Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bài tiểu luận đường lối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.32 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----  ----

HỌC PHẦN: Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

ĐỀ TÀI:
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
CỦA ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Sinh viên thực hiện : Đỗ Văn Sỹ
Chuyên ngành
Khóa học
GVHD

: Sư phạm Vật Lý
: 2014 - 2018
: Th.S Hoàng Thị Kim Liên

Quảng Nam, tháng 03 năm 2016


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam ta là một nước đi lên tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, có một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém
phát triển, đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cơ sở vật chất còn thiếu thốn
nghèo nàn, phương tiện sản xuất còn thô sơ, trình độ sản xuất còn thấp kém. Tuy
nhiên, với những chính sách, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng phù hợp
với từng giai đoạn, từng thời kỳ đã đưa nước ta từng bước khắc phục khó khăn,
thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân dân dần được cải thiện và


đang tiến hành xây dựng một nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Trãi qua hơn 70 năm sau ngày giành được độc lập và gần 30 năm tiến hành đổi
mới, nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, luôn tăng trưởng ổn
định, của cải vật chất của xã hội ngày càng nhiều, phong phú, đa dạng không
những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu, vị thế
của đất nước trên trường quốc tế ngày càng tăng cao. Đó là những thành tựu to lớn,
hết sức quan trọng, khẳng định được vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, Đảng ta đã luôn luôn chủ động sáng tạo trong đổi mới tư duy về kinh tế để
đưa ra được những đường lối, chính sách phát triển đúng đắn và phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể của đất nước.
Chính vì những lẽ trên nên em đã chọn đề tài: “Đường lối xây dựng và phát
triển nền kinh tế của Đảng thời kỳ đổi mới” để hiểu rõ, sâu hơn về đường lối của
Đảng trong quá trình hoạch định và phát triển nền kinh tế nước nhà.
2. Đối tượng nghiên cứu
Những đường lối, chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế của Đảng ta thời
kỳ đổi mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về đường lối xây dựng nền kinh tế của Đảng qua các thời kỳ.
Nắm bắt được các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế


3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích được những đường lối xây dựng nền kinh tế của Đảng ta trước và sau
đổi mới.
Nêu lên được những thành tựu mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được.
Nêu lên những hạn chế, nguyên nhân và những giải pháp xây dựng nền kinh tế
trong giai đoạn hiện nay.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian hạn hẹp nên em chỉ nghiên cứu một cách tổng quát về đường lối

xây dựng nền kinh tế của Đảng trước và sau đổi mới chứ chưa đi sâu phân tích một
cách cụ thể về từng ngành, từng lĩnh vực trong nền kinh tế. Nội dung bài tiểu luận
chỉ chủ yếu tập trung ở sách giáo trình và những số liệu được công bố trên mạng
internet.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp so sánh tổng hợp
Phương pháp phân tích, chứng minh
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp duy vật lịch sử,...
5. Ý nghĩa của đề tài
Qua việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho cá nhân em hiểu sâu hơn đường lối
của Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế nước nhà, bên cạnh đó việc nghiên
cứu này sẽ giúp em có thể nhận thức được vai trò cũng như trách nhiệm của mình
đối với việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, với
bài tiểu luận này em mong nó sẽ trở thành một tài liệu giúp ích được cho các bạn
sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu môn Đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm hai chương và bảy
mục nhỏ.


B. NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà những sản phẩm do nó
sản xuất ra là nhằm mục đích trao đổi, mua bán trên thị trường. Kinh tế hàng hoá
ra đời là cả một quá trình phát triển lâu dài, trải qua nhiều mô hình với những đặc

trưng khác nhau và nó có ưu thế hơn hẳn so với kinh tế tự nhiên.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường.
Nền kinh tế thị trường có ưu điểm đó là: Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng
cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận
cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ
chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy
mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản
xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất
lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị
đào thải.
Nền kinh tế thị trường có nhược điểm là: Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền
kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin
không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số
nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn
khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng
cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
1.1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường (quy luật cung - cầu, quy luật giá trị,...),
vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội.
Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của thị trường được sử dụng để phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ


nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Còn tính định hướng xã hội chủ nghĩa
được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân
phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong

một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức
và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết, đó không phải là
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy
đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa làm cho mô hình
kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
1.1.3 Cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là tổng thể các yếu tố cung, cầu, giá cả và thị trường cùng các
mối quan hệ cơ bản vận động dưới sự điều tiết của các quy luật thị trường trong
môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu duy nhất là lợi nhuận.
Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể (hoạt động)
kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và
cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để
nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị trường để
quyết định ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Ngược
lại, hoạt động của các chủ thể tạo nên sự tương tác nói trên. Như vậy, cơ chế thị
trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi
hoạt động của nhà sản xuất và 1 người tiêu dùng trong quá trình trao đổi.
Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học phúc lợi thì cơ chế thị trường là cách thức
tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, khi mỗi nhà sản
xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để có quyết định về sản xuất, sẽ không có sản
xuất thừa, cũng sẽ không có sản xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được đảm bảo do
không có tổn thất xã hội.
Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì các
điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo,
thông tin đối xứng, không có các ảnh hưởng ngoại lai, v.v...Trong nền kinh tế thị
trường, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa người sản xuất và người
tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ cung cầu.



Đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường là động lực lợi nhuận, nó chỉ huy hoạt
động của các chủ thể. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa chọn hình thức
sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: 'lãi hưởng lỗ chịu', chấp nhận cạnh tranh,
là những điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị trường
là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào thải.
1.1.4 Thể chế kinh tế và thể chế kinh tế thị trường
Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại
bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục... Thể chế kinh
tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể
kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Nó bao gồm các
yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các
chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý Nhà nước về
kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh
tế.
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ
thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao
dịch, trao đổi trên thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường bao gồm:
Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường - các bên tham gia thị
trường với tư cách là các chủ thể thị trường.
Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà các
bên tham gia thị trường mong muốn.
Các thị trường - nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu cầu,
quy định của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao
động, công nghệ, bất động sản...).
1.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới
1.2.1 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
So với thời kỳ trước đổi, nhận thức về kinh tế thị trường trong giai đoạn này có
sự thay đổi căn bản và sâu sắc. Đó là:

Thứ nhất, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà
là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành
trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt
trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường còn ở thời


kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến
mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến cho
không ít người nghĩ rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị trường
với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của
chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo
lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ một kiểu tổ chức kinh tế là phương thức tổ
chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường
làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người
với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ
không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc
trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Là thành tựu chung của văn
minh nhân loại, kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản
xuất khác nhau. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành
phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, đã đưa đến kết luận quan trọng rằng sản

xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần
thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ khác.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) đề ra nhiệm vụ
đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.


Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ
các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu là:
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, lỗ lãi tự chịu. Giá cả cơ bản do cung - cầu điều tiết, hệ thống thị trường
phát triển đồng bộ và hoàn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy
luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh. Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết
và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
1.2.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI
Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi

lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công
cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là
cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản
của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta:
Về mục đích phát triển: nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước
khá giả hơn.
Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần
kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền, phát huy tối đa nội lực để phát triển
nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho
sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các


vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người, hạn chế tác động tiêu cực của kinh
tế thị trường. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể
hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc
lợi xã hội, ngoài ra còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,

điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Trên cơ sở phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn, Đại hội XI của Đảng xác
định: Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được
củng cố và phát triển. Về lâu dài, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong 5, 10 năm tới,
không xác định thành phần kinh tế nào đóng vai trò nền tảng, kinh tế tư nhân là
một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình
thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
1.3 Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
1.3.1 Mục tiêu và quan điểm của Đảng
1.3.1.1 Mục tiêu
Mục tiêu cơ bản: Làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của
kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020.
Mục tiêu trước mắt:
Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và
các loại hình doanh nghiệp. Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty
đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp công.
Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả
nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.



Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, xã hội bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý,
phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.1.2 Quan điểm của Đảng
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các
yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể ché chính trị,
xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.
Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh
nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta, chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Chủ động, tích cực giải quyết các vấm đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức
xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3.2 Những chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là làm cho nó
phù hợp với yêu cầu và nguyên tắc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, làm cho nó vận hành thông suốt và có hiệu quả. Một số điểm cần thống nhất
là: cần thiết sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội;

kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của
chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp
và các tổ chức sản xuất kinh doanh:


Hoàn thiện thể chế về sở hữu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
dựa trên sự tồn tại khách quan nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
nhiều loại hình doanh nghiệp. Đó là yêu cầu khách quan. Do vậy, các yêu cầu này
cần được khẳng định trong các quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích
của các chủ thể sở hữu. Pháp luật cần quy định về sở hữu đối với các tài sản mới
như trí tuệ, cổ phiếu, tài nguyên nước...
Phương hướng cơ bản hoàn thiện thể chế sở hữu là:
Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước, đồng thời
bảo đảm và tôn trọng các quyền của người sử dụng đất.
Tách biệt vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý
toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách
chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản trị kinh
doanh của doanh nghiệp Nhà nước.
Quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối
với các loại tài sản. Đồng thời quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với xã
hội. Ban hành các quy định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Hoàn thiện thể chế về phân phối: Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ
chế thị trường và chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước,
bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội. Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo
đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, người lao động và của doanh nghiệp, tạo động
lực cho người lao động.

Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ
các loại thị trường:
Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Hoàn thiện khung pháp lý cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Đồng thời, hoàn
thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải
quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế. Đa dạng hóa
các loại hình thị trường hàng hóa và dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng phát
triển thị trường dịch vụ. Tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp cam kết quốc tế.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm,
môi trường và tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ và xử lý sai
phạm. Phát huy tốt vai trò điều hành thị trường tiền tệ của ngân hàng Nhà nước,
vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa kiểm soát lạm phát và từng bước mở rộng thị
trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng cho phù hợp với cam kết quốc tế.


Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển
lành mạnh của thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống các giao dịch
phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường.
Tạo điều kiện để phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần
kinh tế, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm, thực hiện lộ
trình mở cửa thị trường bảo hiểm theo cam kết hội nhập quốc tế.
Hoàn thiện luật pháp, cơ chế chính sách về tiền lương, tiền công trong đó tiền
lương phải được coi trọng. Hoàn thiện luật pháp cơ chế chính sách để giải quyết về
đất đai và bất động sản vận hành theo cơ chế thị trường.
Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý, hỗ trợ các tổ chức
nghiên cứu, úng dụng, chuyển giao công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học
và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước tăng cường đầu tư và đồng
thời đẩy mạnh xã hội hóa các ngành giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao; ban
hành tiêu chuẩn, tiêu chí về các hoạt động dịch vụ này, tăng cường quản lý Nhà
nước để hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường.

Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường:
Khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, đặc biệt ở các
vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các căn cứ cách mạng
trước đây. Xây dựng hệ thống bảo hiểm đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện luật pháp, chính sách
về bảo vệ môi trường, có chế tài đủ mạnh với các trường hợp vi phạm, xử lý triệt
để những ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ngăn chặn không cho phát sinh.
Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự
tham gia của các tổ chức quần chúng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội:
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở chỗ thường xuyên nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm, hoàn thiện hệ thống lý luận về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý
kinh tế của Nhà nước, thể hiện ở chỗ phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những mặt trái của kinh tế thị trường định. Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển. Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, tạo điều kiện để các tổ chức và nhân dân
tham gia tích cực và có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi, giám sát thực
hiện luật pháp, các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội.


Chương 2: Thực trạng việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta hiện
nay
2.1 Những thành tựu đã đạt được
Trãi qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới kể từ Đại hội VI của Đảng
(năm 1986) và gần 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Việt Nam đã thu được những thành tựu to
lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới với mô hình kinh tế tổng
quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa nước
ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.

Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần khắc phục những yếu kém và có những
bước phát triển mới. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990): GDP tăng 4.4%/
năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3.8 - 4%/năm; công nghiệp
tăng bình quân 7.4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 - 14%/năm,
giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục
tiêu phát triển về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã
phục hồi được sản xuất, làm tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,...
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: GDP bình quân tăng
8.2%/năm; sản xuất công nghiệp tăng 13.3%/năm; nông nghiệp tăng 4.5%/năm;
dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực đạt 125.4 triệu tấn, hầu hết các
lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của nền kinh tế thời kỳ mới; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá. GDP bình quân đạt 7%, trong đó, nông lâm ngư nghiệp tăng 4.1%;
công nghiệp và xây dựng tăng 10.5%; dịch vụ tăng 5.2%.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc
triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm
2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất
định, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, GDP tăng bình quân 7.5%/năm;
trong đó nông nghiệp tăng 3.8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10.2%; dịch vụ
tăng 7%. Năm 2005 Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng
thứ hai về các mặt hàng như gạo, cà phê, hạt điều; thứ tư về cao su;...


Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo

đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ,...
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực
và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. GDP
bình quân đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu (từ cuối năm 2008) nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
vẫn đạt mức cao. Tổng vốn FDI đạt gần 45 tỉ USD, tổng vốn ODA cam kết đạt
trên 31 tỉ USD.
Giai đoạn 2011 - 2015: Đây là giai đoạn tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó
khăn, nhiều biến động do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008. Tuy vậy, mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt gần 7%/năm.
Nhìn chung các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp đã bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú
về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh,
bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị
trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiêp mới, công
nghệ cao; lĩnh vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn sản xuất với thị trường:
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi
đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh
và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại. Tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ
cũng đã tăng nhanh. Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc
canh lúa nước, năng suất thấp và thiếu hụt lớn sang không những đủ dùng trong
nước còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới; xuất khẩu cà

phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu đứng thứ hạng cao trên thế giới. Các ngành dịch vụ
đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống.


Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy
ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế:
Kinh tế Nhà nước được đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn
vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế
quản lý doanh nghiệp Nhà nước được đổi mới theo hướng xóa bao cấp, thực hiện
mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong
kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các
nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình
thành và hoàn thiện, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định:
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của
Nhà nước được đổi mới. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng
được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), thực hiện các cam kết về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với gần 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng
và hoàn thiện; chủ trương đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa
thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường
đầu tư kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp

tục hình thành, phát triển.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Những thành
tựu đó khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành
công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan
trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho
Việt Nam ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


2.3 Hạn chế và nguyên nhân
2.3.1 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những hạn chế yếu kém như:
Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ,
chưa đồng bộ và thống nhất.
Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp Nhà nước chưa giải
quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản Nhà nước, nhất
là khi cổ phần hóa. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân
biệt đối xử. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc. Các
yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ,
vận hành chưa thông suốt. Thị trường tài chính, bất động sản, khoa học và công
nghệ phát triển chậm, quản lý Nhà nước đối với các loại thị trường còn nhiều bất
cập. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Cơ chế “xin - cho” chưa được xóa
bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân. Điều hết sức đáng
quan tâm là những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
chưa được tăng cường còn nhiều hạn chế yếu kém.
2.3.2 Nguyên nhân
Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân:

Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề
hoàn toàn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế do công tác lý luận chưa theo kịp đòi
hỏi của thực tiễn.
Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước còn chậm,
nhất là trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các cơ quan
dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp còn yếu.
2.4 Một số giải pháp xây dựng và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
để xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ
trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đạt hiệu quả
cao với tốc độ nhanh.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác tài nguyên quốc
gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới về khoa học của thế


giới, hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng
cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.
Do hiện nay nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp nên ta phải tận dụng, khai thác
nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với quản lý sử dụng tốt,
có hiệu quả cao và khai thác tối đa khả năng vốn đã có.
Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân lực,
đảm bảo cơ cấu, tốc độ và quy mô phát triển hợp lý, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời
kỳ. Đồng thời bố trí, sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phải phát huy
đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của mỗi người để họ
tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp đổi mới của đất nước.
Để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, cần phải xây dựng một đường lối kinh tế

đối ngoại đúng đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa kết hợp được sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, vừa giữ được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Hoàn thiện đầy đủ về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo mọi điều kiện thuận nhất có thể cho các doanh nghiệp, các cá thể tham gia sản
xuất hàng hóa và cạnh tranh trên thị trường.
Chú trọng xây dựng và phát triển giáo dục đào tạo, để tạo ra được lực lượng lao
động có trình độ cao đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế tri thức.


C. KẾT LUẬN
Sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi thành công từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể
chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và những bài học kinh nghiệm quan trọng nhưng bên cạnh đó
cũng còn những tồn tại yếu kém trong khi yêu cầu hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới ngày càng khẩn trương và sâu rộng hơn.
Toàn cầu hoá về kinh tế đang đặt ra cho các nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Chúng ta phải chủ động
hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, tìm ra
những thế mạnh của Việt Nam để phát huy đồng thời hạn chế và khắc phục những
mặt yếu kém, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực nhằm thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa trong những giai đoạn tiếp theo.
Là sinh viên, là những chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta cần phải hành
động ngay hôm nay, ngay bây giờ bằng cách cố gắng phấn đấu vươn lên trong học
tập, trao dồi rèn luyện phẩm chất đạo đức để sau này trở thành người công dân có
ích cho xã hội, cùng tham gia lao động sản xuất với toàn dân góp phần xây dựng
nền kinh tế nước nhà, xây dựng nước Việt Nam ta ngày càng giàu đẹp hơn, văn

minh hơn.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Bảng công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội,
Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2012), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng
sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ giáo dục và đào tạo (2013), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hoàng Thị Kim Liên (2016), Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng cộng
sản Việt Nam.
6. Một số website như:
nlv.gov.vn/submit-weblink/bao-dang-cong-san-viet-nam.
www.baomoi.com/Tag/Tạp-chí-Cộng-sản.epi.
www.tapchicongsan.org.vn.



×