có thể khẳng định:
Văn hoá là một tập hợp hệ thống các biểu tượng thông tin xã hội. Nó quy
định thế ứng xử và giao tiếp của con người, đồng thời giúp cho một số đông
người có thể liên kết với nhau trong một cộng đồng riêng biệt.

__________________________

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 14


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
Tài liệu tham khảo

(1) Trích dẫn từ Hoàng Vinh trong "Khái niệm văn hoá" Học viện chính trị Quốc
gia HCM 10/1996
(2) Trích dẫn từ Đoàn Văn Chúc "Xã hội học văn hoá" NXB Văn hoá thông tin,
Hà Nội, 1997 trang 205 mục 14 (Jean Ladriere)
(3) Dẫn theo "Cơ sở xã hội học" của NXB Tokyo 1990. Người dịch Hồ Hoàng
Hoa, phòng XHHVH - Viện Khoa học xã hội - Hà Nội.
(4) V. Dobrianop "Xã hội học Mác - Lênin" Nhà xuất bản thông tin lý luận, Hà
Nội. 1985.
(5) Đoàn Văn Chúc - "Xã hội học văn hoá" Mục 8 - "Thì gian rỗi và hoạt động
rỗi" trang 224.NXB Văn hoá - thông tin và Viện Văn hoá xuất bản - Hà Nội
1997.
(6) Trích dẫn từ Đoàn Văn Chúc "Xã hội học văn hoá" NXB Văn hoá Thông tin,
Hà Nội, 1997 trang 231, mục 8 bài "Thời gian rỗi và hoạt động rỗi"
(7) Khái niệm văn hoá "Tự điễn Triết học" NXB chính trị Matxcơva, 1972.
(8) Trích dẫn từ Hoàng Vinh trong "Khái niệm văn hoá" học viện chính trị Quốc
gia HCM 10/1996
(9) Human Societies an Introduction to Macrocociology International Edition
1995.
(10) Mượn trích dẫn của Hoàng Vinh trong "Khái niệm văn hoá" Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 1/10/1996.
(11) L.White - The Science of Culture : A. Study of Man an Civilization
(New york 1941). S. 22
(12) Trích dẫn từ" "Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện nay"
trang 164, NXB - Bộ văn hoá và thể thao - 1992.

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 15



T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN

BIỂU TƯỢNG NHƯ LÀ “ĐƠN VỊ CƠ BẢN” CỦA
VĂN HÓA
TS. Nguyễn Văn Hậu
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Văn hoá là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, nó bao la như chính cuộc sống
của loài người. Đó là vấn đề thuộc về mặt nhận thức của con người trong toàn
bộ cách nhìn, cách ứng xử của cá nhân đối với tự nhiên và cộng đồng xã hội.
Có thể nói, văn hoá là sự hiểu biết, là phương thức hoạt động sống của con
người và là những kinh nghiệm do con người đúc kết được trong quá trình
lịch sử hình thành nên đời sống của nhân loại.
Có nhiều cách tiếp cận văn hoá là do đứng ở nhiều góc độ khác nhau để
nghiên cứu về lĩnh vực này. Từ cách tiếp cận nghiên cứu văn hoá theo Triết học,
Sử học, Dân tộc học, Xã hội học, Tâm lý học, Ký hiệu học v.v.. mỗi môn học
nghiên cứu văn hoá lại gồm nhiều trường phái, do đó có nhiều quan niệm về văn
hoá khác nhau. Song, nhìn chung những định nghĩa ở bình diện khác nhau của khái
niệm văn hoá đều bộc lộ một quan điểm chung nhất, văn hoá - đó là sự thăng hoa
các lực lượng bản chất tự nhiên của con người.
Quan niệm của các tác giả về những định nghĩa văn hoá nhìn chung đã có một
sự tương đối đồng thuận. Họ thống nhất với nhau ở một điểm, văn hoá - đó là cái
làm nên sự khác biệt giữa người và động vật và là cái đặc trưng cho xã hội loài
người. Nhà văn hoá học Nga L. Iô-nhin trong lời kết thúc bản tóm tắt giới thiệu
các định nghĩa khác nhau về văn hoá đã nhận định "... Các tác giả định nghĩa về
văn hoá đã đồng ý với nhau, rằng văn hoá di truyền không theo con đường sinh
học mà bằng con đường học tập. Tiếp đó, họ thừa nhận văn hoá trực tiếp gắn
liền với các ý tưởng, chúng tồn tại và được truyền đạt dưới hình thức biểu tượng
(Symbol)"(2)
Hiện nay, theo quan điểm xã hội học hiện đại, các nhà khoa học đang có xu
hướng đi tìm "đơn vị cơ bản" di truyền đầu tiên của xã hội nhằm xác định sự hình

thành của xã hội như một loại hình tổ chức đặc biệt. Theo ý kiến của họ, “đơn vị
cơ bản" xác định của xã hội phải là "chìa khoá", dùng cho việc khám phá và giải
thích về quan niệm di truyền học này. Họ cũng cho biết, muốn tìm hiểu bản chất

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 16


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
của sự di truyền xã hội cần phải tìm kiếm trực tiếp trong lĩnh vực "văn hoá tinh
thần" của con người.
Và, bộ môn ký hiệu học (Semeiology) đã và đang trở thành một phương pháp
tiếp cận quan trọng trong nghiên cứu khoa học về văn hoá. Cách tiếp cận này cho
rằng, có thể xác định “đơn vị cơ bản" của văn hoá bằng ký hiệu, thể hiện trong
hoạt động sáng tạo và vận thông bằng ngôn ngữ ký hiệu - biểu tượng (symbol).
Ngày nay, vai trò to lớn của biểu tượng trong hoạt động của đời sống con
người đã được quan tâm và nghiên cứu một cách sâu sắc với tinh thần hết sức khoa
học, vai trò của trí tưởng tượng không còn bị xem nhẹ, thậm chí không còn bị
đánh giá thấp như trước đây. Nó đã được xác định lại vị trí và được xem là mặt thứ
hai của lý trí, chính nó là nhân tố cốt lõi giúp cho con người có những phát hiện
tìm ra cái mới. Biểu tượng luôn ở vị trí trung tâm và được coi như "tế bào" của
đời sống văn hoá.
Trong đời sống xã hội, dù biết hay chưa biết, chúng ta đều nhận thức và hành
động theo biểu tượng. Nó có tầm ảnh hưởng rộng khắp trong mọi mặt của đời
sống con người. Từ lĩnh vực khoa học cho đến lĩnh vực nghệ thuật, từ đời sống tâm
linh cho đến quan hệ ứng xử và giao tiếp. Người ta ngày càng tìm cách "giải mã"
ngôn ngữ biểu tượng, vừa để mở rộng trường nhận thức, khám phá ra những giá trị
văn hoá truyền thống còn chìm khuất trong lòng đời sống cộng đồng - xã hội, vừa
nhằm làm chủ một "năng lượng tinh thần" của một loại hình ngôn ngữ đặc biệt

mà ta vừa mới bắt đầu khẳng định về sức mạnh của nó.
Vậy, biểu tượng (symbol) là gì? (3)
Thuật ngữ symbol bắt nguồn từ Hy Lạp. Symbolon có nghĩa là ký hiệu (Sign),
dấu hiệu, lời nói, tín hiệu, triệu chứng, hợp đồng v.v...
Cũng có thuyết cho rằng chữ symbol bắt nguồn từ động từ Hy Lạp
"Symballo" có nghĩa là "ném vào một vị trí", "liên kết", "suy nghĩ về", "thoả
thuận", "ước hẹn" v.v...
Biểu tượng trong tiếng Hán: Biểu có nghĩa là: "bày ra", "trình bày", "dấu
hiệu", để người ta dễ nhận biết một điều gì đó. Tượng có nghĩa là "hình tượng".
Biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký
hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa mang tính trừu tượng.
Khởi nguyên, biểu tượng bắt nguồn từ một tập quán Hy Lạp cổ đại, nói về
một phiến đá bị đập vỡ ra thành nhiều mảnh và chia đều cho mỗi thành viên trong
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 17


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
một bộ tộc nào đó, trước sự phân tán của họ, sau này khi được triệu tập trở lại thì
những mảnh đá vỡ đó được ghép lại (Sumballein) nhằm xác nhận sự hiện diện trở
lại của toàn nhóm.
Bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng chính là sự chia ra và kết
lại với nhau, nó hàm chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Mọi biểu tượng đều chứa
đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng luôn biến ảo, nó bộc lộ ra trong
cái vừa gãy vỡ vừa là nối kết, vừa xuất hiện lại vừa mất đi, khiến cho tư duy luôn
phải truy tìm, liên tưởng và muốn nắm bắt lấy vô vàn những ý nghĩa đang còn tiềm
ẩn ngay trong lòng của nó.
Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cho rằng : "Tự bản chất của biểu
tượng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong cùng

một ý niệm. Nó giống như mũi tên bay mà không bay đứng im mà biến ảo, hiển
nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra một hay nhiều
ý nghĩa của một biểu tượng" (4).
Nói như Georges Gurvitch: "Các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che
giấu mà tiết lộ"(5)
Theo quan niệm của Freud: "Biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng
gió và ít nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối
liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, mọi lời nói với ý
nghĩa tiềm ẩn của chúng"(6)
Đối với C. G. Jung, ông cho rằng: "Biểu tượng không phải là một phúng dụ,
cũng chẳng phải một dấu hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích hợp
để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất, ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh"(7)
Nói như vậy, bản chất của biểu tượng là khó xác định, sự hiểu biết về nó
đương nhiên còn tuỳ thuộc vào sự từng trải và kinh nghiệm vốn có của mỗi cá
nhân cũng như trình độ nhận thức của từng người. Không những thế, việc "giải
mã" tìm ra ý nghĩa của biểu tượng cũng phải tính đến thói quen, phong tục, tập
quán của các nền văn hoá trong từng cộng đồng dân tộc khác nhau. Điều bí ẩn vẫn
luôn còn nguyên vẹn và mơ hồ về mặt ý nghĩa nếu như biểu tượng chưa được "giải
mã". Một biểu tượng thường có nhiều nghĩa và ngược lại một ý nghĩa lại có nhiều
biểu tượng cùng biểu thị.
Vậy, có thể hiểu biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng được phô bày
khiến người ta có thể cảm nhận một giá trị trừu xuất nào đó đang tiềm ẩn trong
lòng của nó.
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 18


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
Tự điển Larousse cho rằng : "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật

sống động, hay đồ vật, biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của
một sự vật hay một điều gì đó"(8).
Một định nghĩa khác của nhà tâm phân học C. G. Jung về biểu tượng như
sau: "Cái mà chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một hình
ảnh, ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa đựng
những ý nghĩa khác, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của
nó"(9)
Theo Chu Hy, nhà triết học Trung Quốc nổi tiếng đời Tống (1131 - 1200)
trong "Dịch thuyết cương lĩnh" khi bàn về biểu tượng đã viết: "Tượng là lấy hình
này để tỏ nghĩa kia"(10).
Như hình bát quái, đã lấy 8 quẻ trong kinh Dịch làm đồ hình. Mỗi quẻ là một
tượng lớn, được cấu thành bởi hai tượng nhỏ cơ bản: Một vạch liền (-) là tượng của
nguyên lý dương, một vạch đứt (--) là tượng của nguyên lý âm. Về mặt ý nghĩa của
biểu tượng, còn cho phép đọc : vạch liền là tượng của giống đực, mặt trời, đàn
ông, ánh sáng, sự sống, tiến lên, cái thiện, hạnh phúc, hoà bình v.v... vạch đứt là
tượng của giống cái, mặt trăng, đàn bà, bóng tối, sự chết, thoái lui, cái ác, đau
khổ, chiến tranh v.v... Biểu tượng luôn mở rộng sự liên tưởng để trí tuệ có thể truy
tìm, khám phá ra những ý nghĩa còn chìm khuất trong chiều sâu nhận thức của con
người.
Qua một số quan niệm vừa nêu trên, ta thấy sự ra đời của biểu tượng được
gắn liền với sự thực hiện khiếu năng tinh thần đặc biệt chỉ có ở loài người - năng
lực tượng trưng hoá. Biểu tượng được hiểu là một hiện tượng vật thể, nhờ thể hiện
trong đó một nội dung cụ thể - cảm tính mà hiện tượng này thể hiện, trình ra những
ý nghĩa, những giá trị trừu xuất nào đó. Có thể nói, biểu tượng chính là một loại
hình ngôn ngữ - ký hiệu (Sign).
Ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa vật làm biểu tượng với thế giới ý nghĩa
làm nên giá trị của biểu tượng cũng như đời sống của các ký hiệu trong lòng sinh
hoạt xã hội, được F.De Saussure gọi là ký hiệu học (semeiology). Tiếp cận ký hiệu
học nghiên cứu biểu tượng cũng chính là muốn tìm thấy được bản chất của hệ
thống ngôn ngữ ký hiệu đặc thù này. Trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành về

ký hiệu học có nhiều quan niệm và các khuynh hướng khác nhau. Song, chỉ có một
số tên tuổi được nhắc đến như: F.De Saussure, Charles Sanders Peirce, William
Morris, G.Mounin v.v.. và nổi trội hơn hết là R.Barthes và Louis Trolle

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 19


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
Hjelmslev, trong lĩnh vực nghiên cứu hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa - biểu
tượng.
Theo L.Hjelmslev mỗi ký hiệu là hiện tượng được nẩy sinh bằng mối quan hệ
giữa sự biểu đạt (Signifiant) còn gọi là cái biểu đạt (CBĐ): như các sự kiện, hiện
tượng, cái dùng để biểu thị (một đồ vật, một hình ảnh v.v..) và nội dung được biểu
đạt (Signifié) còn gọi là cái được biểu đạt (CĐBĐ). Đó là những giá trị, quan
niệm, ý nghĩa, ý tưởng v.v.. Vậy ký hiệu là nội hàm của mối quan hệ CBĐ/CĐBĐ.
Nói cách khác mỗi ký hiệu là bộ ba:

Sơ đồ ký hiệu học biểu thị của L.Hjelmslev (11)
Điều đóng góp quan trọng nhất của L.Hjelmslev là có sự phân biệt giữa “ký
hiệu học biểu thị” với “ký hiệu học hàm nghĩa”.
Ngôn ngữ thông thường là hệ thống ký hiệu biểu thị. Một ngôn ngữ hàm
nghĩa là một ngôn ngữ mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ
thống ngôn ngữ thông thường (ký hiệu biểu thị) và cả hai hệ thống đã lồng vào
nhau tạo thành một hệ thống kép - hệ thống siêu ký hiệu.
R.Barthes đã tiếp thu khái niệm ký hiệu học biểu thị và ký hiệu học hàm
nghĩa của Hjelmslev vào sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của mình. Có thể
tóm tắt hệ thống "siêu ký hiệu" của R.Barthes như sau: Một là hệ thống ký hiệu
học biểu thị (A) còn gọi là ngôn ngữ thông thường. Hai là hệ thống ký hiệu học


Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 20


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
hàm nghĩa (B) còn gọi là "siêu ngôn ngữ" (Metalanguage) - ngôn ngữ biểu
tượng. Hai hệ thống ký hiệu này lồng trong nhau, biểu hiện thành sơ đồ sau:

Sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của R.Barthes (12)

Sơ đồ này có nghĩa là ở siêu ngôn ngữ (B) ở bình diện biểu đạt (hình thức) lại
là một ký hiệu biểu thị - ngôn ngữ thông thường.
Để hiểu được hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa của R.Barthes trong quá trình
tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng ta có thể chuyển đổi sơ đồ mẫu trên
đây thành sơ đồ giải thích như sau:

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 21


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN

Vận dụng mô hình siêu ký hiệu của R.Barthes "giải mã"
hệ thống ngôn ngữ biểu tượng (Symbol)

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A


Page 22


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN

Bằng hướng tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng cùng sự phân tích hệ
thống siêu ký hiệu của R.Barthes ta thấy biểu tượng bao giờ cũng là những ký
hiệu hai mặt: cái biểu đạt là những hình thức tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện
tượng trong thế giới thực tại; cái được biểu đạt là phần nội dung với những giá trị,
chuẩn mực xã hội. Chúng tạo nên thế giới ý nghĩa, được "tượng trưng hoá" trở
thành hệ thống ngôn ngữ biểu tượng. Hệ thống ký hiệu học biểu thị (A)và hệ
thống ký hiệu học hàm nghĩa (B) tạo nên hệ thống "kép", tức là "hệ thống trong
hệ thống" - hệ thống ngôn ngữ biểu tượng. Ta có thể hình dung bằng lược đồ đơn
giản như sau:

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 23


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN

Hệ thống biểu tượng cũng chính là hệ thống các khuôn mẫu văn hoá, nó quy
định mọi hành vi ứng xử của con người và "hoạ kiểu" cho lối sống. Quá trình
"giải mã" hệ thống các biểu tượng cũng là nhằm mục đích thấy được kiểu lựa
chọn khác nhau về văn hoá giữa cộng đồng văn hoá này với cộng đồng văn hoá
khác. Mô hình lựa chọn đó sẽ tạo nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng - dân tộc.
Như vậy, văn hoá được hình thành và tồn tại nhờ vào trí tuệ và sự sáng tạo ra các
biểu tượng của con người. Bản thân một sự vật hiện tượng cụ thể nào đó vẫn chưa
là văn hoá, nếu như chưa cho nó một ý nghĩa, một giá trị nào đó. Có lẽ, đó cũng là

lý do để chúng ta nghiên cứu các vật thể vật chất đã được coi như một biểu hiện
của văn hoá. Chúng là những vật thể vật chất đã được biểu tượng hoá trở thành
những biểu tượng, và được cả cộng đồng xã hội chấp nhận đồng thời được xem
như là bảng giá trị định hướng của toàn thể cộng đồng, ví dụ như: biểu tượng
chùa một cột, biểu tượng tháp rùa, biểu tượng long, lân, quy, phượng v.v.... Tóm
lại, khi chưa có một ý nghĩa nào đó được ký thác vào các vật thể thì chúng cũng
chỉ là những vật thể vật chất thông thường, có giá trị sử dụng, giá trị kinh tế hoặc
Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 24


T.S Nguyễn Văn Hậu – khoa Văn hóa học – ĐHVH HN
giá trị khoa học v.v... nhưng chưa nói lên được giá trị văn hoá, ví dụ: quả bom,
thuốc nổ, vàng, cái quạt, cái bàn, cái bóng đèn v.v.. có thể mang giá trị sử dụng,
giá trị khoa học, giá trị kinh tế v.v.. nhưng chưa thể khẳng định là có hàm chứa
trong nó những "giá trị văn hoá" hay không, nếu một khi mục đích và động cơ sử
dụng nó không đem lại một "giá trị nhân bản" nào cho cuộc sống của con người.
Các vật thể vật chất này, biểu thị cho một nền "văn minh".
E. Cassirer, nhà triết học nổi tiếng người Đức, tác giả của quyển sách "Triết
học các hình thái biểu tượng" đã có kiến nghị thay thế định nghĩa con người như
một "Động vật lý trí" bằng định nghĩa con người như một "Động vật sản xuất ra
các hình thái biểu tượng". Ông đã nhận định như sau: "Tư duy và hành vi biểu
tượng hoá là đặc trưng tiêu biểu nhất của đời sống nhân loại và toàn bộ văn
hoá nhân loại phát triển đều dựa vào những điều kiện này... chúng ta nên định
nghĩa con người là động vật biểu trưng (animal symbolicum)... chỉ có như thế,
chúng ta mới có thể vạch ra chỗ độc đáo của con người, cũng mới có thể lý giải
được con đường mới khai phóng cho con người - con đường hướng về văn
hoá"(14).
Ở lĩnh vực nghiên cứu văn hoá học, L.White nhà nhân học Hoa Kỳ cũng

không đồng ý cách hiểu văn hoá như một trừu tượng lý thuyết, một cấu trúc logic
chỉ tồn tại trong tư duy của con người. Ông cho rằng, phải nghiên cứu văn hoá theo
hướng tiếp cận khác, nên giới hạn và tách nó ra khỏi những trừu tượng không sờ
mó được, khó nắm bắt được, mang tính "bản thể luận" - siêu hình và cần phải
cung cấp cho việc nghiên cứu văn hoá một đối tượng "vật chất" có thể nhận thức
được. L.White xem: "Văn hoá là một lớp vật thể và hiện tượng phụ thuộc vào
khả năng tượng trưng hoá của con người, lớp vật thể ấy được nghiên cứu trong
bối cảnh "siêu hữu cơ" (Extra somatique)” (15)
L.White cho rằng, văn hoá được quan niệm như là hành vi của Homo sapiens
khi sử dụng những vật thể vật chất, nó được xem như là bộ phận hoà nhập toàn vẹn
với hành vi này. Trên từng mặt cắt chuyên biệt, văn hoá bao gồm các mặt như:
ngôn ngữ, tư tưởng, tập quán, phong tục, các thiết chế, những công trình nghệ
thuật, các lễ thức v.v... Sự tồn tại, phát triển của văn hoá và việc sử dụng văn hoá
phụ thuộc vào một "năng lực" chỉ riêng con người mới có. Đó là năng lực tượng
trưng hoá - một năng lực quy định cho những sự vật và hiện tượng nào đó những ý
nghĩa mà chỉ bằng giác quan thông thường con người không thể nắm bắt được. Sự
khác biệt giữa trí tuệ con người với những động vật hạ đẳng, đó là sự khác biệt về
giống loài. Thật vậy, có thể khẳng định rằng, chẳng có động vật nào có thể có được
năng lực nhận thức, đánh giá hoặc hiểu biết được ít nhiều những ý nghĩa xã hội

Sưu tầm : Nguyễn Chí Tuấn – VHDL 15A

Page 25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×